Bệnh tim mạch ngày nay

 Hai tuần nay, đi đám tang con gái cô giáo việt-văn bị stroke rồi nghe ông nghệ sĩ Chí Tài bị đột quỵ nên đồng chí gái lo-ngại hỏi mình về vụ này.

Mình theo dõi từ mấy năm nay, hai ông bác sĩ chuyên về tim mạch Gundry và Eseltyn và gần đây một ông gốc Ấn Độ tên Adir Ali ở Texas. Lý do là những chuyên gia đã mỗ tim trên 10,000 bệnh nhân, thay van tim bệnh nhân từ mấy chục năm qua nhưng ngày nay họ thấy cứ tiếp tục thì không cứu được bệnh nhân vì trung bình 2-5 năm là bệnh nhân trở lại phòng mỗ, chỉ giúp họ thêm giàu có.

 

Tình cờ gặp các bệnh nhân lành sau thời gian mỗ tim thì mới khám phá ra nhờ dinh dưỡng giúp họ không bị nghẹt van tim nữa và từ đó họ nghiên cứu với các bệnh nhân của họ rồi viết sách sau 20 năm nghiên cứu. Mình đang đọc về vitamin K2 giúp hoán chuyển bệnh tim mạch. Hôm nào rảnh sẽ kể.

 

Gặp bác sĩ thì họ nói cuối đời người ta chỉ hò hẹn với ung thư hay bệnh tim mạch. Bệnh tim mạch thì họ giải thích là tim hoạt động lâu ngày nên yếu dần khi về già. Mấy van tim, động mạch sẽ phải được thay thế đến khi tim không còn hoạt động nữa.

 

Có vài bác sĩ về tim mạch cho hay là tim mạch tốt hay không là do thức ăn mà chúng ta đưa vào miệng, giúp hệ miễn dịch hay phá hoại hệ thống miễn dịch, đứng hơn là bộ lòng, ruột non. Nếu ăn uống dinh dưỡng đàng hoàng thì sẽ giúp tái tạo lại các mạch tim,...

 

Họ cho biết là lúc mới ra nghề thì đa số các bệnh nhân mổ van tim là người hút thuốc lá. Các van tim bị nghẹt thì được thay thế phần đó còn các van tim còn lại vẫn tốt. Ngày nay thì đa số các người bệnh nghẹt van tim đều to béo, bệnh tiểu đường,..quan trọng nhất là ai nấy đều có cái bụng bự đầy chất béo. Nguy hiểm hơn là các van tim của họ bị hư hại rất nhiều, bị nghẹt nhiều nơi. Xem như hệ thống mạch máu bị hư hại rất nhiều.


Bác sĩ Leonard Bailey, chuyên gia thay tim cho trẻ em, cần dùng các loại thuốc cực mạnh immunosuppressant khi thay tim cho trẻ em khi nhận một trái tim khác. Loại thuốc này thường được thấy quảng cáo trên đài truyền hình, kêu bệnh nhân hỏi bác sĩ riêng cho loại thuốc này. Quảng cáo luôn luôn đề câu nếu bạn bị hiệu chứng gì đó thì phải báo bác sĩ ngay, cho thấy thuốc này không hiệu quả.  Các bác sĩ hỏi tại sao họ quảng cáo các loại thuốc cực mạnh và độc hại.

 

Người ta nghĩ là trẻ em được ghép tim, lớn lên sẽ bình thường hoá tim người khác, cao tuổi hơn mình, họ khám phá các mạch máu của các em này tương tự của người lớn bị tiểu đường, bệnh béo phì,… có lẻ vì vậy khi thay van tim, người ta dùng mạch máu của chân để thay vì nếu thay của người khác là sẽ lãnh nợ, thừa hưởng hết những cái xấu của họ.

 

Từ đó người ta mới suy ra là các bệnh về tim mạch đều thuộc về miễn dịch học. Các trẻ em được ghép tim của người lớn thì các tế bào của người hiến tặng sẽ tấn công hệ thống miễn dịch của đứa trẻ. Họ đặt câu hỏi; lý-do hệ thống động mạch của người bệnh tiểu đường, lại tàn phá hệ thống động mạch của đứa trẻ.

 

Câu trả lời đã làm thay đổi các kiến thức của họ từ mấy chục năm nay và phải làm lại từ đầu với những khám phá khoa học mới. 

 

Họ khám phá khi mổ thay van tim cho các bệnh nhân bị tiểu đường, bệnh béo-phì đều gặp metabolism syndrome. Các bệnh nhân này đều bị bệnh tim mạch bởi phản ứng miễn dịch.

 

Họ xét nghiệm các loại voi trong rừng già ở phi-châu, chỉ ăn toàn lá cây, cỏ, không bị bệnh tim mạch. Ngày nay, môi trường thiên nhiên bị tàn phá, ô-nhiệm nên người ta cho voi ăn rơm và hạt đậu nành , bắp GMO. Kết quả cho thấy 50% giống voi được nuôi bằng hạt Ngô, đậu nành, cỏ,…bị bệnh tim mạch. Khỏe như voi mà cũng bị bệnh tim mạch khi tiêu thụ các loại hạt GMO.

 

Mình ngạc nhiên cho rằng voi to lớn còn người khác nhau thì có ăn nhập gì nhưng họ lại bảo voi và người có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều có các phân tử đặc biệt để kết nối lectin, gọi là N-acetylneuraminic acid (Neu5Ac). Đa số các động vật hoang dã như voi không có glycolyneuraminic acid (Neu5Gc). Con người thì đã mất khả năng để cấu tạo chất acid này.

 

Do đó mấy con khỉ nuôi trong chuồng bằng hạt đậu, ngô không bị xơ vữa động mạch hay bệnh tự-miễn-dịch. Con khỉ không có các phân tử dễ hấp thụ lectin như loài người và voi sở hữu.

 

Sự hiện diện Neu5Ac trong mạch máu và trong đường ruột của chúng ta cho thấy hậu quả ăn nhiều chất đạm của hạt sẽ giúp chóng già, lão hoá. Các loại động vật mà con người ăn như bò, heo, cừu) không có Neu5Ac trong mạch máu nhưng lại có Neu5Gc.

 

Neu5Ac và Neu5Gc có công thức hoá-học tương tự nên hay bị nhầm lẫn nên hệ thống tự-miễn-dịch tấn công các mạch máu, bởi một loại cytokine thường được gọi là Interleukin 16.

 

Họ yêu cầu các bệnh nhân tim mạch ngưng ăn thịt bò, heo, cừu thì chỉ số interleukin 16 giảm rất nhiều, gần như 50%. Xem như họ có thể phục hồi hệ thống tim mạch của họ trong vòng 5 năm nếu chịu khó kiêng ăn thịt. Họ xét nghiệm 81,000 người trong vòng 5 năm và theo dõi kế tiếp 9 năm để khảo sát về bệnh tim mạch. Kết quả cho thấy là người nào ăn nhiều chất đạm thịt có đến 150% tỷ lệ chết vì bệnh tim mạch hơn các người chỉ ăn rau cải và đậu,…

 

Năm 2018, đại học y-khoa Augusta khám-phá ra nếu dùng 1 milkshake sẽ khiến hệ miễn dịch phản ứng như bị nhiễm trùng rất nặng. Milkshake vừa là sữa tươi vừa có đường rất nhiều và tinh bột.

 

Ngoài ra, năm 2018, có nghiên cứu trên 22 triệu bệnh nhân thì được biết bệnh viêm ruột Inflammatory bowel disease (IBD) là cái dù của các bệnh Ulcerative Colitis và Crohn. Họ được biết số người bị bệnh viêm ruột có tỷ lệ bị đột quỵ gấp hai lần những người không bị bệnh IBD.

 

Kết quả các cuộc thử nghiệm này chứng minh sự liên hệ giữa bệnh tim-mạch và hệ miễn dịch và bệnh tim-mạch khởi đầu từ đường ruột của chúng ta.

 

Các bác sĩ về tim-mạch cho rằng  chúng ta trẻ hay không là tuỳ thuộc vào sự linh-hoạt của các mạch máu. Đứa bé được ghép tim người lớn, sẽ bị ảnh hưởng của tế bào của người hiến tặng. Xui mà gặp người bị bệnh đủ trò thì phiền.

 

May thay chúng ta có những hợp-chất Polyphenol thường tìm thấy trong rượu đỏ, dầu olive giúp tái tạo lại đường ruột, hệ-thống miễn nhiễm.

 

Sau khi bị giải phẫu mấy lần tim-mạch, cựu tổng thống Clinton đã tuyên-bố sẽ ăn chay để tìm sự sống.


Có điểm hay là các người sống chung cùng một nhà thì hệ thống miễn dịch đều như nhau. Các bác nào về Việt Nam tìm chân dài, trẻ trẻ thì sẽ hấp thụ được các vi khuẩn của hệ miễn dịch các em chân dài, sẽ sống thọ hơn. Ngược lại các em chân dài mà sống với các cụ lão niên thì sẽ bị chết sớm. Chán Mớ Đời 

 


Nhs

Uống sữa tươi có hại cho sức khoẻ?

 Ở Việt Nam, mình chỉ uống sữa lon, khi sang tây thì mỗi lần uống sữa tươi là mình bị tiêu chảy nhưng uống quen thì hết bị. Mỗi lần đi ăn ở tiệm cơm đại học Resto-U là mình mua thêm bình sữa nhỏ để uống với thức ăn cho bổ trong khi tụi bạn Tây thì hay mua thêm chai rượu đỏ để uống. Ra trường thì mình đi ta-bà, tứ xứ nên cũng không uống sữa tươi. Ở Luân-đôn thì người Anh Quốc có màn giao sữa tươi tận nhà. Cứ sáng mở cửa là thấy họ để chai sữa rồi mình để chai hôm qua cho họ. 

 

Gần đây, đọc tài liệu thì họ cho biết uống sữa bò hay tiêu dùng các phô-mát làm bằng sữa bò không tốt. Họ nói sữa bò để nuôi con bê thành con bò to béo trong mấy tháng nên cơ thể con người không thể nào chịu nổi các kích thích tố của sữa nhất là sữa của bò công nghiệp hiện đại.


Dạo mình ở Thuỵ Sĩ thì nghe dân ở đây nói là bò ăn cỏ tươi, tạo ra sữa thì họ làm beurre để dành ăn vì loại này tốt vì khi mùa đông đến thì bò được nuôi bằng rạ khô, mất chất tốt. Ngày nay beurre thường được làm bởi sữa bò công nghiệp thêm các hoá chất. Bơ bên Âu châu thì mềm còn bên Mỹ thì cứng như cục đá. Kinh

 

Người ta nghiên cứu các vùng xanh (Blue zone) nơi dân cư sống thọ nhất trên thế giới thì không thấy họ uống sữa bò hay tiêu thụ phô-mát làm bằng sữa bò, thậm chí họ cũng ít ăn thịt bò. Khi mình đi viếng Ý Đại Lợi, Hy-Lạp thì đa số người dân ở miền quê ăn phô-mát và uống sữa dê. Điển hình là món xà-lách hy-Lạp được trộn với phô-mát làm bằng sữa dê.

 

Người ta lý giải là 2,000 năm về trước ở âu châu, có một hoán chuyển của các giống bò tại đây, từ Casein A2 qua Casein A1.

 

Casein từ tiếng La-tinh “caseus “ (phô-mát), thuộc về loại “phosphoproteins) thường thấy trong sữa của động vật . Gồm 80% chất đạm trong sữa bò và từ 20% - 45% chất đạm của sữa người. Trong sữa bò có nhiều nhất sodium caseinate, được biết sữa bò làm phô-mát được bỏ thêm rất nhiều muối để khỏi bị hư nên ai bị áp huyết cao thì không nên dùng phô-mát.

 

Người ta cho rằng bồi dưỡng sữa bò vì có nhiều chất calcium giúp chắt xương. Người Tây-phương uống sữa bò rất nhiều từ bé nhưng vẫn bị loãng xương. Mình nhớ dạo sang Hoà-Lan chơi, ở nhà tên bạn, mỗi ngày thấy hắn uống 1 lít sữa tươi, hắn cao hơn mình một cái đầu.

 

Theo nghiên cứu của một bác sĩ nhật làm việc tại Hoa Kỳ và Nhật Bản thì sữa có nhiều acid nên khi tiêu thụ thì cơ thể phải lấy calcium từ xương để bảo hoà do đó người lớn tuổi ăn phô-mát hay uống sữa đều bị bệnh loãng xương. Ông cho thí dụ; người nhật khi xưa không uống sữa bò, nhưng từ khi quân đội Hoa Kỳ đóng quân tại Okinawa, người nhật được giới thiệu sữa bò và sử dụng trong đời sống thường nhật, kết quả là họ bị loãng xương như người tây phương.

 

Trong thời gian tiêu hoá, casein A1 biến thành beta-casomorphin-7, một loại opiod peptide gắn liền với tuyến tuỵ, tạo các tế bào insulin gây nên cuộc tấn công vào hệ miễn dịch. Người ta cho biết thường là nguyên nhân của bệnh tiểu đường loại 1. Do đó tạo ra tiêu chảy khi người á đông không quen uống loại sữa bò này. Cho thấy là không phải sữa bò mà vì chất casein A1.

 

Ngày nay, bò được nuôi theo kiểu công nghệ nên họ cho ăn các loại Ngô, đậu nành GMO thêm thuốc kháng sinh và Roundup mà chúng ta biết công ty Monsanto bị thưa mấy trăm triệu vì tạo ra ung thư.

 


Mình rất thích ăn phô-mát nhưng nay chỉ giới hạn với loại sữa dê vì cơ thể chúng ta không thể nào lớn như con bò được.

Nhs

 

 

Giáng sinh cuối cùng tại Đàlạt

 Gần đến giáng sinh lại nhớ vài kỷ niệm về Đàlạt xưa khi thế giới chào đón ngày chúa Giê-su ra đời. Nếu mình không lầm thì gần đến giáng sinh, trời Đàlạt rất lạnh, gió thổi mạnh, ai nấy ra đường đều phải bận áo len hay áo manteau. 

Tối ngủ, nghe tiếng gió rít lên trong không gian, thổi qua dàn hoa dã-quỳ sau nhà rồi thông qua các cục gạch lỗ thông hơi, thường được xây trên các cửa sổ và cửa. Trời lạnh mà gió lại thổi vào phòng, cái mền nhà binh mà ông cụ đem về khi giải ngủ, không chống được cái lạnh thời ấy.

 

Khí hậu tại Việt Nam ẩm ướt nên người ta hay xây các cục gạch thông hơi trên các cửa sổ, cửa ra vào để bớt độ ẩm. Cô em mình mới cho thợ làm nhà lại, thêm phần chống độ ẩm sau 50 năm. Mình là trưởng nam nhưng chả làm gì cả, cô em út một tay lo hết. Cho nên sinh con gái thì nhờ. Con trai thì bên vợ nhờ. Ngày nay người ta nói con trai là con người ta, con rể mới là con nhà mình. Người Việt muốn sinh con trai để tặng không cho thiên hạ, đã nói lên lòng tốt của người Việt từ mấy ngàn năm qua.

 

Ông cụ giải ngủ, nhờ tướng Nguyễn Chánh Thi, anh chú bác của ông ngoại mình can thiệp, đem về gia tài của mấy năm đi lính từ 18 tuổi, khi bị du-kích ở làng, tìm cách giết, chạy trốn vào Nam. Gia tài gồm 1 hộp cứu thương y-tá, mấy ống kim chích, kéo để cắt các băng-bó, cái mũ cối bằng sắt, được bà cụ sử dụng làm cái cối để quết thịt với cái chày và cái mền nhà binh, màu cứt ngựa. Ngoài ra có cái huy chương anh dũng bội-tinh, tuyên dương công trạng, chạy dưới mưa đạn của Việt Cộng để băng-bó cho đồng-đội bị thương. Mình không nhớ trận nào, Đồng Xoài hay Pleime. Lâu quá, chắc sau 75 thì đã phi tang dấu tích của chế độ cũ.


Dạo ông cụ mới giải ngủ, chưa có công ăn việc làm thì đi chích dạo vì từng làm y-tá trưởng trong quân đội. Khi ông Bảo Đại thoái vị, ông cụ từ Ngự Lâm Quân, được chuyển qua quân đội mới thành lập của ông Diệm nên được cử đi học y-tá hay tham mưu để lên sĩ-quan. Bà cụ nói học y-tá để sau này có cái nghề, bạn quân ngủ của ông cụ sau này đều là tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Sau này, giải ngủ học thêm ban đêm ở trường Thăng Long (Hiếu Học), thi đậu vào ty Công Chánh cùng thời với ông Đượm nên ngưng nghề chích dạo.


Sau này đi tù cộng-sản, nhờ kinh-nghiệm y-tá chiến trưởng nên đã cứu vài người bạn tù sống sót. Có một anh bị tù chung với ông cụ, kể là nếu không có ông cụ cứu trong tù thì đã chết. Sau này, anh ta hay đến nhà thăm bố mình. Mình có ghi-âm vụ ông cụ kể vị bác sĩ quân-y Việt Nam Cộng Hoà, chỉ cách cứu chữa bệnh cho lính ngoài mặt trận nên khi đi tù, cứu được khá nhiều người.

 

Thời còn bé, mỗi lần giáng sinh thì sáng hôm sau, mình bị ăn đòn. Ông cụ hay đi nhảy đầm vào đêm giáng sinh hay Tết tây với bạn bè. Khi tan tiệc, Ông cụ hay đem 1 hay 2 cái bong bóng dùng để trang hoàng về cho con. Ông cụ để bong bóng bay ngoài phòng khách rồi đi ngủ.

 

Sáng mình dậy sớm với cô em kế, thấy bong bóng lơ lững đụng trần nhà thì cứ nhảy lên để chụp sợi dây buột cái bong-bóng nhưng không được vì cao quá nên hai anh em bàn tính làm sao để lấy, bắt ghế thì nặng nên phải kéo lê dưới sàn nhà, gây tiếng động, làm ồn khiến ông cụ ngủ không được nên khi dậy, ông đem cái chổi lông gà ra quất mình một trận.


 Một sáng, sau đêm Noel thì mình thấy một chiếc xe 2 CV đậu ngoài sân, họ lấy cục gạch chắn cửa của nhà mình để chận cái bánh xe đàng sau. Mình tức vì thấy họ lấy cục gạch mà không xin phép nên rủ cô em kế, tìm cách lấy cục gạch lại.

 

Khi cục gạch được lấy ra thì mặt cô em xanh như đít nhái, miệng ú ớ chỉ chiếc xe, không người lái từ từ chạy lui về sau theo con dốc. Mình thất kinh, ú ớ, đứng một chỗ rồi không biết làm gì đến khi chiếc xe từ từ như cuốn phim quay chậm, chạy thụt lùi, từ-từ đụng cây Mái, rớt xuống cái đường mương, nghe cái Rầm nghiên qua bên phải.

 

Hai anh em sợ quá chạy vào nhà, trốn dưới giường cả buổi sáng. Bà Hai, hàng xóm, la hét, kêu thằng Sơn đâu rồi. Mình không hiểu lý-do, cứ trong xóm có chuyện gì lạ lạ, bất thường, thiên hạ cứ định hướng về mình như truy tìm thủ phạm. Chán Mớ Đời 


Cạnh nhà mình có gia đình ông Khoa, bố của anh Bình, dạy con nít trong xóm. Anh Bình, đi theo cách mạng rồi bị bắt, đày ra Côn-đảo, sau được tha, đổi tên, làm thầy giáo gõ đầu trẻ trong xóm. Chỉ tội là học trò, không đứa nào thi đậu vào trường Trần Hưng Đạo và Bùi Thị Xuân. Mình gặp lại chúng ở trường Văn Học như Huỳnh Kim Sang, Phạm Văn Bình. Mình nhớ thằng Dư và thằng Sửu, được xem là học trò cưng của anh Bình, cũng thi rớt.

 

Anh Bình có một cô em gái chưa chồng, tên C, hay ăn diện, không biết làm nghề gì. Giáng sinh cô đi ăn tiệc, nhảy đầm rồi ông tây nhà đèn, chủ nhân chiếc 2CV chở về rồi ngủ lại nhà đêm đó nên đậu xe trước sân. Chiếc xe cũ, không có thắng tay nên ông Tây nhà đèn, lấy cục gạch mà gia đình mình dùng để chắn cửa khi mở ra để khiên đồ vào. Khiến mình bị la oan ức hôm sau.


Có một giáng sinh khá đặc biệt, khi mình chơi với thằng Hùng, con bác Lê Công Oai, làm trên Trung Tâm Thẩm Vấn. Nghe nói bác chuyên bắt nằm vùng Đàlạt, thằng Hùng kể bác ấy phải đi moi thùng rác, kiếm các hòm thư của dân nằm vùng. Nếu mình không lầm thì thằng Vui, ở xóm mình, bị bác theo dõi bắt. Có lần bác chở hai thằng đi tập võ ở Adran. Chưa tới giờ tập nên lên trung tâm thẩm vấn chơi, bác dắt đi, mở một xà-lim rồi kêu tên nào trong ấy, khai đi rồi được thả về.

 

Mình thất kinh khi thấy thằng Vui ngồi trong xà-lim vì khi xưa hắn hay chơi bắn bi với mình trong xóm. Hắn hơn mình độ 3, 4 tuổi, học trường Trần Hưng Đạo. Bổng nhiên thấy hắn mất tích nay mới biết là nằm vùng. Sau đó mình có cái nhìn nghi ngờ về đám bạn học, tự hỏi thằng nào nằm vùng. Trong lớp có vài tên mình nghi, vì ăn nói rất chống ông Thiệu, sau này về Đàlạt thì bạn bè mới xác-nhận. 

 

Một hôm, ông Ưng Quyền, bác của chú Bửu Ngự, hỏi mình có muốn con chó cái không. Chó nhà mới sinh, ông ta lựa hai con để nuôi, cho con chó mẹ và mấy con chó con khác. Mình nói nhà đã có chó rồi, để cháu hỏi bạn cháu. Mình thấy thằng Hùng hay đi xin chó thiên hạ nên hỏi thì nó cười như thằng Bờm được Phú ông tặng nắm xôi. Mình dẫn nó đến nhà ông Ưng Quyền để hắn xin chó.

 

Con chó cái nhà ông Quyền rất dữ, mình ít khi dám vào nhà này vì nó. Thằng Hùng thì không sợ chó, nó đem theo sợi dây với cái mõm chó. Hình như nó có uy lực với chó. Nó quơ tay làm sao mà cái đồ buột mõm chó dính vào rồi thò tay quấn qua cổ con chó cái sợi dây xích rồi kéo con chó đi về, trên đường Hai Bà Trưng, rẽ vào hẻm khu nhà Cò Đào, hai ông thần thợ may Sơn và Tánh. Con chó cứ rị lại, thằng Hùng thì kéo sợi dây. Mình rất phục tài bắt chó của tên bạn một thời.

 

Nó kêu mình ghé lại nhà nó, trước nhà trung-tá Tốn, ăn réveillon khiến mình mừng mệt thở vì cứ nghe thầy cô nói về réveillon mà chưa bao giờ thưởng thức. Đúng ngày giờ, gia đình nó đi lễ ở nhà thờ cạnh Nhà Xác về thì nó chạy xe Honda của bố nó, chở lên ăn réveillon. Bố nó người gốc Thừa Thiên, còn mẹ gốc Quảng,

 

Thằng này to xác nhưng thấp người, ăn rất khoẻ. Mỗi lần đến nhà mình ăn cơm là nó quơ cái rẹt 4 chén mới ngưng. Dì Nhơn phải nấu cơm thêm. Lâu lâu mình cũng được mẹ nó kêu ở lại ăn cơm. Cơm nhà nó chỉ có cơm với rau luộc của Đàlạt, chấm nước mắm thêm cái hột vịt luộc dầm ớt ở trong cái chén.


Khi xưa, cả nhà ăn một cái hột vịt trong chén nước mắm, nay ở mỹ thì vào tiệm ăn sáng, họ làm cho omelette đến 3 quả trứng. Kinh

 

Hôm đó, không biết sao nhà nó làm cơm rất thịnh soạn, thịt nướng, dồi trường,….Dọn đầy mâm, chắc để mừng chúa cứu thế, mình ước thầm ngày nào cũng có chúa ra đời. Nếu mình không lầm thì nhà nó có cái bàn ăn thấp, rồi mỗi người có cái đòn để ăn. Không có bàn cao như ở nhà mình với ghế đẩu. Bác Oai lo bắt nằm vùng nên không có thì giờ kiếm tiền thêm cho vợ con. Nhà có cuộn dây kẽm gai tròn để kéo ra khi đóng cổng khi trời tối, sợ nằm vùng đột nhập. Có lần cạnh nhà mình trên đường Thi Sách, nhà ông Đề, giám đốc trung tâm thẩm vấn, có nằm vùng tìm cách đột nhập vào nhưng bị mấy cái lon bia, coca gắn nơi cuộn hàng rào kèm gai, báo động. Mình nghe tiếng súng đủ trò. Phòng mình nằm ngay đường Thì Sách và các dốc từ Hai BÀ Trưng lên Thi Sách.

 

Hôm đó mình ăn rất nhiều, bác Oai gái rất ân cần, thân tình như người trong nhà, kêu mình ăn thêm món dồi, gắp cho mình món thịt luộc chấm, bới món Tiết canh, khác với mọi lần mình ở lại ăn cơm, khuôn mặt không được vui lắm khi thấy mình và cơm nhanh không kém thằng Hùng. Có thể nói là bữa ăn ngon miệng nhất tại nhà bạn của mình thời ở Đàlạt. Hôm đó, mình được Chúa đãi.

 

 Ăn xong mình xin phép ra về, mình nói với thằng HÙng ăn réveillon ngon quá, sang năm nhớ rũ tao. Nó nói mày ráng xin con chó là được liền. Mình hỏi tại sao xin chó, nó kêu có chó mới có thịt mà ăn. Mình hỏi thịt hôm nay là thịt chó nhà ông Ngự, nó gật đầu. Mình thất kinh chạy về nhà, kể cho Mệ ngoại mình khiến bị mệ chửi te-tua.  Từ đó sợ đến già, không dám ăn thịt chó nữa. Đi đâu cũng thấy chó gầm gừ, chạy xe gắn máy, chó ngửi mùi chó, chạy theo sủa vang trời, chân phải co lên trời để khỏi bị chó táp.

 

Kỷ-niệm khác với thằng Hùng, nhớ đời với hắn. Hy vọng có ngày gặp lại hắn để ôn lại chuyện này. Hắn tập Thái Cực Đạo với mình nên hay xuống nhà chơi. Con nít thì giỡn nhau, xịt nước, khiến bà Thường hàng xóm ngủ trưa không được nên bà ta hay la nó vì hay nhái giọng bắc kỳ của bà. Bà này, khi xưa, con gái bà ta sinh con xong là sáng nào cũng đem cái cốc, sang nhà mình kêu mình đái trong đó để cho cô con gái uống bổ chi đó. Đó là thời vàng son của mình, được phụ-nữ xin nước tiểu.

 

Một hôm, nó đến nhà mình chơi, hai thằng không biết chuyện gì chơi vào buổi trưa nên mình rũ lên gác trên trần nhà, đi qua nhà hàng xóm chơi. Gia đình mình ở cư xá Công Chánh, một dãy nhà gồm 7 căn hộ, được xây dính chùm vào nhau. Cách thiết kế của pháp khi xưa là mỗi căn hộ được chia làm 2: phần nhà ngủ và nhà bếp và phòng ăn phía sau. Có 6 căn hộ, ở giữa, có căn hộ chính, để làm nhà hội cho mấy gia đình, tiệc tùng hay hội họp. Mình thấy cư-xá Pasteur trên đường Thi Sách, nhà của thằng Cường, sau này đi Võ Bị, cũng là nhà hội cho dân cư-xá Pasteur. Còn nhà vệ-sinh thì phải đi về phía cuối xóm, có nhà vệ-sinh gồm 3 căn, 2 phòng tắm và 1 hồ chứa nước để giặt quần áo.


Sau này, mấy gia đình đông con, nhà hội dành để ở nên mỗi gia đình tự làm thêm cầu tiêu, nhà tắm sau nhà để khỏi phải đi cầu tiêu công cộng.


Nhà tầng trệt nhưng dưới mái nhà lại ăn thông với nhau. 3 căn nhà nằm hai bên căn nhà hội, sau này được trưng dụng để ở luôn. Dạo ấy nhà ông Khoa, anh Bình dọn đi thì gia đình ông Tước dọn đến từ Ban-mê-thuột.

 

Mỗi căn được xây bằng hắc-lô lên tới nóc nhà nhưng ở giữa có cái lỗ ăn thông qua nhà bên cạnh. Mỗi nhà đều có một tấm gỗ trên trần nhà để có thể gỡ ra, leo lên để xem xét điện được câu vào nhà. Mình có leo lên thám hiểm một vài căn nhưng tối om, chuột nên sợ, không dám đi đến cuối xóm nay có thằng HÙng thì mình muốn đi xa xa để xem.

 

Nghe nói trò chơi thám hiểm là nó nhất trí ngay, hai thằng đu tòn-ten lên trần nhà, mình đi trước, hắn theo sau. Mình dặn hắn là cẩn thận, đi trên mấy cái đà, không được dẫm lên tấm gỗ trần nhà của nhà người ta trên đường đi. Mới qua nhà bà Thường thì đến nhà bà Tước.

 

Để giải thích rõ hơn vì có mấy O hàng xóm khi xưa, mới tìm lại năm nay, sẽ đọc bài này. Hy-vọng mấy o ni còn nhớ chuyện này để bổ túc thêm vì mình không nhớ rõ. Mái nhà nghiêng nên chỗ đỉnh cao nhất của nóc nhà mới đi được. Chỗ nhà bà Tước thì cái mái được xây cao hơn nên hai cái tường được xây cao hơn nên họ để một cái lỗ nơi tường, không bít gạch để đi qua nếu cần.

 

Mình đi qua nhà ông Mãn, bà Thường thì không sao, đến nhà ông Tước thì có tường xây lên cao và chỉ có một cái lỗ độ 30 cm x 40 cm. Mình kêu thằng Hùng cẩn thận, mình chui qua được nhưng đến phiên thằng này chui qua lỗ thì có chuyện. Hắn to con nên chui không qua, xớn-xác nó làm rớt một cục gạch trên trần nhà nghe cái rầm khiến mình đứng tim.

 

Ở dưới nhà mình nghe: “Tèo làm gì đó, ngủ đi”, tiếng nói của chị TC, nay đã qua đời. Hai thằng tái mặt, quýnh quá mình ra hiệu thằng Hùng quay lại. Nó vừa xoay đầu thì mình nghe cái rầm. Thấy nó lọt xuống nhà bà Thường rồi các tiếng loạn xà-ngầu tạo nên một loại âm thanh khá độc đáo.

 

Hoá ra, lúc quay lại, thằng hÙng, quên, thay vì đứng trên các đà, nó dẫm chân lên tấm gỗ của trần nhà, nơi có chỗ leo lên gác của gia đình Bà Thường. Tấm gỗ này lại nằm ngay vị trí bàn thờ tổ tiên của gia đình này nên khi thằng hÙng té xuống thì rớt ngay trên bàn thờ nhà thiên hạ, làm lư đèn, chuối nải rơi hết xuống đất. Cũng may là Chúa đỡ nó, rớt xuống bàn thờ thì độ cao bớt cả nếu rớt ngay xuống đất từ 2.5 mét là gãy giò.

 

Mình sợ quá, chạy về nhà rồi nghe tiếng bà Thường la hét, chửi đồ mất dậy. Mày phá bà, không cho bà ngủ,… mình chạy lại nhà bà Thường, mặt thơ ngây, hỏi chuyện gì vậy thì thấy thằng Hùng từ từ đi ra cửa, mặt mày nó ngơ ngơ, ngáo ngáo hỏi tao ăn cơm chưa, tao ăn cơm chưa, dù trước đó đã xơi 4 chén cơm với nước mắm ớt ở nhà mình, trong khi bà Thường chửi hắn mê tơi rồi chỉ mình kêu thằng này xúi dục. Mình ngơ ngác, ngây thơ, nói cháu đâu biết gì.

 

Sau này, vợ chồng chú Minh, rể bà Thường, trung uý quân-cụ chỗ trước ấp Sòng-sơn, qua nhà kể cho bà cụ mình nghe. Hai vợ chồng đang ngủ thì thấy thằng Hùng nhảy xuống bàn thờ Phật, tưởng Việt Cộng nằm vùng nấp trên nóc nhà, xuống để bắt giết chú Minh, nên hai hai vợ chồng sợ quá muốn đứng tim. Sau này qua Văn Học, mình hết chơi với nó, hắn học dưới mình 1 lớp, tiếp-tục học ở Adran.

 

Giáng sinh cuối cùng ở Đàlạt là năm mình học đệ nhất. Có mấy tên trong lớp rũ đi ngắm gái. Đàlạt đêm đó đông không thể tả. Hình như tất cả giới trẻ đều ùn ra phố đông như kiến. Xe chạy chật đường, mấy tên tha hồ lạn xe để biểu diễn cho mấy cô. Chán Mớ Đời 

 

Dạo ấy trong đám học chung, có tên Trí, con ông Marcel, đang đả thông tư tưởng con gái của bác Tám, tiệm chè Mây Hồng ở đường Tăng Bạt Hổ. Hồi nhỏ mình hay chơi với con trai của bác, tên Hải và Phước vào chợ Tết vì bác trai nấu bánh tét dùm cho nhà mình. Nay lên đệ nhất thì học chung với chị hai tên này. Mình gọi cô nàng là chị trong khi mấy tên học chung lại xưng tên, nên chúng kêu mình phải gọi chúng bằng anh. Chán Mớ Đời 

 

Mấy thằng rủ nhau đi một vòng khu Hoà Bình, rồi chạy xuống Minh Mạng, chạy lên Duy Tân rồi ghé lại Chè Mây Hồng, ở Tăng Bạt Hổ, đóng đô mấy tiếng đến giới nghiêm thì về. Hình như hôm ấy, có thằng Đa, Tài, Trí, Nguyên, Mình và Đức, con tiệm thuốc tây ở ngã ba chùa. Đàlạt dạo ấy có chè Mai-Hường ở đường Minh Mạng là nổi tiếng nhất, sau đó thì có vài tiệm bắt chước mở nhưng không nhớ rõ lắm. Mại mại đường Minh Mạng chỗ dốc Nhà -Làng có một tiệm, Vọng Nguyệt Lầu ngay góc Tăng bạt Hổ. Đó là những tiệm mình hay ghé lại ăn.

 

Dạo ấy, giới học sinh ở thị-xã chỉ biết vào quán chè nghe nhạc rồi về, đám sinh viên thì vào cà-phê. Dân giàu như Hùng Con Cua thì tham dự các Boum tại nhà ông lớn nào đó. Năm 1992, khi mình về Đàlạt lần đầu thì đúng ngày lễ trung thu, ra phố với mấy cô em thì thấy thiên hạ cũng đông như vậy nhưng không có xe gắn máy như xưa.

 

Nếu nói đến Giáng sinh Đàlạt khi xưa mà không nhắc đến hội chợ từ thiện ở lãnh-địa đức Bà (kermesse Domaine de Marie), thường được tuổi chức hàng năm trong mấy ngày cuối tuần ở dòng tu này, trên đường Ngô Quyền. Mình có kể vụ này trong bài lịch sử Domaine De Marie rồi.

Nhà thằng HÙng, nơi mình ăn thịt chó lần đầu tiên, đối diện nhà Trung Tá Tốn

Giáng sinh cuối cùng tại Việt Nam thì mình ở Sàigòn, ngày mình nhận được sổ thông hành và chiếu khán của toà đại sứ pháp và mấy ngày sau lên đường du-học. Gần 20 năm mới trở lại Đàlạt.

 

Mình tính ở lại vài tuần, ăn Tết ta rồi đi Tây nhưng Việt Nam Cộng Hoà vừa mất Phước Long, bố mình kêu đi nhanh, sợ chính phủ không cho xuất ngoại. Do đó, bạn bè sau này gặp lại, kể bổng nhiên thấy mình biến mất khỏi Đàlạt. Mấy người này biết nhà mình nhưng không ghé hỏi. Chán Mớ Đời 

 


Nhs

 

 

Nhớ về Thầy Cô

Nhớ về thầy cô

 

Hôm trước, có người gửi mình lịch sử của trường Lasan Adran, nhờ mình viết một bài về trường nơi mình có học vài năm. Lang thang vào Facebook của cựu học sinh trường, mình khám phá ra nhiều tấm ảnh học sinh cũ về thăm các thầy sư huynh trong các viện dưỡng lão, rất cảm động.

 

Khi xưa, học Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nói về một vị tướng danh tiếng của Pháp quốc, sau chiến tranh kết thúc, về thăm làng cũ, ghé thăm trường xưa, gặp lại vị thầy giáo cũ, chào hỏi ân cần thầy cũ của mình, rồi nói với các học sinh trong lớp, phải nhớ ơn thầy. Sau này, ông ta đắc cử tổng thống Pháp quốc.


Dạo ấy, học bài giáo khoa này, mình cũng mơ như mọi người, một mai sẽ ca khúc Khải hoàn về thăm trường cũ, sẽ nói những lời như ông Jean Carnot . Sau này về thăm Đàlạt, thì trường cũ đều biến mất, chỉ còn trường Grand Lycee nhưng họ không cho vào.

 

Nhìn ảnh học trò cũ và gia đình thăm viếng các thầy sư huynh, những hình ảnh của những Jean Carnot đương đại. Họ có thể không phải quan to, cán bộ lớn nhưng đã nói lên tình nghĩa thầy trò, lòng cảm ơn của học trò đối với các thầy cô ngày xưa. Nhất là các sư huynh này, không nhận lãnh tiền lương gì cả khi xưa, chỉ làm bổn phận của kẻ thừa sai.

 

Cách đây 3 năm, mình có cơ hội tham dự hội ngộ với cô giáo việt-văn tại Cali. Rất cảm động khi thấy học trò từ Việt Nam, âu-châu, Gia-nã-đại và khắp nơi bay về thăm cô-giáo. Nhìn mấy cô học trò cũ, nay đã lên chức bà nội, bà ngoại, cầm tay cô giáo, hỏi han thấy tình thầy trò rất đẹp. Cha mẹ cho ta sự sống, thầy cô cho ta trí tuệ, khai trí sự vô minh.

 

Mình về Đàlạt, cơ duyên được bạn học cũ chở đi thăm một người thầy cũ, đã thay đổi cuộc đời mình. Ngày xưa, một anh bạn học cũ rủ mình đến thăm thầy ở nhà. Thầy khuyên mình cố gắng học, đậu cao để đi du học, khỏi phí cuộc đời. Thăm thầy bị bệnh, không ngồi được nhưng thầy vẫn nhớ đến lá thư của thầy viết giới thiệu mình cho đại học pháp khi mình xin du học. 

 

Sau 75, thầy bị đày đi trại cải tạo, đời sống khó khăn, vợ thầy theo người khác. Sau này ra trại, cuối tháng có anh bạn học cũ, rủ thêm mấy người học trò cũ của thầy đi thăm, luôn tiện tặng hiện kim cho thầy, giúp kinh tế cho thầy trong tuổi già. Sau cuộc chiến, kẻ thất trận đi tù, về già không có tiền hưu trí như bộ-đội cụ hồ. Lần sau, mình về thì đúng ngày thầy mất. Học trò kéo nhau đi đưa đám rất đông.

 

Khi mình chào thầy về, thầy nói là thương anh bạn học cũ hơn con ruột vì anh ta chăm sóc, đến thăm thầy. Thầy cô nhiều khi nói một câu gì, kể một câu chuyện có thể thay đổi một cuộc đời của học sinh. Như các thiên sứ gửi một thông điệp của thượng đế hay của Bồ tát đến các học trò.

 

Khi xưa đi học, mình không được thầy cô yêu mến chi cả. Có lẻ mình học cực ngu, như bèo dạt mây trôi nên thầy cô chả để ý. Qua Văn Học, có lẻ gần gần hơn nên có bạn nhớ, có thầy không quên nhờ cái tính ba lơn của mình.

 

Mình chỉ có 4 cô giáo còn toàn là thầy cho nên nhớ mấy thầy nhiều hơn là nhớ mấy cô giáo. Không nhớ năm 11 ème, học với ai, chỉ nhớ năm 10 ème thì học với một bà đầm, có lẻ lai mít, HCC có gửi cho tấm ảnh của lớp chụp chung, không nhớ tên. Chỉ nhớ cuối năm, bà ta đè đầu mình ra bắt chí, không cho mình nuôi chí thì nên. Năm 9 ème thì học cô Huệ, nhà đâu cạnh trường Văn Học. Đang học khơi khơi, cô giáo này đi tây, bà vợ ông proviseur của Grand Lycée, tên Decroix dạy thế. 

 

Lên Grand lycée thì có học Việt văn với cô Ngô Thị Liên, không nhớ gì hết ngoài bằng bằng Trắc Trắc, thơ Đường luật, thơ muối tiêu, thêm thơ lục bát chi đó. Hết 5 chữ rồi đến 6 chữ 8 chữ. Thời đó, học ba cái này thấy mệt chi lạ cho đến ngày nay mình vẫn không thích thơ phú chi cả. Nhớ làm luận; có đề tài nghỉ hè, sau khi học bài:" kỳ nghỉ hè, em về quê, nhà ta ở cạnh bờ đê...", mình viết: hè này, em đi nghỉ mát ở Sàigòn,... khiến cô Liên đọc cho cả lớp nghe nên mình bị chọc quê vì chưa bao giờ đi Sàigòn nên đâu biết xứ này nóng kinh khủng. Cứ nghe ai cũng nói đi nghỉ mát ở Đà Lạt nên bắt chước viết đi nghỉ mát ở Sàigòn. Viết để thấy mình ngu lâu, ngu có căn bản, cơ địa chớ không ngu kiểu sách vở. 

 

Dạo học Petit Lycée, có một ông thầy dạy Việt ngữ, không nhớ tên, không phải thầy Tường. Ông ta làm mình thích giờ việt ngữ, vì ông ta hay kể chuyện kháng chiến chống tây. Ông ta cứ bảo cả lớp im lặng, chịu khó học cho nhanh, không nói chuyện, sau đó ông ta kể chuyện. Dạo ấy còn con nít nên thích nghe kể chuyện, đứa nào đứa nấy, trong lớp ngồi im, chăm chú học đánh vần i a i cà rết... Cứ gần cuối giờ là ông ta kể chuyện thời ông ta đi kháng chiến. Những câu chuyện này đã cấy trong đầu mình, tinh thần yêu quê hương, và ghét tây từ đó đến khi sang Tây, mê đầm quên hết thù nhà

 

Dạo qua học Văn Học, có một ông thầy dạy thế, vì thầy giáo như bộ tam sư đổi hộ khẩu qua trường Việt Anh rồi mấy thầy khác, giảng dạy ở trường Võ Bị, bị ra lệnh bởi cấp trên nên không được dạy Văn Học nhưng có thể dạy các trường khác. Có ông thầy tên Hùng dạy Quang Học, hình như tên Cao Thế Hùng, vào lớp tuyên bố: không được dạy Văn Học thì cũng không dạy Việt Anh luôn. Cả lớp vỗ tay, buồn buồn vì xa thầy.

 

Giáo sư của các lớp đệ nhị cấp, đa số là giảng viên của trường Võ Bị nên dạo đó, thầy CBA phải chạy kiếm thầy mệt thở. Cuối cùng thì có mấy thầy từ Trần Hưng Đạo qua dạy. Trong thời gian kiếm thầy mới thì có mấy thầy dạy tạm thời. 

 

Trong mấy thầy dạy thế thì có một thầy dạy sinh ngữ thì phải. Ông này cứ kêu cả lớp học hành, chăm chú thì sẽ dành 15 phút cuối để kể chuyện xi nê. Ngồi viết lại mới thấy ông thầy này giỏi, dùng cái mẹo để học sinh yên lặng trong lớp. Ông này có tài kể chuyện, ai nấy đều chăm chú nghe, ngay con ruồi bay qua cũng không thèm đập. 

 

Mình nhớ ông ta kể hai phim: "the kid" của Charlie Chaplin và "Người ăn cắp xe đạp" của Vittorio De Sica. Ông thầy có khiếu kể đến nổi mấy nữ sinh, thường lệ ăn quà lén trong lớp, ngồi chăm chú như nghe Út Trà Ôn hát tình anh bán chiếu. Khi sang Ý, mình phải đi xem tất cả các fim ý cũ về thời sau đệ nhị thế chiến. Nhờ ông thầy này mà mình mê xi nê. Thời vàng son của nghệ thuật thứ 7 của ý đại lợi. Dạo có video thì mướn tất cả fim của Charlie Chaplin. Hình như fim "the kid", mình có coi chiếu ngoài trời ở sân chùa Linh Sơn khi họ làm lễ cầu an, đúc cái chuông đồng.  

 

Nói đến xi nê, có lần mình kể về fim coi ở rạp Ngọc Lan, có thần đồng Joselito đóng. Mình nhớ lại là tựa fim là "les deux gamins", nói về cậu bé con nhà giàu bị bắt cóc, để chuộc tiền nhưng rồi bị bể, lớn lên đi hát chung với đứa em, con của gia đình nuôi. Sau này thì tìm lại được cha mẹ. 

 

Ông thầy dạy được vài tuần thì thầy CBA kiếm được tất các thầy từ Trần Hưng Đạo sang nên không còn được nghe thầy này nữa. Bù lại thầy Hà Mai Phương, dạy sử địa thì lại nghe thầy nêu lên chính sách bài tàu kinh hồn. Thầy nói không bao giờ mua hàng ở tiệm của người gốc Hoa. Việt Nam bán đắt hơn nhưng mua để giúp người Việt làm giàu. Thầy Phương làm mình suy nghĩ; muốn làm chuyện gì thì phải sẵn sàng hy sinh. Thầy muốn giúp người Việt làm giàu nên phải trả giá đắt hơn là mua của người hoa. 

 

Nhớ khoảng thời gian này có một ông thầy dạy vật lý được một lần rồi biệt tích. Ông thầy người Huế, tự xưng là đang học thêm cao học. Lúc làm toán thì sai nên mình kêu không đúng làm ông ta quýnh lên, sửa lại tùm lum, cuối cùng mình phải lên bảng giải. Lần sau không thấy thầy trở lại, thế vào là anh chàng Trương Chí Dũng thì phải, người nhỏ con, sinh viên đại học Đà Lạt, kèm bài tập.

 

Nói đến dạy kèm bài tập, dạo ấy có một anh chàng chắc sinh viên triết, ôn các bài tập hai môn đạo đức học và luận lý. Anh chàng người Huế, hay sửa lưng thiên hạ đọc sai tên Émile Durkheim, một nhà xã hội học, người Pháp. Cái giọng Huế của anh chàng đọc khá vui. Qua tây, lâu lâu gặp con đường tên của ông này là nhớ đến anh này. 

 

Dạo này mình hay liên lạc với thầy Hồ Thanh Tâm, dạy Sử địa. Thầy đã cho mình mượn cuốn sách 100 hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí. Lần đầu tiên đọc thơ của Trần Dần và những tài liệu về ngoài Bắc quê của ông cụ mình khiến mình say say ngất ngây, hồi hộp vì đọc tài liệu từ miền Bắc. Có lẽ cuốn sách này đã khai mở mình về chính trị, giúp mình suy nghĩ về chiến tranh. 

 

Có thầy Đan Đình Soạn, dạy trường Chính Tranh Chính Trị, dạy môn Công Dân Giáo Dục. Cô Thuỷ có rủ mình đến nhà thầy ở trên trong hẻm gần Hội Việt Mỹ. Thầy cho mượn cuốn sách triết nhưng nuốt không vô đành trả lại cho thầy. 

 

Thầy Nguyên dạy hình học, cho biết cuộc tình trai gái như hai đường thẳng song song sẽ gặp nhau ở vô cực nhất là trong hình học không gian 3 chiều thì chịu thua. Mấy đối tượng thấy trong sân trường mà không dám nhìn hay mở mồm, đành hẹn nhau tại vô cực. Hè vừa rồi gặp được thầy trong 5 phút. Không ngờ thầy còn nhớ đến mình dù chỉ học có một năm. Thầy kể có viết thư giới thiệu cho đại học bên tây khi mình xin ghi danh. Học trò vẫn nhớ ơn thầy nên hàng tháng rủ nhau đi thăm. Nếu không có thầy khuyên mình ráng học rồi đi tây thì có lẻ cuộc đời mình chắc sẽ có kết cục khác. Dạy toán thì nhớ thầy Lý Công Thuận, du-học ở MỸ về, dạy trường Võ-bị, bận cái áo sơ-mi màu gấc của trường thầy.

 

Có lẻ mình mến nhất là thầy An, dạy Việt văn năm 11B. Cả tuần chỉ mong đến giờ thầy để nghe thầy luận về tình yêu. Thời đó mới lớn nên cứ nghe bàn đến tình yêu như Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt là cứ há mõm ra mà nghe. Trong lớp không có ai phá phách cả. Mấy năm trước trong  một lần phỏng vấn, mình có hỏi thầy kết cục về Đoạn Tuyệt, để giải-mả thắc mắc cứ đeo đuổi mình từ mấy chục năm qua.

 

Thầy nói anh chị nào yêu nhau thì dắt nhau ra thác Cam Ly, đem theo lon sơn Bạch Tuyết rồi lấy cây cọ, viết tên của mình lên đá với trái tim bị mũi tên đâm thủng, rồi nắm tay nhau thề sông có cạn núi có mòn tình chúng ta chỉ tan vở khi nào hảng sơn Bạch Tuyết xụp tiệm thì mới tan. Ai ngờ một năm sau Việt Cộng vô nên bao nhiêu cuộc tình đều theo gót chân của hảng sơn Bạch Tuyết. Lâu lâu thấy thầy viết trên diễn đàn Văn Học, phổng nghĩ phổng suy như tiếp tục vai trò của người thầy dù ngày nay tóc thầy và trò đều bạc như nhau.  

 


Hồi nhỏ, học văn chương Pháp, có nghe nói đến ông Albert Camus, thầy bảo kiếm sách của ông này đọc nhưng lười, không có tiền mua sách thêm có đọc cũng không hiểu nên chả biết i tờ chi về ông. Sau này sang Pháp thì mới tò mò tìm đọc sách của vị khôi nguyên giải Nobel về văn chương.

 

Cảm động nhất là đọc lá thư của ông ta, viết cho ông Germain Louis, người thầy dạy tiểu học, sau khi đoạt giải văn-chương. Gần hai năm sau ông ta mới nhận được lá thư hồi âm của người thầy đã giúp ông ta vượt qua khó khăn của tuổi thơ, khi cha ông tử trận trong đệ nhất thế chiến, để lại một người mẹ bị bệnh.

 

Ông sinh ra tại Algerie, Fi châu, thuộc địa của Pháp như Nam kỳ và Bắc kỳ dạo đó. Cha mất sớm, mẹ bị bệnh tật nhưng nhờ sự giúp đỡ của người thầy, ông ta đã đậu tú tài và tốt nghiệp đại học ở Fi Châu rồi được bầu khôi nguyên Nobel về văn chương.

 

Mình mượn lá thư của ông Albert Camus, viết cho thầy của ông ta để cám ơn các thầy cô, đã một thời dạy mình. 

 

19 novembre 1957

 

Cher Monsieur Germain,

J'ai laissé s'éteindre un peu le bruit qui m'a entouré tous ces jours-ci avant de venir vous parler un peu de tout mon cœur. On vient de me faire un bien trop grand honneur, que je n'ai ni recherché ni sollicité. Mais quand j'ai appris la nouvelle, ma première pensée, après ma mère, a été pour vous. Sans vous, sans cette main affectueuse que vous avez tendue au petit enfant pauvre que j'étais, sans votre enseignement, et votre exemple, rien de tout cela ne serait arrivé. Je ne me fais pas un monde de cette sorte d'honneur mais celui-là est du moins une occasion pour vous dire ce que vous avez été, et êtes toujours pour moi, et pour vous assurer que vos efforts, votre travail et le cœur généreux que vous y mettiez sont toujours vivants chez un de vos petits écoliers qui, malgré l'âge, n'a pas cessé d'être votre reconnaissant élève.

Je vous embrasse, de toutes mes forces.

Albert Camus

 

… 18 tháng sau mới có thư trả lời của người thầy cũ, cho thấy ông thầy không muốn lấy điểm, đã giúp người học trò được học bổng.

30 Avril 1959

 

Mon cher petit,

(...) Je ne sais t'exprimer la joie que tu m'as faite par ton geste gracieux ni la manière de te remercier. Si c'était possible, je serrerais bien fort le grand garçon que tu es devenu et qui restera toujours pour moi « mon petit Camus».

(...) Qui est Camus ? J'ai l'impression que ceux qui essayent de percer ta personnalité n'y arrivent pas tout à fait. Tu as toujours montré une pudeur instinctive à déceler ta nature, tes sentiments. Tu y arrives d'autant mieux que tu es simple, direct. Et bon par-dessus le marché ! Ces impressions, tu me les a données en classe. Le pédagogue qui veut faire consciencieusement son métier ne néglige aucune occasion de connaître ses élèves, ses enfants, et il s'en présente sans cesse. Une réponse, un geste, une attitude sont amplement révélateurs. Je crois donc bien connaître le gentil petit bonhomme que tu étais, et l'enfant, bien souvent, contient en germe l'homme qu'il deviendra. Ton plaisir d'être en classe éclatait de toutes parts. Ton visage manifestait l'optimisme. Et à t'étudier, je n'ai jamais soupçonné la vraie situation de ta famille, je n'en ai eu qu'un aperçu au moment où ta maman est venue me voir au sujet de ton inscription sur la liste des candidats aux Bourses. D'ailleurs, cela se passait au moment où tu allais me quitter. Mais jusque-là tu me paraissais dans la même situation que tes camarades. Tu avais toujours ce qu'il te fallait. Comme ton frère, tu étais gentiment habillé. Je crois que je ne puis faire un plus bel éloge de ta maman.

J'ai vu la liste sans cesse grandissante des ouvrages qui te sont consacrés ou qui parlent de toi. Et c'est une satisfaction très grande pour moi de constater que ta célébrité (c'est l'exacte vérité) ne t'avait pas tourné la tête. Tu es resté Camus: bravo. J'ai suivi avec intérêt les péripéties multiples de la pièce que tu as adaptée et aussi montée: Les Possédés. Je t'aime trop pour ne pas te souhaiter la plus grande réussite: celle que tu mérites.

Malraux veut, aussi, te donner un théâtre. Je sais que c'est une passion chez toi. Mais.., vas-tu arriver à mener à bien et de front toutes ces activités ? Je crains pour toi que tu n'abuses de tes forces. Et, permets à ton vieil ami de le remarquer, tu as une gentille épouse et deux enfants qui ont besoin de leur mari et papa. A ce sujet, je vais te raconter ce que nous disait parfois notre directeur d'Ecole normale. Il était très, très dur pour nous, ce qui nous empêchait de voir, de sentir, qu'il nous aimait réellement. « La nature tient un grand livre où elle inscrit minutieusement tous les excès que vous commettez.» J'avoue que ce sage avis m'a souventes [sic] fois retenu au moment où j'allais l'oublier. Alors dis, essaye de garder blanche la page qui t'est réservée sur le Grand Livre de la nature.

Andrée me rappelle que nous t'avons vu et entendu à une émission littéraire de la télévision, émission concernant Les Possédés. C'était émouvant de te voir répondre aux questions posées. Et, malgré moi, je faisais la malicieuse remarque que tu ne te doutais pas que, finalement, je te verrai et t'entendrai. Cela a compensé un peu ton absence d'Alger. Nous ne t'avons pas vu depuis pas mal de temps...

Avant de terminer, je veux te dire le mal que j'éprouve en tant qu'instituteur laïc, devant les projets menaçants ourdis contre notre école. Je crois, durant toute ma carrière, avoir respecté ce qu'il y a de plus sacré dans l'enfant: le droit de chercher sa vérité. Je vous ai tous aimés et crois avoir fait tout mon possible pour ne pas manifester mes idées et peser ainsi sur votre jeune intelligence. Lorsqu'il était question de Dieu (c'est dans le programme), je disais que certains y croyaient, d'autres non. Et que dans la plénitude de ses droits, chacun faisait ce qu'il voulait. De même, pour le chapitre des religions, je me bornais à indiquer celles qui existaient, auxquelles appartenaient ceux à qui cela plaisait. Pour être vrai, j'ajoutais qu'il y avait des personnes ne pratiquant aucune religion. Je sais bien que cela ne plaît pas à ceux qui voudraient faire des instituteurs des commis voyageurs en religion et, pour être plus précis, en religion catholique. A l'École normale d'Alger (installée alors au parc de Galland), mon père, comme ses camarades, était obligé d'aller à la messe et de communier chaque dimanche. Un jour, excédé par cette contrainte, il a mis l'hostie « consacrée» dans un livre de messe qu'il a fermé ! Le directeur de l'École a été informé de ce fait et n'a pas hésité à exclure mon père de l'école. Voilà ce que veulent les partisans de « l'École libre » (libre.., de penser comme eux). Avec la composition de la Chambre des députés actuelle, je crains que le mauvais coup n'aboutisse. Le Canard Enchaîné a signalé que, dans un département, une centaine de classes de l'École laïque fonctionnent sous le crucifix accroché au mur. Je vois là un abominable attentat contre la conscience des enfants. Que sera-ce, peut-être, dans quelque temps? Ces pensées m'attristent profondément.

Sache que, même lorsque je n'écris pas, je pense souvent à vous tous.

Madame Germain et moi vous embrassons tous quatre bien fort. Affectueusement à vous.

Germain Louis

 

Đọc lá thư của người thầy giáo cũ mới hiểu vì sao thế giới có một Albert Camus. Ông ta nhắn gửi người học trò cũ, dù danh vọng lên tột đỉnh, đừng quên bổn phận đối với vợ con và khen sự hy-sinh của mẹ ông ta, đã chạy đôn chạy đáo lo cho con ăn học dù người cha đã qua đời. Nói đến căn bản của giáo dục mà khi xưa, bố ông ta, vô-ý xếp kinh thánh , đã bị trục xuất khỏi lớp.

 

Mình đọc tiếng Việt trên iPhone thay vì viết. Cái chức năng này khá hay, chỉ tội là hơi chậm.

 

Nhs

Cây Noel năm ấy

 Sáng nay lên vườn để họ thanh tra hệ thống tưới nước thì nghe podcast nói về cây giáng sinh năm nay lên giá độ 20% so với hàng năm khiến mình nhớ đến những năm học tiểu học ở Petit Lycée Yersin Đàlạt.

Mình nhớ Giáng sinh năm đó vì những giờ cuối học với cô Huệ trước khi cô đi du học bên Tây. Như mọi năm, trước khi nghỉ lễ Giáng sinh, ông planton đem một cây thông vào để trong lớp, sau đó học sinh và thầy cô trang trí, thường lấy giấy màu rồi xếp ngôi sao, làm guirlandes,.., lấy giấy màu loại láng, mua ở tiệm sách Thiên Nhiên hay Khai Trí ở đường Minh Mạng, cắt theo khổ 2 cm, nối thành vòng tròn như sợi dây xích, gắn lên tường và cái nào đẹp thì được treo lên nhánh cây thông. 

 

Học sinh phải vẽ cây thông rồi lấy võ hột gà, đập nát rồi dán lên theo hình cây thông. Mình có hỏi cô Huệ về sự tích của Chúa Giê Su, người công giáo ăn thịt chó,..thì cô cười nói đừng tin họ. Mình nhớ cô treo cái ngôi sao to tổ chảng ở trên đầu ngọn cây, tượng trưng cho chúa Giê Su, để nhớ khi ngài ra đời thì có một ngôi sao rất to và sáng, báo tin vị cứu tinh của nhân loại đã xuất hiện khiến ai cũng tò mò đi theo hướng ngôi sao và dẫn đến máng cừu nơi chúa sinh ra đời.


 

Năm đó cả lớp được cô Huệ dạy hát hai bản nhạc; "mon beau sapin" và "j'ai perdu le Do de ma clarinette" mà mình nhớ đến giờ. Gia tài của mình về nhạc tây sau 10 năm trường tây, 7 năm học bên Tây chỉ vỏn vẹn hai bài này. Sau này nghe kể mình du học bên tây, mấy cô hay kêu mình hát nhạc tây nhưng chỉ biết hai bài này. Chán Mớ Đời 

 

Sang Tây, ngồi vẽ trong lớp nổi hứng hát bài "j'ai perdu le Do de ma clarinette " làm tụi bạn học Tây đầm cười nức nở, được giải thích là bài hát này dựa theo một bản nhạc xưa của quân đội Napoleon, " le chant de l'oignon ". Thời gian sinh sống tại Thụy Sĩ lại khám phá ra bài "mon beau sapin" được dịch từ một bản nhạc dân quê của Đức "O Tannenbaum" tương tự bài "Lily Marlène " mà khi đánh nhau trong thế chiến, lính Tây và Đức nằm trong giao thông hào đều hát bài này, tâm sự người lính xa nhà, có lần mình được cô bạn người Đức ở Đan Mạch dạy lời, khá buồn.

 

Mấy tuần trước khi nghỉ mùa đông, cô Huệ cho tập hát rồi ngày liên hoan đến; đám con gái hát bài "mon beau sapin" còn đám con trai hát "j'ai perdu le Do de ma clarinette". Nếu mình không lầm thì cháu nội cụ Sâm, ở đường Hùng Vương, có lần mình học tư hè với cụ. Nhà cụ ở dưới vườn phía sau gần nhà đèn, giữa hai biệt thự ở đường Hùng Vương, có con đường nhỏ đi xuống, qua hai mảnh vườn thì đến nhà cụ Sâm, được xây bằng gỗ. 

 

Cụ có một người con trai đi du học bên Pháp, lấy vợ đầm, năm 1972, có đem vợ đầm về thăm Đà Lạt, mình có gặp. Cháu nội cụ Sâm tên Thanh thì phải, đại diện đám con gái hát bài Mon beau sapin. Mỗi nhóm có 5 học sinh đại diện để hát, con trai thì có một tên hát rất hay nên hát phần chính, không nhớ tên còn 4 thằng con trai trong đó có mình được bà cô chọn hát điệp khúc. Cứ rống "au pas camerade, au pas au pas..."vừa hát vừa nhịp chân, hai tay quơ quơ như gà mái vỗ cánh ngáp ngáp khi mới ngủ dậy nhưng mình cứ vênh mặt lên rống cho to và nghề ca sĩ của mình cũng chấm dứt từ đó.

 

Mình chia tay với thầy cô rất nhiều nhưng có lẻ lần chia tay với cô Huệ năm đó làm mình buồn nhất. Hôm trước ăn bún bò Mụ Diễm thì mấy ông thần Yersin xưa, đưa xem hình cô Huệ ở bên tây nên nhớ lại cô giáo rất hiền này ngày xưa. Mình chỉ nhớ cô đeo kính cận thị, tóc ngắn kiểu uốn quăn. Có lần trời mưa đứng dưới préau, trong giờ thể thao thì cô Huệ chỉ cho đám học sinh nhảy cao. Vì bận jupe nên nhảy cao làm cô ấy té cái bịch khiến thằng Tây dạy lớp bên cạnh cười khì khiến đám học trò của cô càng căm thù tây. 

 

Có lần cô hỏi cả lớp đánh vần chữ Twist nhưng không có ai trả lời đúng, có một tên viết đúng theo tiếng Việt "Tuýt" nên được Bon Point. Năm đó bà cụ mình gói tặng cô một bộ ly, lúc ra về thì cô kêu đám con gái đem quà của cô vào văn phòng thì có một con học chung, nhà ở đâu cạnh abattoir bê gói quà của mình nên mình dặn ả cẩn thận, tuần vừa rồi Mai Thanh và Thu Thuỷ gửi hình thì mới khám phá ra cô bé ngày xưa bê gói quà, nay ở bên Pháp là ca sĩ tên Lệ Thu, garage STT ngày xưa hát rất chiến. Hôm trước có một cô cựu Yersin cũng gửi lên diễn đàn, giọng hát cũng nức nở. Mình có gặp lại cô này tại nhà mình, Tú-Anh đem lại nhưng cô nàng không nhớ mình. Chán Mớ Đời 

 

Có lẻ vì sắp đi Tây nên cô Huệ kể nhiều về xứ này, về tuyết rơi,... như một cơn gió thổi cuộn về dòng sông tuổi thơ, đưa cánh buồm khát vọng của đứa bé ra biển tìm về một phương trời xa xăm mà cô sẽ sang đó. 


Sau này lập gia đình, mình hay phụ đồng chí gái và mấy đứa con trang trí cây giáng sinh để tìm lại chút hương vị của thời thơ ấu, thời bình yên, một thời để nhớ.


Không ngờ mấy năm sau, cũng vào ngày mà thế giới chào mừng vị cứu thế ra đời, Việt Nam Cộng Hoà vừa mất Phước Long, Sàigòn đang sôi động với những cuộc biểu tình, biểu ngữ đả-đảo Việt Cộng, vi phạm hiệp định Paris, chiếm đóng Phước Long. 4 giờ chiều hôm đó, mình bước ra khỏi bộ Nội Vụ cầm trong tay sổ thông hành và chiếu khán của toà đại-sứ pháp đi Tây mấy ngày sau đó.

 


Nhs

 

La valse dans l’ombre

 Hôm nay, trên mạng có người nhắc đến phim “la valse dans l’ombre” khiến mình nhớ có xem phim này tại rạp Ngọc Lan vào năm học đệ nhị. Lâu quá, không nhớ rõ cốt truyện, ngoài phim đen trắng.

3 phim xem tại rạp Ngọc Lan về tình yêu khiến mình cảm động nhất là Love Story , Mùa Hè 42 và La Valse dans l’ ombre , để lại dấu ấn đến ngày nay.

Coi phim này mới biết nhạc con nít như mình hay hát khi xưa “tò te con ma đánh đu, tarzan nhảy dù,..” là từ phim này. Bản nhạc này đoạt giải oscar năm 1940, được viết từ 1 bài thơ ở xứ Tô-cách-lan, « auld Lang Syne » có nghĩa ngày xưa yêu dấu.


Tác giả bài thơ là Robert Burns và bài ca được trở thành phổ thông khắp thế giới, được sử dụng khi kết thúc các cuộc hội họp và được hát trong đêm giao thừa.


Nghe kể ông Robert Burns gửi bản thảo của bài nhạc đến Scots Musical Museum vào năm 1788. Bài “Old Long Syne” in năm 1711 của James Watson cũng tựa tựa bài hát của ông Robert Burns sau này. Bài của ông James Watson như sau:

Should Old Acquaintance be forgot,
and never thought upon;
The flames of Love extinguished,
and fully past and gone:
Is thy sweet Heart now grown so cold,
that loving Breast of thine;
That thou canst never once reflect
On old long syne.

Chorus:
On old long syne my Jo,
On old long syne,
That thou canst never once reflect,
On old long syne.


Dạo ấy, các phim ngoại quốc được trình chiếu tại Việt Nam, đều được công ty Gaumont của Tây phát hành nên tuy là phim mỹ nhưng được phiên âm pháp ngữ và phụ đề việt-ngữ và hoa-ngữ. Phim gốc là mỹ với tên Waterloo Bridge, ở Luân Đôn mà sau này mình làm việc ở Luân-đôn, hay đi ngang hoặc đổi trạm xe điện ngầm tại trạm này.


Dạo mình ở Tây thì các phim mỹ đều được chuyển âm qua pháp-ngữ, nên đi xem xi-nê, muốn xem phim nói tiếng anh thì phải lựa rạp nào chiếu phim gốc, không chuyển âm. Mình nghe kể sau 75, có mục thuyết minh khi xem phim.

 

Thật ra phim này được quay lại sau 9 năm một phim cũng mang tựa đề này vào năm 1931, dựa theo một chương trình ca kịch tại Broadway năm 1930. Trên YouTube có chiếu bằng tiếng nga. Nhạc kịch Broadway được viết bởi Robert E. Sherwood, dựa trên câu chuyện tình thật của ông ta.


Công ty phim ảnh MGM mua bản quyền từ Universal United để quay lại (remake). Phim này được trình chiếu năm 1931 nhưng bị kiểm duyệt vì có phần nhân vật chính làm gái mãi dâm nên không được trình chiếu cho công chúng. Tưởng tượng phim Taxi Driver mà được thực hiện vào những năm 1930 tại Hoa Kỳ.

 

Tựa chính bằng anh-ngữ là ”Waterloo Bridge”, cầu waterloo, địa danh ở Bỉ quốc, nơi Napoleon thất trận và bị đày đi đảo bên Ý Đại Lợi. Câu chuyện nói về một cuộc tình được xuất phát khi cặp tình nhân gặp nhau trên chiếc cầu tên Waterloo và cũng chấm dứt tại đây.


Tựa pháp-ngữ là “la valse dans l’ombre”, điệu luân vũ trong bóng tối. Có lẻ trong phim có khúc quay tại nhà hàng, ông đại uý mời cô nhân tình nhảy điệu valse rồi từ từ, các nhạc công tắt các ngọn nến, điệu vũ kết thúc bằng nụ hôn cực đẹp.

 

Câu chuyện nói về cặp tình nhân gặp nhau trong thời chiến, đính hôn rồi anh chàng phải ra trận. Một hôm, cô nàng đọc báo thấy tên người yêu tử trận rồi những khó khăn cuộc sống trong thời chiến, khiến cô nàng trở thành Thuý Kiều của Anh Quốc, đón các người lính về phép. Một hôm, trong lúc đi khách ở nhà ga thì thấy người yêu trở về.

 

Anh chàng này vui mừng, kể anh ta bị bắt làm tù binh, đồng đội tưởng là đã chết nên báo tin nhưng cô nàng nghĩ mình không còn xứng đáng cho mối tình hữu nghị nên tự tử chết trên chiếc cầu Waterloo.

 

Cuối phim, ông đại uý cầm kỷ vật của hôn thê bỏ vào túi rồi lên xe, ra trận. Coi phim này xong thì mình hết muốn đi lính, muốn đi Tây.

 

Khi sang Anh Quốc làm việc, mình nhớ đến phim này nên có đến chiếc cầu này để xem lại cảnh sương mù trên sông Thames như trong phim này. Mình đoán là họ quay tại phim trường ở Hoa Kỳ vì không thấy giống gì cả. Chán Mớ Đời 


Rap NLan bi dat plastic,nô 2 lân 1 lân 5h chiêu,1 lân 6hsang,vi trên lâu là app cho US thuê “

Về Đàlạt thì bạn học cũ cho biết có một cô học hung khi xưa ở Yersin, là người đặt chất nổ rạp Ngọc Lan. Mình chỉ nhớ mang máng là có bị đặt chất nổ, mất mấy tháng, không được xem xi-nê tại đây nên sau này cũng ít dám bò lại rạp này. Nay nghe một anh chàng làm an-ninh khi xưa, nói có đến hai vụ nổ tại rạp này. Kinh

 


Nhs