Từ nông dân trở thành Picasso

 Từ nông dân trở thành Pablo Picasso của Trung Hoa


Có câu chuyện khá lý thú, đọc trên báo của người Tàu về một nông dân, chả học hành gì cả, bổng nhờ internet trở thành Picasso của xứ Trung Hoa. Mình ghi lại đây cho thấy cuộc đời, nhất là trong một xã hội như Trung Hoa, mà ông thần vẫn đấu tranh tư tưởng với láng giềng, xã hội nhỏ bé của làng ông ta suốt 27 năm trời để rồi, thần Internet biến ông ta thành một Van Goh của thế kỷ 21. Nay tiền vô như nước.

Anh chàng này sinh ra tại một làng ở miền trung của Trung Cộng, tên Xiong Quinghua. Con nông dân nhưng anh ta chả bao giờ đụng tới cái cuốc hay cái xẻng từ 20 năm qua. Anh ta chưa bao giờ học vẽ, và nghỉ học vào năm học đệ nhất cấp, lúc 16 tuổi. Anh chàng có cái đam mê là vẽ từ bé nên chả học hành gì cả nên học dốt, nên phải ở nhà. Ông bố đồng ý cho anh ta vẽ, và nuôi ăn.


Đến tuổi lập gia đình vì ở làng trai gái lập gia đình sớm. Có cô trong làng nhất trí cho anh ta đăng ký quản lý đời em nhưng dỡ chứng, gần ngày cưới cô ta xù anh chàng, kêu không nghề ngỗng, không chịu làm ruộng thì lấy gì nuôi tôi nên sugar you you go, sugar me me go. Thế là anh ta Chán Mớ Đời nên lại lao vào phòng, vẽ điên lên bao nhiêu bức tranh. Trai gái trong làng chê anh ta nhưng có một cô lại điên điên nhất trí, lấy anh ta để nuôi anh ta vẽ đến mãn đời.

Vấn đề là sau khi đứa con ra đời, anh ta nghĩ cần kiếm công ăn việc làm để nuôi con nên, đến Bức kinh để kiếm việc ở trong một xưởng vẽ chuyên vẽ các tranh hoạ của hoạ sĩ nổi tiếng để bán. Nhưng anh ta không chịu nên bị đuổi cổ. Đành quay về cố hương. Rồi con khát sữa quá, vợ anh ta kêu đi kiếm việc nhưng cuối cùng vẫn không chịu ràng buộc làm tôi mọi cho thiên hạ nên lại trở về ăn bám vợ, mặc kệ thị phi của xóm làng. Vụ này thì mình có trải nghiệm, bị bạn bè đồng chí gái và họ hàng cười chê, kêu ăn bám vợ. Đời không gì hạnh phúc khi được vợ đi làm nuôi. Chỉ cần lỳ một tí là qua cửa ải. Thiên hạ chê riết cũng chán.

Ông thần này được internet phán là Picasso của nước họ vì vẽ không giống ai. Lại chả có bằng cấp nên không được gọi là hoạ sĩ nhân dân nên xóm làng cứ cười chê khi thấy anh ta. Họ đem anh ta ra làm đối tượng khi la con, chửi con.


Có lẻ người duy nhất trên đời ủng hộ anh ta là cô vợ điên khùng, tên Fu Aijiao lấy về để nuôi chết bỏ. Được xóm làng mệnh danh là tên ăn bám váy vợ.

Bà vợ kêu xóm làng chê bai, dè biểu ông chồng, bà ta chỉ biết tìm một nơi vắng vẻ để khóc cho vơi đi những nhục hình, đời tôi đó em xem có gì đâu….

Rồi một ngày tối trời, ông thần gặp lại một người bạn học cũ. Ông này học hành về hội hoạ này nọ. Ông ta kêu hồi bé hay thích tranh của ông Chingua, và hỏi người bạn học cũ có còn vẽ không. Anh chàng này sợ bị chê là ăn bám vợ nên ngập ngừng trả lời là còn. Ông thần bạn học cũ kêu cho tao xem tranh mày vẽ ra sao. Thế là chạy lại nhà ông thần nông muốn làm hoạ sĩ. Xem xong ông thần buồn đời kêu cho tao chụp hình mấy tấm tranh này, có cả ngàn tấm từ 28 năm qua. Sau đó ông ta tải lên trang nhà về tranh thì độ vài tháng sau, anh ta gọi cho tên nông dân là thiên hạ thích tranh của mày, họ kêu mày là Picasso của Trung Cộng. Nghe sướng tai nhưng không có internet, anh ta phải chạy ra phố, vào cà phê internet để xem thiên hạ bình luận đủ trò. Sung sướng cười hoài dù chả có tiền.


Dạo này có một cô hoạ sĩ ở Việt Nam, mặt mũi rất xinh, viết bài chửi tên nhà báo, không biết vẽ mà cứ thở ra tranh khiến  mình nhớ đến ông Bùi Bảo Trúc, khi xưa viết rất là hay, những từ ngữ, sáo ngữ ông ta dùng, đọc rất mê nhưng nếu ngẫm lại thì chả hiểu gì cả. Hôm trước đọc trên báo Việt Nam, có người hỏi kiến trúc sư có thổi thơ khi thiết kế nhà cửa,… mình tính còm nhưng sợ tạo khẩu nghiệp.

Thế là có một bà bò lại nhà mua 5 bức tranh giá 1,000 nhân dân tệ cho mỗi tấm . Thế là lần đầu tiên trong đời ông ta làm ra tiền. Rồi các phòng triển lãm thay phiên mời ông ta đưa tranh cho họ triển lãm, có tấm bán gần 2 triệu nhân dân tệ, cứ chia cho 8 là ra số tiền bằng mỹ kim. Thế là anh ta vinh quy bái tổ, mua xe gắn máy chở vợ đi trước, xe chàng theo sau.

Họ kêu anh ta ra thủ đô để phát triển nghề nghiệp nhưng anh ta từ chối, anh ta muốn ở lại quê nhà như bảo tồn một nền văn hoá cổ đại đang dần dần bị kỹ nghệ mới tàn phá và thay đổi quá nhanh chóng.

Mình thì ngược lại ông thần này, khi xưa làm thợ vẽ thấy khó nuốt, bị thiên hạ chửi kêu ăn bám vợ nên về làm nông dân, cũng đói, được cái là ăn được bơ . Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

nữ hoàng Bolero

 Nữ hoàng Bolero


Khi xưa mấy bài này thấy sến mà nay đánh đàn hát thấy hay”. Đồng chí gái dạo này học đàn mấy bài Bolero khiến mình thất kinh vì cô nàng hay la mình sao anh sến súa quá vậy mà nay lại thích hát và đánh đàn nhạc Vàng. Từ khi đồng chí gái về hưu thì bỏ hết thời gian vào đam mê, muốn làm ca sĩ, trở thành nữ hoàng Bolero cho các viện dưỡng lão. Mình không biết cô nàng có bao nhiêu cây đàn, cái trên xe, cái ở phòng khách , cái trong phòng ngủ, trong tương lai có thể có cả trong phòng tắm. Chưa kể các nhạc cụ khác để học đàn.

Có vợ muốn trở thành ca sĩ cũng vui. Mình nghĩ từ khi mụ vợ về hưu, hình như mình phải trả tiền quần áo mụ vợ mua nhiều hơn khi đi làm. Hồi mới lấy nhau, mụ không chịu bận áo dài, nay chả hiểu sao mụ mua khá nhiều áo dài để bận đi hát trong các viện dưỡng lão, cho khán giả đa số trả nhớ về không. Ngoài ra mụ còn bận áo quần rất nghệ sĩ, cứ làm như các hippie một thời ở đại nhạc hội Woodstock, đeo bandeau, bận quần ống loa, lên sân khấu, hát 1 câu thì sàn tới sàn lui, sàn qua bên phải rồi sàn qua bên trái. Sáng ra, điều dưỡng viên tọng cho các khán giả bất đắc dĩ cho một ly thuốc, bỏ lên xe lăn kéo ra phòng tập thể, say thuốc , đầu ngẩn ra phía sau, ngáp ngáp, lâu lâu rú lên như tiếng còi xe lửa trong đêm thâu. Ca sĩ đang hát gió lạnh về khuya cơn gió lùa thì nghe ai ở dưới rú lên như stereo sound. Kinh Nói vậy chớ cũng có một số đầu óc còn minh mẫn, trên 7 bó, con cháu bỏ vào viện dưỡng lão vì không có thời gian chăm sóc nên họ rất vui khi có người Việt đến thăm hay hát hò tiếng Việt, giúp họ nhớ lại thời thanh xuân, mang niềm vui đến cho họ trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Có người hiểu biết về am nhạc, kêu ca sĩ hát sai. Chán Mớ Đời 


Cuộc đời vui thật. Ca sĩ cứ hát, ban nhạc cứ đánh, không có ai xì xào như ở các nhà hàng gây quỹ hay đám cưới, hát chùa nên các viện dưỡng lão thích lắm, cứ kêu hát hoài. Về già mụ vợ đi làm ca sĩ già cho các khán giả ở các viện dưỡng lão còn mình thì đi làm vườn trồng bơ tưới cây, đuổi coyote, trở về đời nông dân.


Làm ô sin, mình phải ủng hộ một ca sĩ chưa nổi tiếng mà đã về già. Khi nào mụ đi hát, phải đi theo để ủng hộ, xách đàn, vác ba lô cho mụ vợ, vỗ tay cho to vì khán giả đa số, chỉ biết gào ê a. Ca sĩ Ý Lan đẻ 5 con cho chồng nuôi rồi mới bắt đầu lên sân khấu vào tuổi 40, còn mụ vợ thì sau 30 năm tần tảo nuôi chồng, mới bước lên sân khấu về trưa, nức nở trót sinh ra mang kiếp cầm ca. Ở viện dưỡng lão thì không có ánh đèn sân khấu nhưng các tiệm ăn thì có đèn chớp chớp. Tuần rồi, mình đang ở trong vườn, mụ gọi điện thoại ra xem họ hát hay lắm, nên phải bỏ cuốc xẻng, chạy về ra bolsa để nghe mụ hát. Có mấy người bạn cũng buồn đời đi học hát, học hò lên sân khấu. Phải vỗ tay cho gà nhà. Lại phải quay video cho mụ vợ nhưng mụ không xem vì đã có bạn của mụ quay rồi.


Mình hiểu ngày nay ở Hà Nội, họ gọi Nhạc Vàng là Nhạc Sến khi xưa trước 75. Sau 75 thì họ kêu là nhạc đồi trụy nhưng rồi không hiểu sao sau 50 năm, nhạc đỏ của họ hết được nhân dân hát, ngay nhạc sĩ Trần Tiến trên đài truyền hình, không biết thâu trước hay trực tiếp mà kêu là quên Nhạc Đỏ đi. Và chỉ hát khắp 3 miền nhạc sến của nguỵ quân nguỵ quyền. Họ lại thăng cấp lên Nhạc Vàng thay vì Nhạc Sến, nhất là nay vàng lên $5,000. Chán Mớ Đời 

Cả chục năm rồi, mình có nghe một ông thần bên Úc Đại Lợi nói trên YouTube về lịch sử tân nhạc Việt Nam từ thời tây sang đến 1975. Không nhớ tên, ai tò mò thì tìm trên YouTube. Nếu mình không lầm thì khi người pháp sang Việt Nam, các người theo tây học, thay vì đi nghe hát ả đào như Nguyễn Tuân, họ bị ảnh hưởng bởi nhạc của tây phương. Người Pháp sang Việt Nam thì đem theo mấy đĩa nhạc cuả họ thêm nhảy đầm theo các vũ điệu Tango, Rumba, Bolero, Slowrock thêm phát thanh trên đài giúp người Pháp nghe nhạc để quên nổi buồn xa xứ như sau 75, đa số người Việt di tản, tỵ nạn cũng hay sao băng cassette để nghe nhạc Sàigòn khi xưa.  


Từ đó người Việt mới bắt đầu học hỏi âm nhạc của người Pháp rồi biến tấu qua lời Việt mà họ gọi là nhạc cải cách (musique rénovée). Thời kỳ này thường được xếp vào thể loại tiền chiến, trước 1945 khi người Việt bắt đầu kháng chiến chống pháp. Bố vợ mình kêu là thời kỳ lãng mạn, thanh niên bị ảnh hưởng rất nhiều do đó theo kháng chiến như ông Che Guevara, lãng tử đi khắp xứ làm cách mạng. Thời đó có Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh… nhưng dạo đấy vẫn được xem trọng, chưa được gọi là nhạc sến. Nếu mình không lầm chữ Sến có nghĩa là mấy chị giúp việc trong nhà, dưới quê bỏ chạy giặc lên Sàigòn, hay gánh nước thường họ gọi là Marie Phong-ten (đến từ chữ pháp Fontaine, bể nước).


Sau Hiệp định Genève 1954, một lượng lớn dân Bắc hơn 1 triệu người di cư vào Nam, mang theo văn hoá âm nhạc riêng. Các nhạc sĩ như Phạm Duy, Dương Thiệu Tước,… Người miền Nam thích nhạc dễ hát, dễ nghe, giai điệu chậm, buồn. Như thể loại nhạc ca tài tử, cải lương,…


Chỉ khi quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam thì các điệu nhạc Bolero Latin mới du nhập vào miền Nam. Đi Tây Ban Nha nghe trong mấy quán nhạc người ta hát nhạc rất buồn cũng như Fado ở Bồ Đào Nha, nghe não lòng. Thời ông Diệm thì cấm nhảy đầm nhưng khi người Mỹ vào thì vũ trường, quán bar, phòng trà mọc lên như nấm khiến nhạc bình dân có đất sống. Mình nhớ bà dì mình khi xưa mê Tino Rossi lắm. Đà Lạt dạo đó có nhiều vũ trường. Mình chỉ thấy bảng đề vũ trường ở La Tulipe rouge, và Đào Nguyên. La Tulipe rouge, có dạo mang tên Maxim’s, có thời Xí Rổ đợi Đại Cathay Sàigòn bước ra rồi chém. Nghe nói có mấy chỗ khác nhưng mình không biết nhảy đầm nên chưa bao giờ biết mấy chỗ này.


Thời kỳ này bắt đầu xuất hiện phong cách sáng tác “nhạc vàng”; Lời ca mộc mạc, thẳng thắn, nói về tình yêu, chia ly, xa cách trong chiến tranh. Giai điệu chậm, rải đều, dễ thuộc. Khi xưa có bà hàng xóm nghe đài Sàigòn buổi chiều nên cứ nghe đài phát thanh nhạc, dù bé chả hiểu gì nhưng đến này lâu lâu mình rú lên “gác lạnh về khuya cơn gió lùa…có người con gái buông tóc thể,…” mình chả biết ai hát hay tác giả, chỉ nhớ khi xưa đài Sàigòn phát thanh. Ngày nay, lâu lâu bổng nhiên nhớ tới mấy câu này.


Sau này lớn lên một tí thì ông cụ mình mua các băng nhạc như Trường Sơn của Duy Khánh, mới bắt đầu nghe đến Lam Phương, Trúc Phương, Hoàng Thi Thơ, Hồ Đình Phương, Châu Kỳ… ông cụ mình hay mở băng nhạc Trường Sơn của Duy Khánh để nghe bài “tôi ở miền xa trời cao đất lạ,…” nhất là bài “con biết bây giờ mẹ buồn em trông, khi thấy mai vàng nở đầy trên mương,…” dạo ấy mình thấy ông cụ ngồi trên ghế nghe rất mê mệt. Sau này ra hải ngoại mình mới hiểu tâm sự của ông cụ khi tết về, xa quê, xa gia đình khi nhớ đến bài “Xuân này con không về”. Phải đợi 40 năm sau, ông cụ mới có dịp trở lại quê xưa.


Theo tài liệu mình đọc thì được biết là giai đoạn nhạc sến đạt đỉnh cao, đồng thời gắn liền với thân phận, chiến tranh và đời lính. Họ cho rằng chiến tranh lan rộng đưa đến dòng nhạc nói về cuộc chiến qua những ca khúc buồn, chia ly, nhớ nhung trở thành tiếng lòng của số đông người miền Nam. Mình thấy uỷ mị, làm mất đi tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Đọc đâu đó, các nhà văn, nhạc sĩ nằm vùng như Phạm Thế Mỹ, được lệnh của Trần Văn Giàu, sáng tác những tác phẩm làm ru ngủ người dân Miền Nam.


Trong khi đó nhạc của Hà Nội được gọi là Nhạc Đỏ, với những lời ca như “đường ra trận mùa này đẹp lắm,…” kinh. Đường đi giết người mà đẹp. Thi ca thì Tố Hữu, nghe nói ông ta là bộ trưởng văn hoá của Hà Nội viết như:

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt

Ngoài các nhạc phẩm được phát thanh trên các đài phát thanh, thêm băng nhạc và cassette đã đóng góp vào sự quảng bá các nhạc phẩm cho quần chúng. Mình nhớ ông bà cụ có dẫn đi xem đại nhạc hội tại Đà Lạt, có CHế Linh hát bài Những Đóm Mắt Hoả Châu thêm có ông mỹ Rick Murphy hát tiếng Việt khiến dân Đà Lạt kháo nhau đi xem.


Đại loại các nhạc phẩm “sến” nói về tình yêu đôi lứa trong chiến tranh, Nỗi niềm người lính xa nhà, Thân phận người phụ nữ, Kiếp nghèo, cô đơn, lỡ làng và nhạc sĩ sử dụng nhịp bolero 4/4, câu hát lặp lại nhiều để “vào tim”. Hình như Nhật Trường, Trần Thiện Thanh làm nhiều bài hát khá thịnh hành, với những bài hát nói về người lính mũ đỏ tên Đương hay người ở lại Charlie,…


Nhạc sến hình thành từ ảnh hưởng nhạc Tây và đời sống bình dân miền Nam, phát triển mạnh nhất 1963–1975 với chủ đề buồn, chia ly, đời lính, rồi sống tiếp ở hải ngoại, và hồi sinh rực rỡ ở Việt Nam hiện đại.


Âm nhạc giúp những người trả nhớ về không, tìm lại ký ức của họ. Mình có xem một phim tài liệu về một ông người Mỹ, đi vào các viện dưỡng lão, gặp mấy người lớn tuổi, bị bệnh trả nhớ về không. Ông ta mở nhạc, các bài ca thời của họ còn trẻ thì như đúng tầng số, mấy người này đứng dậy và bắt đầu múa hát nhảy cà tưng, cà tang. Họ khuyên chúng ta về già nên có lẻ chúng ta nên họ hát karaoke, hay trên sân khấu hoặc chơi đàn hay Keyboard,… mình có anh bạn, bác sĩ về hưu sớm để bỏ thì giờ đi học đàn và hát. Anh ta mê hát lắm. Hội đoàn nào mời là đi hát. Mình không biết chừng nào đồng chí gái hết nợ nần với kiếp đam mê hát hò. Chỉ muốn mụ vợ càng hát càng học đánh đàn là mình vui. Một ngày nào đó sẽ trở thành nữ hoàng Bolero của Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen .


Nguyễn Hoàng Sơn 


Những kiosques một thời ở Đà Lạt

Nhìn mấy ngàn tấm ảnh cũ Đà Lạt xưa thì mình khám phá có nhiều kiosques thời tây rồi đến thời Việt Nam Cộng Hoà được thay đổi rồi đến thời đệ nhị cộng hoà thì biến dạng. Nay mình tải lại đây cho thiên hạ xem để nhớ một thời xa xưa trong ký ức.

Mình không biết nhà thầu nào đã được trúng thầu dưới thời Tây để xây mấy kiosques này vì có mấy căn tương tự ở cạnh thác Cam Ly. Chỗ này trước đây có dãy nhà bằng gỗ 2 tầng bị phá khi xây Chợ Gỗ, Chợ Cây. Trên hình chú thích đâu vào thời 1940. Thấy chiếc xe kéo. Kinh, kéo ông tây bà đầm to phì lên đường Lê Đại Hành nay là ngọng. Đường Lê Đại Hành thời đó được gọi là đường Gia Long. Một trong những đường mang tên người Việt còn đa số là đường mang tên mấy ông tây cả.
Hình này mình đoán chụp chỗ văn phòng của nhà nha sĩ Trình, cạnh nhà hàng Nam Sơn

Sau đó họ phá bỏ dãy kiosques này để xây một dãy phố 1 tầng bằng đá với những vòm của Arcade như bên tây, lợp ngói.

Tấm không ảnh này cho thấy rõ hơn, cận cảnh là dãy nhà Đội Có, phía sau là bến xe Tùng NGhĩa, bên trái cận cảnh là khu tiệm chụp hình Hồng Châu. Cái nhà mái ngói 2 tầng là ty Thông Tin Đà Lạt sau này bị đập phá để xây cầu thang nối liền khu Hoà BÌnh với Chợ Mới Đà Lạt , trên ty Thông Tin Đà Lạt là 2 dãy nhà 2 tầng, bao lại Chợ Cũ Đà Lạt. Lúc này căn nhà của ông Nguyễn Văn Ngạch 2 tầng bên cạnh ti=y thông tin chưa được xây.

Khu Hoà Bình, cận cảnh trước năm 1950, có dãy phố này được xây trên cạnh thung lũng rau, sau này được xây Chợ Mới. Đây là tấm không ảnh thời đó khi Chợ Cây (chợ Gỗ) còn hoạt động trước khi dời xuống Chợ Mới (Tân Thị). Dãy này 2 tầng, tầng dưới buôn bán và tầng trên để ở hay văn phòng.

Đây là tấm ảnh chụp ngay tiệm kem Việt Hưng, căn đầu tiên của các kiosque đường Thành Thái, lúc đó chưa được xây cất. Ta thấy dãy nhà bên phải của CHợ Cũ. Sau này bị giải toả trong chương trình của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nhằm nối kết Chợ Mới với khu Hoà Bình.

Cận cảnh bên phải là khu nhà dãy phố, sau này kiến trúc sư Ngô Viết Thụ dẹp bỏ có lẻ sợ bị đất trùi sau này vì khu vực mới làm dưới chợ Mới
Hình này cận cảnh có một khúc của dãy vòm, cầu thang xuống chợ. Lúc đầu khu vực khách sạn Mộng đẹp là khu công viên nhưng sau 1963, ông Nguyễn Linh Chiễu mua chuộc sao đó nên dẹp công viên xây cái khách sạn to đùng cho mỹ mướn.
Thấy cái tấu to đùng của dãy phố xưa. Mình nghĩ là một sai lầm phá vỡ dãy nhà này rồi để mấy cái sập che tôn ngay trung tâm thành phố
Xây khách sạn M


Bên phải có dãy phố sau này bị đập phá. Căn nhà 2 tầng bên phải là ty thông tin Đà Lạt khi xưa, sau này bị giải toả để xây cầu thang hình chữ K
Bên phải Chợ Cũ là dãy phố. Có cái vòm để che nắng vì buổi chiều là mặt trời từ hướng tây.
Bên phải là dãy phố vòm 
Hình này chụp ngay tiệm kem Việt Hưng trước khi được xây cất dưới thời Ngô Đình Diệm.

Phá dãy phố có vòm rồi để khơi thiên hạ che vài tấm tôn 


Lúc đầu họ đã xây công viên chỗ khách sạn Mộng đẹp và nhà hàng La Tulipe Rouge rồi đất chỗ này được gái lắm nên họ cù cưa với thị trưởng nên cho xây khách sạn và tiệm ăn vũ trường ngay trung tâm thành phố để du khách.
Khách sạn và vũ trường được xây xong

Đây là kiosques đường Duy Tân nhưng sau này họ nới rộng đường này thành hai chiều nên dẹp, xây nhà phía bên này khu khách sạn Thuỷ Tiên, Long Hưng và Hiệp Thạnh.
Sau năm 1962 Chợ Mới Tân Thị được xây cất thì kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cho phá dãy phố hai tầng và xây một cầu thang hình chữ K, phá căn nhà 2 tầng của ông bà Nguyễn Văn Ngạch và bù cho căn phố dưới chợ ngay dưới cầu chữ K. Mình đoán lý do là sợ đất trùi sau khi vét thung lũng ngay chợ Mới nên phải xây cái tấu to đùng suốt khu vực này từ cầu thang lớn đến cầu thang chữ K qua đường Phan Bội CHâu. Nên thấy họ phá luôn dãy nhỏ gỗ ở đường Phan Bội Châu bên tay trái. 
Gần đây có nhận được tấm ảnh này. Lúc đầu mình tưởng là ở Khu Hoà Bình nhưng nhìn kỹ thì thấy phía sau cây thông rất nhiều, có bảng hiệu tiệm phở Hưng Thịnh, thêm dốc ngược với tấm ảnh khu Hoà BÌnh nên hỏi vòng vòng mấy ông thần ở trên mạng thì ông Trần Công Hoà cho biết địa điểm là thác Cam Ly. Ông ta còn chuyển đổi AI qua hình màu cho rõ nên tải lên đây cho bà con xem.

Gần đây mình nhận được tấm ảnh này thấy mấy kiosques thì đoán do một nhà thầu nhưng không biết ở đâu. Ông kiến trúc sư Trần Công Hoà, gốc Đà Lạt cho rằng ở số 48 đường Hùng Vương, con đường khi xưa từ khu vực chợ Suối Cát Nam Thiên đi vào phi trường Cam Ly.
Có mấy ông cựu khách hàng của Bà Thái thì kêu khu vực chị em ta Xóm bà Thái. Nên mình tải lên đây hình mà thiên hạ kêu là Xóm Bà Thái khi xưa. Cho mấy ông khách quen của bà Thái khi xưa tìm lại chút không gian một thời ăn phở Hưng Thịnh. Mình chưa bao giờ chạy qua đây nên không nhớ. Người Đà Lạt kêu ngày nay là đường Khe Sanh. Đường này được biết là đường từ Sàigòn lên Đà Lạt cũ, đến khi họ làm đường Đèo Prenn chạy lên đường Nguyễn Tri Phương thì con đường này ít ai lai vãng. Chỗ này góc đường Trần Hưng Đạo, chỗ ty Dụng Cụ (ga-ra Martinette cũ) của khu Công Chánh khi xưa, và trường học đầu tiên tại Đà Lạt của người Mỹ xây dựng.
Ây Ai làm màu thời 1940
Đây là đường Khe sanh ngày nay, đường vào Đà Lạt khi xưa tước khi đèo Prenn được xây dựng. Khi họ làm lại đèo Prenn thì dân Đà Lạt đi đường này về Sàigòn. Hình này ghi ngày 2 tháng 6 năm 1935
Hoàng hậu Nam Phương với tấm ảnh trên, lại không thấy ghi ngày tháng nên chả hiểu lai lịch ra sao

Mình suy đoán là khu xóm Bà Thái thì đúng hơn. Mình hỏi thiếu tá Phong 302 thì anh ta kêu không nhớ. Chắc phải hỏi ông Al Cornett, cố vấn cho đại đội trinh sát 302, khách hàng quen của khu này theo lời ông ta kể là đi hành quân về là bò lại đây, gái gú và sì ke. Lý do là đường chạy về Sàigòn nên khi xưa có khách du lịch lên xuống nên có tiệm ăn cho du khách.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

Out of Africa (rời khỏi Châu Phi)

 Mình theo dõi nhóm chuyên viết lịch sử về phụ nữ, âm thầm thay đổi xã hội, văn hoá, chính trị nên lâu lâu thấy họ đăng lịch sử những bà nhà văn, nhân vật nào đó… mà mình có dịp đọc khi xưa. Thật ra từ một thế kỷ qua, nhiều nhân vật nữ trên thế giới đã thay đổi rất nhiều xã hội về văn hoá, khoa học,… 

Mình có một sự kính nể các phụ nữ qua hình ảnh bà cụ mình, dù chưa bao giờ được đến lớp học nhưng vẫn thành công trong cuộc đời, không để sự nghèo hèn của ông bà mình, vẫn vươn lên trong xã hội tại Việt Nam. Do đó mình có đam mê tìm kiếm các nhân vật phụ nữ trong lịch sử để xem họ đã thay đổi xã hội, chế độ phụ hệ ra sao. Hôm nay có một bà, nói cho ngay không biết tên, chỉ nhớ dạo đi làm ở Luân Đôn thì có xem phim “Out Of Africa” có Robert Redford và Meryl Streep đóng với những phong cảnh đẹp nức nở. Sau này mình có dịp đi leo núi Kilimanjaro thì mới cảm nhận được hình ảnh trong phim. Hình như đạo diễn là Sydney Pollack. Đi xem vì bà thư ký trong công ty, người gốc Ấn Độ nhưng được sinh tại Kenya, rồi lấy chồng Anh quốc, di dân qua Luân Đôn, kêu mình đi xem. Đọc báo dạo đó nói là sau khi phim này trình chiếu thì dân Anh quốc đi nghỉ hè ở Phi châu đông còn hơn người Anh quốc.

Câu chuyện về một phụ nữ chôn người mình yêu tại Phi Châu, rồi chứng kiến đồn điền cà phê của bà ta banh ta lông sau bao nhiêu năm công sức xây dựng vì nói gì thì nói chớ trong một văn hoá như Phi châu, một phụ nữ khó mà sai khiến các nông dân ngu lâu dốt bền như mình nên khó mà thành công. Bà ta trở về âu châu, đói, hết tiền, bệnh và đơn côi. Bà ta mất hết những gì sỡ hữu tại phi châu, tình yêu, tài sản và kể lại hồi ức của thời gian tại phi châu, và cuốn sách này trở thành hồi ký được yêu thích nhất thế giới tây phương.


Karen Dinesen sinh năm 1885 trong một gia đình quý tộc, thông minh, tài hoa và cảm thấy ngột ngạt trong một nền văn hoá, đào tạo phụ nữ thành một hình thức trang trí và tuân lời đàn ông. Năm 28 tuổi, thời đó được xem là ế nguyên thuỷ, bà ta quyết định lấy bá tước Bror von Blixen-Finecke không vì tình yêu và muốn tìm con đường thoát ly. Lý do là bà ta yêu người em sinh đôi của chồng nhưng tên này từ khước, tiếp thu mối tình hữu nghị sông không liền sông núi không liền núi của bà nên chơi sang, lấy thằng anh để tên phụ bạc gọi bà ta bằng chị.



Ông chồng thích giang hồ, khó tin tưởng nhưng ông ta đem đến cho bà một lối thoát ra khỏi Đan Mạch, và họ rời Đan MẠch di dân sang Kenya, Phi Châu. Hai vợ chồng mua độ 450 mẫu đất dưới chân đôi Ngong, gần Nairobi. Và trồng cà phê, được xem là “kim thuỷ”, sẽ làm cho họ giàu có, khi đem cà phê về âu châu bán như Starbuck. Như bao nhiêu kẻ phiêu lưu, họ không biết gì về trồng trọt nhất là cà phê nơi xứ lạ. Đất của họ mua nằm trên đồi, cao độ quá cao để trồng cà phê. Đêm đêm trời lạnh nên cây cà phê chới với. Vụ này thì mình hiểu vì vườn bơ của mình ở vùng Riverside, nằm trên đồi cao, không nằm trong khu vực bị lạnh cứng chớ vùng Temecula thì có vấn đề này hay cách vườn mình độ 5 dặm, nằm dưới thấp là ngọng. Mùa đông lạnh dưới 30 độ F thì chủ nông trại phải đốt lửa rồi dùng quạt gió để thổi hơi ấm nếu không thì trái bị đông cứng thì bị hư ngay. Khu vực vườn mình thì nằm trên cao nên có gió thổi nên không bị lạnh lắm nên không vướng vụ này. Hú vía.


Ông chồng thì thuộc giống quý tộc nên tối ngày đi săn thú Safari như tây đồn điền khi xưa ở Đà Lạt. Nên bà ta từ một gia đình quý tộc phải làm lo lắng mọi thứ cho nông trại. Tiền bạc, nông dân,… rồi một ngày đẹp trời, ông chồng đi săn về và truyền cho bà ta bệnh hoa liễu vì gái gú trong các chuyến đi săn.

Thời ấy thì chưa có thuốc chữa như ngày nay. Họ chỉ hạn chế bằng cách sử dụng thạch tín và thuỷ ngân nên huỷ hoại từ từ thân thể của bà ta. Bà ta phải trở về Đan Mạch nhiều lần để chữa trị, thuỷ ngân làm hư răng của bà ta, hệ thống tiêu hoá cũng như thần kinh. Bà ta đau ốm cả đời đến khi qua đời. Có một ông gốc Đà Lạt kể cho mình là ông bố đi chơi gái bị bệnh hoa liễu về làm một phát bà mẹ bị bệnh này luôn nên hết sinh con đẻ cái. May là thời đó tây đã tìm được thuốc chữa trị.


Bà ta ly dị ông chồng năm 1925 sau 12 năm chung sống sơ sơ nhưng vẫn ở lại giữ cái trại cà phê. Bà ta cương quyết phải thành công. Trong phim họ quay Meryl Streep đẹp như bà mỹ chả thấy hư răng hư cỏ gì cả. 


Buồn đời bà ta có duyên gặp ông Denys Finch Hatton, người Anh quốc, tốt nghiệp đại học Oxford, có văn hoá, trí thức khác với ông chồng bá tước vớ vẩn. Ông thần này thì sang phi châu cũng để đi săn bắn thú và làm phi công. Ông ta yêu bà này nhưng không muốn đám cưới, bị ràng buộc. Trong khi bà ta thì muốn có một cuộc sống an bình. Nên hai người sống với nhau vài tuần rồi ông ta đi săn cả tháng, trở lại.


Trong phim thấy họ quay cảnh nghe nhạc Mozart, đọc thơ, hay xem mặt trời lặn, đủ thứ khiến mình muốn đi phi châu. Khi sang đây thì khám phá trong phim họ không có quay cảnh mấy con muỗi chích hay ruồi bu như ruồi bu. Cho nên khi xem phim là một chuyện còn thực tế là một chuyện. Khỏi phải đưa đồng chí gái sang đây vì mụ vợ không thích bị muỗi chích.


Bà ta có viết là chàng không có nhà ngoài cái lều che nắng che mưa. Thật sự đàn ông không thích bị ràng buộc lắm. Bà này bị bệnh hoa liễu nên mình không biết ra sao, thêm bệnh hoạn, răng cỏ bú xấu la mua. Gần 40 chắc cũng hết khả năng làm mẹ.


Đang bơi lội trong vòng hạnh phúc vô biên, âm nhạc của Mozart, thi ca nên bà ta quên lo vụ cà phê nên nợ nần chồng chất nên cuối cùng đành phải bán nông trại. Hoạ vô đơn chí, ông bồ buồn đời hay sao lái máy bay rồi đâm vào núi. Bà ta chôn người tình không bao giờ cưới ở đồi Ngong, nơi ông bồ yêu thích nhất rồi rời Châu Phi trở về Đan Mạch. Sạch túi, sạch tình. Chỉ còn lại mới ký ức vì cuộc tình không trọn vẹn và sự trống vắng dung dịch vô biên của đời người.


Thông thường ai lâm vào tình trạng của bà ta chắc lâm vào bệnh trầm cảm này nọ. Bà ta thì không, bà ta bắt đầu viết kể lại cuộc đời bà ta từ khi rời Đan Mạch. Bà ta lấy bút hiệu Isak Dinesen (Isak theo tiếng do thái, có nghĩa là “người thích cười” và Dinesen là họ của bà ta). Và bà ta bắt đầu viết về cuộc đời ở Phi châu. Bà ta viết cuốn “Out of Africa” (rời khỏi Phi Châu) và được xuất bản năm 1937. 


Bà ta viết về thiên đàng đánh mất tại pHi châu, một thời trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tạo dựng cơ ngơi tại một đất nước khác, không gò bó như những người di dân đến Hoa Kỳ hay một nước nào khác. Đau khổ vì tình yêu, như TTKH đi bên cạnh ái ân của chồng tôi vì bị bệnh hoa liễu. Rồi phát hiện ra mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi để rồi tình yêu vỗ cánh bay theo chiếc máy bay bà già rớt đâu đó trên ngọn đồi Châu Phi. Nông trại bà ta cố công phát triển cũng tan theo mây khói. Như các gia đình pháp sang Việt Nam như ở Đà Lạt, gia đình La Farrault, O’neil ,…muốn biến Đà Lạt thành khu nông nghiệp trồng trà, nuôi bò này nọ. Mình người Việt thì kêu là thực dân này nọ nhưng thật ra họ đem sự hiểu biết văn mình đến cho các thuộc địa. Ngày nay thực dân đã ra đi, rời khỏi CHâu Phi nhưng người sở tại vẫn không khá gì mấy trước kia. Khi xưa, thằng thực dân bốc lột, nay thằng đánh đuổi thực dân học nghề lại bốc lột dân bản địa nên thấy tương lai mịt mù. Nay người Tàu đến thì lại thấy hình ảnh mấy người sở tại đi tìm các ông ba tàu chém giết vì bốc lột họ.


Sau cuốn Out of Africa, bà có viết thêm nhiều cuốn nữa nhưng không được độc giả ưa thích lắm. Bà ta được đề cử văn chương Nobel mấy lần nhưng không được. Nhà văn Ernest Hemingway cho rằng bà ta xứng đáng là khôi nguyên văn chương Nobel hơn ông ta nhưng có lẻ thời đó xã hội còn kỳ thị phụ nữ.

Nhờ qua tác phẩm của bà ta mà người ta biết đến Safari , thú vật ở phi châu khiến du khách tò mò muốn khám phá. Mình nhờ đọc Hemingway mới muốn bò lên đỉnh núi cao nhất Châu Phi, Kilimanjaro.


Đọc cuốn sách thì hay hơn xem phim. Khi xem phim thì thấy hình ảnh này nọ chuyện tình thì chả hiểu gì nhiều lắm nhưng khi đọc cuốn sách, mới hiểu thêm về chủ nghĩa thực dân, sự xung đột hay đối xử với người bản địa ra sao.


Nay về già mới nhận ra là bà ta như mình, rời Đà Lạt ra hải ngoại, tạo dựng cuộc đời mới, lập gia đình, có con cái. May mắn không gãy cánh giữa đường như nhiều người bạn quen. Cuộc đời qua bao nhiêu chông gai, vợ chồng vẫn đồng hành vượt qua. Trong khi bà Karen, cảm thấy tù túng tại Đan Mạch. Ai chưa đi Đan Mạch chớ xứ này ít người, chán như con gián. Bà ta muốn thoát ra khỏi không gian tù túng, không muốn an phận cuộc đời nên chấp nhận lấy ông chồng không yêu thương gì để thoát khỏi không gian của xã hội cổ xưa.


Hồi ký của bà ta rất sống động, kể về cuộc sống tại phi châu, các toan tính, lo lắng khi làm nông dân, văn hoá phong tục của người bản địa, tình yêu vợ chồng như người tình hờ. Để rồi gặp ông thần phi công. Ông này cũng vậy, muốn thoát khỏi xứ sương mù, lái máy bay chở khánh khách, đi săn bắn. Ông ta cũng như bao đàn ông khác, không muốn bị kềm kẹp vào một tình yêu, bị trói buộc vào trách nhiệm người chồng, người cha. Chỉ muốn yêu như làm thơ, trong khi bà Karen thì muốn biến tình yêu thành công cụ, làm ô sin cho mình.


Bỏ cả tuổi thanh xuân để kiến tạo một tương lai vững vàn về tài chánh, tình yêu để rồi mất tất cả cho nên văn hoá của tây phương không có câu: “đỏ tình đen bạc” hay ngược lại. Đỏ tình thì đỏ tiền còn đen tình thì đen bạc. Anh hay chị có tiền thì gái hay trai đẹp bu lại đen còn hơn ruồi còn không có thì chả có thằng nào hay cô nào bu lại. Chán Mớ Đời 


Nhưng nhờ bà ta can đảm nhìn lại đời thấy rong rêu nên viết lại hồi ký một đời người đầy thất bại, vừa tiền bạc vừa tình yêu bằng anh ngữ. Có lẻ tại phi châu bà ta sử dụng anh ngữ nhiều hơn nhất là khi cặp bồ với ông phi công người anh. Cuối cùng bà ta thành công qua văn chương thay vì qua nghề trồng cà phê. Nhưng phải trải nghiệm mới có chất sống để viết thay vì ngồi bựa ra hay kêu Ây Ai viết dùm. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn