Xem chui ca trù với Nguyễn Tuân


Hôm nay, lái xe lên Lone Pine vì có người kêu muốn bán cho mình căn nhà của gia đình mà bà mẹ khi xưa có hứa bán cho mình sau khi bà ta chết nên chạy lên xem. Thành phố này mình có đến hai lần khi leo núi lên đỉnh Whitney. Lần chót là tháng 9 năm ngoái. Mua chắc làm Airbnb rồi lâu lâu lên đi bộ lên núi hay viếng Thung Lũng Tử Thần cách đó mấy chục dặm mà năm kia có lên đây chơi mấy ngày với mụ vợ, khách sạn đắt như ở Thụy Sĩ. Luôn tiện dạy thằng con cách xem nhà, nghiên cứu ra sao trước khi quyết định mua và thương lượng. 


Đi đường, buồn đời mở ca trù nghe đến bài Tỳ Bà Hành thì thấy tên ca nương là Phó thiên Đức nên chợt nhớ đến bài viết của ai, được tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đăng lại trên bờ lốc của ông mà mình đọc lâu lắm rồi. Có nghe ông Nguyễn Tuân gọi ca nương; em Đức ơi nên mình mò lại bài viết khi xưa của ai kể về đêm ở An Toàn Khu, ông Trần ĐỨC Thảo kể lại được nghe ca trù lần đầu tiên. Tải lại đây để ai thích hiểu thêm về thời cách mạng cũng như khía cạnh ca trù. Từ khi đọc bài này mình hay Mở xem ca trù ở Việt Nam thay vì nghe thiên hạ hát karaoke. 

Mình bắt đầu để ý đến ca trù sau khi xem phim do ông Đơn Dương, gốc Đà Lạt đóng

TRẦN ĐỨC THẢO VÀ ĐÊM Ả ĐÀO CHUI Ở ATK NĂM ẤY

 

– Thời gian sống ở ATK (An Toàn Khu), tôi [Trần Đức Thảo] bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả! Ai thích xem ca trù thì nhấn. 

 https://youtu.be/temE-QtnBRk?si=IScZba5Wbj010eYX

– Sống như thế thì tẻ nhạt quá, làm sao bác chịu nổi?

 

– Ấy trong quãng thời gian sống ở bên lề chính trị như thế không hẳn là tẻ nhạt đâu. Thỉnh thoảng cũng có những giây phút rất thú vị, rất vui. Bởi sống ở hậu phương thời kháng chiến, luôn luôn được chứng kiến những ngang trái xảy ra thật là bất ngờ, làm bật cười, cười đến chảy nước mắt. Trong cách mạng mà cũng có lúc ăn chơi lén lút, đáng ghi nhớ về cái “thời bao cấp” ấy. Những thú vui chui lén như vậy cũng làm cho mình phải suy nghĩ, tìm hiểu hiện tượng cách mạng và những khát vọng của con người…

 

– Thú vui lén lút đáng nhớ ấy là gì?

 

Bác Thảo kể có một lần, “không thể nào quên được”. Đó là lần được nhà văn Nguyễn Tuân mời đi ăn một bữa cơm Tây, tại một xóm dân Hà Nội tản cư về sống gần ATK. Khi vào tới xóm ấy, là phải chui qua mấy hàng giây thép, trên phơi đầy quần áo màu mẻ sặc sỡ khác hẳn với quần áo nâu sồng của nông thôn, được giặt để cất đi, ở sân sâu bên trong một căn nhà cổ, để tới cái quán ăn chui lậu hiếm hoi ở hậu phương. Chủ nhân tự khoe mình từng là đầu bếp của cựu thống sứ Bắc kỳ Graffeuil! Bữa ăn hôm ấy có cả món thịt bò. Chateaubriand, có cả rượu vang Bordeaux. Thịt tươi là do cánh công an vừa săn được một con nai! Còn rượu cũng là do cánh công an mang từ Hà Nội ra! Ăn xong, Tuân chửi vui: “Sư bố chúng nó! Tàn dư phong kiến, thực dân mà sướng thế đấy!”. Thảo ngơ ngác không biết Tuân chửi ai? Ăn uống ngon lành thế sao lại chửi?

 

Sau bữa ăn, Tuân còn cao hứng dẫn Thảo đi hát “cô đầu”! Dĩ nhiên cũng là hát chui, hát lậu. Địa điểm là một căn nhà chòi có cót che kín mít, dùng để chứa nông cụ thúng, mẹt, cày bừa… ở ngay giữa một cánh đồng lớn mới gặt xong. Thảo được đưa tới chờ ở đó, nên rất lấy làm lạ. Ngồi một mình ngắm trăng mười sáu sáng ngời, chung quanh là một cánh ruộng bàng bạc màu vàng khô khốc của những gốc rạ mới gặt xong, xa xa là những luỹ tre xanh vi vu gió thổi. Cảnh thật đẹp và buồn.

 

Mãi sau, Tuân trở lại lố nhố với năm, sáu người lạ mặt, trong đó có một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mỗi người ôm một cái túi khá lớn. Họ vào trong căn chòi rồi cài cài mấy tấm cót cho kín đáo. Một ngọn đèn dầu hoả được thắp lên cho vừa đủ sáng để thấy tỏ mặt nhau. Họ mở túi lấy ra, người thì một cái trống nhỏ, người thì một cây đàn Đáy. Chị phụ nữ cũng lấy ra hai que gỗ và một cái phách. Tuân nói thật trịnh trọng:

 

– Hôm nay tôi lén tổ chức chầu hát này là để đãi ông bạn trí thức ở tận bên tây mới về. Yêu cầu em Đức hát cho thật đạt chỉ tiêu đấy nhé!

 

Cô ca nương nhìn Thảo rồi đáp:

 

– Anh Tuân ơi! Anh ép, thì vì nể anh em cũng cố mà ra đây hát thôi. Bởi em đã giải nghệ từ mấy năm nay rồi. Nêu công an mà biết thì em sẽ bị đi tù mất. Hát ả đào bây giờ bị coi là thứ nhạc sa đọạ của thời phong kiến, nó đã bị khai tử từ lâu rồi!

 

– Không sao đâu, anh đã lo lót hết rồi. Tuân này bảo đảm mà!

 

– Cứ hát đi, đã có ông chủ tịch xã kiêm trưởng công an ngồi nghe đây thì còn sợ gì!

 

– Thôi đừng khách sáo nữa! Ta bắt đầu đi, kẻo đã quá canh khuya rồi. Đàn lên! Xin mời quan viên giữ trống ra tay! Bắt đầu “Hồng, Hồng, Tuyết Tuyết” đi em!

 

Vài tiếng đàn chậm rãi vẳng lên, trầm bổng, thánh thót day dứt trong đêm khuya thanh vắng. Rồi một giọng ca trong vắt, ngân nga, luyến láy vang lên giữa cánh đồng vằng vặc ánh trăng.

 

Rồi tiếng trống vào nhịp:

 

– Tom! Chát! Chát! Tom!

 

– Hồng, hồng, tuyết, tuyết ứ ư ừ mới ư ừ ngày nào chửa… ư biết cái chi chi…

 

– Tom, tom, chát…

 

Tiếng hát, tiếng đàn nhịp trống bỗng đưa mọi người nhập vào một thứ nghi lễ tôn giáo linh thiêng… gợi cảm, trữ tình của nghệ thuật!

 

Bác Thảo vui vẻ, thích thú kể lại thật chi tiết về một chầu hát ca trù lén lút vô cùng cảm xúc, trong đêm khuya ấy, giữa một cánh đồng khô, trong lúc tình hình chiến tranh sôi động, mọi người lo âu, bồn chồn không biết ngày mai sẽ ra sao!

 

Bởi đấy là lần đầu tiên trong đời bác Thảo được nghe tiếng hát “trong như pha-lê, luyến láy ngân nga, thấm nhập tâm can, làm rung động toàn thân xác.,.”. Bác say sưa khen:

 

– Ôi! Lúc ấy, tiếng đàn, tiếng hát, sao có thể thuần khiết, âm vang sâu thẳm đến thế! Tiếng trống bắt nhịp thật lịch duyệt, như thúc dục, như khuyến khích ca nương!

 

Bài ca vừa chấm đứt, Thảo không nhịn được phản ứng ngạc nhiên, nên hỏi:

 

– Sao thứ ca dân gian này có thể nghệ thuật đến thế! Hay như vậy sao lại cấm? Trong đời tôi, tuy đã từng biết thưởng thức những tiếng đào, lời ca cổ điển vô cùng nghệ thuật của lối hát đại nhạc (opéra) phương Tây, nhưng đây là lần đầu tiên tôi khám phá ra một lối ca nghệ thuật tuyệt kỹ, vừa trữ tình, vừa huyền bí, thiêng liêng như của một tôn giáo, nghe mà rợn cả người, cứ y như bỗng mình được lạc vào cõi Thiên Thai. Một thứ nghệ thuật truyền thống quý như vậy, sao lại bắt nó phải chết?

 

– Tại vì xưa kia nó phục vụ giới quan lại, phú hộ thời phong kiến! – Tuân giải thích – Thôi bây giờ thì ca tiếp đi chứ!

 

Người nghệ sĩ chơi đàn, người “quan viên” giữ nhịp trống điều khiển, rồi ca nương, tất cả đều đắm say diễn tả, như hoà tâm hồn vào mấy bài hát nói danh tiếng của mấy nhà thơ trứ danh thời trước. Tay đàn, tay trống và ca nương, tất cả đều biểu diễn, với tất cả sở trường, y như đang làm sống dậy giây phút thanh bình của đất Hà thành thanh lịch xa xưa!

 

Thảo giải thích thêm với chúng tôi:

 

– Tiếng hát ả đào đúng là hợp với tâm tư, hoàn cảnh của từng người lúc ấy. Ai ai cũng đang mang nặng một tâm tư u buồn, nên mới hát được như thế, mới nghe thấu được nỗi niềm của giọng hát, lời ca. Tôi đã từng biết lối hát đại nhạc (opéra) của phương Tây. Lối hát ấy là dùng sức buồng phổi đẩy làn hơi qua thanh quản để đưa nốt nhạc vọt lên chói vót như thi tài với tiếng đàn. Nhưng lối hát ả đào thì tế nhị hơn, vì ca nương phải kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn hơi qua họng, để uốn nắn âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến láy, nghẹn ngào; như than van, nức nở, để bầy tỏ nỗi niềm… Nghệ thuật hát ả đào, do đó tinh vi, truyền cảm tình tiết cao siêu, sâu sắc, huyền bí hơn hẳn đại nhạc phương Tây. Tôi không hiểu sao một nghệ thuật tuyệt vời như thế mà lại nỡ lòng mang vứt bỏ nó đi! Một dân tộc có một nền văn minh cao độ mới có thể có một lối hát nghệ thuật đậm tính văn hoá dân tộc đến thế, sao lại chê bai, kết tội nó!

 

– Ôi dào! Bây giờ thì cái gì của thời cũ đều bị phá đi, vứt bỏ hết! Bây giờ người ta tính áp dụng lối tiêu thổ kháng chiến ở Liên Xô, phá sập, dẹp hết, đốt hết, san thành bình địa ráo, để địch không thể xâm chiếm được. Nơi nào có tinh thần kháng chiến cao như vùng Vinh, Thanh Hoá, Nghệ An thì đã bắt đầu có lệnh thi hành chính sách “tiêu thổ”. Với hô hào “tất cả cho kháng chiến”. Tiếc gì cái lối đa truyền cảm, trữ tình, nay bị coi là truỵ lạc, là sa đoạ này!

 

Chầu hát ả đào dần tới hồi kết thúc. Quan viên cầm trống bỗng đứng dậy, bước tới trước mặt nhà văn Nguyên Tuân, nghiêm chỉnh cúi đầu nói:

 

– Xin kính mời quan bác! Quan bác là người đã nổi tiếng là tài danh cầm chầu là tài tử lịch duyệt của ca trù, đệ xin trả lại ngôi quan viên cho quan bác, để quan bác giữ nhịp cho bài ca cuối cùng của chầu hát chui này. Đệ chọn bài “Tỳ bà hành” để kết thúc, y như trong các buổi ca trù của các nhà hát trứ danh của Hà thành thanh lịch thủa xa xưa.

 

Nguyễn Tuân nghiêm nghị đón nhận chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, đặt trống xuống đúng tầm tay, đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay đàn và ca nương, đúng cách quan viên sành điệu, như vị nhạc trưởng của ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh trên một chiếu hát. Mọi người chờ tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại đặt nhẹ rồi trống xuống và nói với giọng trầm buồn:

 

– Này em Đức ơi! Anh biết em từng là ngôi sao ca nương sáng chói của lò hát bà Đốc Sao ở Hà Nội. Xưa kia thì phải là cỡ Tuần phủ, Tri huyện trở lên tới Tổng đốc mới được nghe tiếng em ca. Thế rồi cách mạng về thì nhà bà Đốc Sao biến đâu mất tích. Nay được tin em trôi dạt về đây, anh đã phải bịa chuyện xin đi công tác phương này, cốt là để tìm em, để được nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết vì bom đạn thì anh cũng mãn nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây, cái cánh đồng khô giữa vùng đất núi rừng Tuyên Quang này bỗng trở thành một bến Tầm Dương! Và em Đức sẽ là người đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những Tư mã của thời đại, đang bị thời thế lưu đày về cái đất Giang Châu của Tuyên Quang này… Em hãy ca thật hay lên, để tiễn đưa chúng anh ngày mai lại lên ứ… ư đường! Chỉ tiếc ở đây không có rượu ngon để anh ngâm mấy câu thơ cổ:

 

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi

Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!

 

(Thơ Vương Hàn, Lương Châu từ, Trung Quốc)

 

Rồi Nguyễn Tuân cao hứng, đằng hắng, lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:

 

Rượu ngon thơm ngát chén ngà

Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi

Sa trường say, cười mà chi

Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!

 

(Người dịch khuyết danh)

 

Cây roi giơ lên phát lệnh bắt đầu bài hát:

 

– Tom! Tom! Chát!

 

Nhưng tất cả ngạc nhiên vì ca nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc nức nở! Thảo ngồi đấy cũng long lanh nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm thấy một nỗi u buồn thấm thía khó tả, chẳng rõ vì sao. Nức nở, sụt sùi một hồi, ca nương lấy lại bình tĩnh nói:

 

– Em xin lỗi! Em xin lỗi! Vì nhìn mấy anh ăn mặc nâu sồng vất vả, mặt mày hốc hác, em thấy thương mấy anh quá! Mà em cũng khóc cả cho thân phận em! Thôi để em hát, để tiễn đưa các anh, và cũng là đưa em nữa, vì mai đây gia đình em sẽ tìm đường về xuôi, vì cái bến Tầm Dương của em là bên quê ngoại ở mãi vùng Thái Bình cơ!

 

– Thôi nín đi em! Hát đi em!

 

Nguyên Tuân lại nổi trống giục:

 

– Tom! Tom! Tom! Chát!

 

Ca nương bắt đầu lên giọng ngân nga, luyến láy não lòng:

 

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.

 

Dời thuyền ghé lại thăm tình

Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.

 

Nghe não nuột mấy dây buồn bực

Dường than niềm tấm tức bấy lâu

Mày chau tay gẩy khúc sầu

Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn.

 

Thuyền không, đậu bến mặc ai

Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi, lạnh lùng.

 

Nghe não ruột khác tay đàn trước

Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi

Lệ ai chan chứa hơn người

Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh…

 

(Trích thơ Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch [*])

 

– Tom! Chát! Chát! Tom!

 

Tiếng trống vang lên như để khen “Thật tuyệt vời!”, tiếng đàn cùng tiếng hát ngưng bặt. Cả cái chòi cót giữa cánh đồng không ấy bỗng im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió, xào xạc, qua một bụi tre, vọng lại từ xa.

 

Trong chòi, mọi người, như chết lặng vì quá cảm xúc. Tất cả êm thấm đứng dậy, chậm rãi thu xếp trống, đàn, từ từ rút lui. Tất cả họ bùi ngùi, câm nín, ra về trong sợ sệt, nhìn trước, ngó sau, lắng tai, phóng mắt ra khắp phía xa chung quanh, không ai nói với ai nửa lời. Mỗi người mỗi nặng một tâm tư luyến tiếc, lo âu, sợ hãi…

 

Nguyên Tuân ghé tai Thảo:

 

– Này ông bạn trí thức của tôi ơi, nhớ cho kỹ là đừng cho ai biết là tôi đãi ông chầu hát ca trù này đấy nhé! Phải “bem” (giữ bí mật) kẻo lại bị ngồi viết kiểm điểm thì mệt lắm đấy!

 

– Thú thật là ngồi nghe, tuy không hiểu hết ca từ, nhưng tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống y như mình cũng đang khóc cho nỗi niềm u uất của chính mình. Không thể ngờ là lối ca này nó thấm thía vào tim gan đến thế!

 

– Anh có biết tại sao ca trù nó thấm thía vào tâm hồn mọi người không? Tại vì đây là một lối ca trữ tình. Bởi lời ca toàn là những bài thơ, bài hát nói của một nền văn chương quý phái đã lâu đời. Cách diễn tả lại càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị ức chế trong lồng ngực để rồi được đẩy ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức nở, để bầy tỏ những tình cảm uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn, muốn than van, nuối tiếc, khóc thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi niềm trong lòng thì mới thưởng thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi biết anh cũng đang có nhiều nỗi niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời anh đi hát hôm nay. Có đúng như vậy không nào?

 

Thảo nhìn Tuân chằm chằm, rồi ngần ngừ nói:

 

– Anh hỏi tôi câu ấy làm tôi chột dạ. Cố phải anh là môn đệ của Freud đã nhìn thấy tâm can tôi không? Hay anh là cán bộ của “cụ Hồ” đang gài bẫy để bắt quả tang lập trường chao đảo của tôi đây?

 

– Tôi chưa hề đọc Freud. Và anh cũng đã mắc cái bệnh cảnh giác nặng rồi đấy. Nhưng cứ yên tâm, vì thằng Nguyễn Tuân này dù thế nào thì cũng không thể hèn mạt đến nỗi bán rẻ tình bạn cho cách mạng đâu. Anh cứ bình tĩnh mà chịu đựng và chờ đợi, chờ thời… Tôi hỏi thật, anh có hiểu tại sao ca trù nó lại thấm thấu tâm can chúng ta như vậy không?

 

– Tại sao vậy anh?

 

– Tại vì ca trù toàn chuyên chở âm điệu những nuối tiếc, những tình hận, những chí cả sinh bất phùng thời của những kẻ bất mãn, bất đắc chí như anh đấy!

 

– Sao anh thấy được tận đáy lòng tôi như thế? Xin cảm ơn anh! Nhưng cũng xin anh đừng làm tôi sợ vì đúng là anh đã bắt quả tang tôi đang chao đảo lập trường đối với cách mạng!

 

– Anh đừng lo. Tôi hiểu anh vì tôi hiểu tôi. Bởi chúng ta chỉ là bọn Giang Châu Tư mã đang bị giông bão thời cuộc đánh trôi dạt về cái bên Tầm Dương rừng rú này. Buồn lắm! Thảm lắm anh ơi! Với anh tôi mới dám thổ lộ tâm sự u buồn của tôi. Bởi tôi biết sợ cũng như anh biết sợ…

 

Rồi bác Thảo còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nàn ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy nữa.

 

Trích “Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối”,

Phan Ngọc Khuê ghi.

Nguồn: FB La Khac Hoa.

Đăng lại theo FB Nguyễn Xuân Diện.

Đăng lại theo fb Nhã Hoàng

 

➡️ [*]: Ngày nay chúng ta biết bản dịch Tỳ bà hành nổi tiếng là của Phan Huy Thực, còn trong bài ghi Phan Huy Vịnh là đúng với kiến thức thời đó - NH.

Rồi bác Thảo còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nàn ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy nữa.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc Sơn tử

5 điêu khắc gia, 5 thế kỷ, 1 giáo đường

 

Mình đang chuẩn bị đi bộ trên đường mòn Via Francigena, hành hương của người công giáo ở Ý Đại Lợi. Con đường này theo lịch sử khởi đầu từ Canterbury, Anh quốc đi qua biển Manche rồi đến Pháp quốc, Thuỵ Sĩ và Ý Đại Lợi. Mình chỉ khởi đầu ở Lucca, Ý Đại Lợi đến La Mã và sẽ ghé lại thành phố Siena, tỉnh đầu tiên mình đến khi đi du lịch lần đầu tiên ở Ý Đại Lợi tháng 4 năm 1976. Vợ cho đi 3 tuần. Gần 500 km. Xem như 49 năm sau sẽ ghé lại thành phố này nổi tiếng với Palio, đua ngựa vào tháng 7 và tháng 8. Nghe nói năm nay vì trời mưa nên dời lại.


Lúc đầu mình dự định đi hành hương bên Tây Ban Nha nhưng xem tình hình thì từ đầu năm đến tháng 6 vừa qua, đã có gần 400,000 người đi bộ ở xứ này nên mình sợ đông người nên đi Ý Đại Lợi, ít người hơn. Đường bên Tây Ban Nha nổi tiếng vì cuốn phim Mỹ “the way” nên người Mỹ đi đông như quân Mỹ.


Mình thích trở lại thành phố Siena vì khi xưa có vẽ tại đây nhưng năm thứ 1, vẽ như bò cào nên muốn trở lại để viếng lại ngôi giáo đường danh tiếng ở đây. Thật ra chỉ có kiến trúc sư mới để ý vụ này còn du khách đa phần đến để xem Palio, hay chụp ảnh. Lý do nhà thờ này được thiết kế bởi 5 kiến trúc qua 5 thế kỷ, mới có hình ảnh ngày nay mà du khách đến chụp hình.


Khởi đầu là kiến trúc sư Nicola Pisano, vào năm 1265, ông ta thiết kế bục giảng cứ như thời la-mã. Ông ta không những tạo dựng lại kiến trúc một mà tạo dựng hình tượng rất tuyệt Mỹ. Sau đi viếng Alhambra bên Tây Ban Nha mới thấy hình tượng tương tự.


Mặt tiền do Giovanni Pisano

rồi khi ông ta qua đời thì người con tên Giovanni Pisano tiếp tục sự mệnh của cha. Ông ta là kiến trúc sư trưởng phụ trách mặt tiền của nhà thờ, ông ta điêu khắc các tượng thánh được kể trong kinh thánh, các triết gia….


Donatello

Sau khi ông này ngưng thở thì đến kiến trúc sư Donatello vào năm 1450, thời Phục Hưng. Ông này tạc tường thánh John the Baptist khiến thiên hạ bị cú sốc. Ông ta đưa chủ nghĩa hiện thực của thời phục Hưng trở lại sự sự thô sơ và đầy khó chịu
Rồi sau đó nghệ nhân Michelangelo xuất hiện và tạc 4 thánh trên bàn thờ Piccolomini: thánh Paul, Peter, Gregory và Augustine. Nhìn các tượng thánh người xem cảm nhận được năng lượng từ các bàn tay, áo quần và những ánh mắt.


Mấy tượng do Michelangelo tạc dựng

Đến năm 1660, có đức giáo hoàng sinh tại thành phố Siena này, muốn xây thêm một nhà nguyện. Ông ta kêu kiến trúc sư Bernini đến và thiết kế nhà nguyện theo kiến trúc baroque. Được xem là tuyệt đỉnh của trường phái này. Khi ông I M Pei trúng giải thưởng xây viện bảo tàng Louvre tổng thống Francois Mitterand nói với ông ta sẽ bảo đảm ông sẽ thực hiện được đồ án thay vì kiến trúc sư Bernini khi xưa, đã được vua Tây kêu qua để thiết kế điện Louvre nhưng cuối cùng bị người Pháp chống đối nên phải về Ý Đại Lợi ăn spaghetti. Ông tạc tượng thánh Jerome và Mary Magdalena như đang chống lại các thách thức tâm linh. 



Giáo đường có sự tham gia của 5 kiến trúc sư; Nicola Pisano với Cái bục giảng. Con trai ông ta Giovanni Pisano thiết kế mặt tiền, Donatello là tượng đồng đến Michangelo với những thánh quan trọng của nhà thờ và ông Bernini tạo dựng các linh hồn. 


Điều vui là không ai biết trước sự việc thành hình của giáo đường thành phố Siena như ngày nay. Không nằm trong bản dự án sơ đồ của gia đình Medici ở vùng này mà thiên tài của 5 thế kỷ của Ý Đại Lợi hội tụ tại một nơi, tỉnh lỵ nhỏ bé này. 


Du khách đến viếng nhà thờ có thể đi ngang qua những tác phẩm của Michelangelo hay những hình ảnh đau thương của tác phẩm do ông Bernini điêu khắc rồi sau khi chụp hình họ sẽ rời xa và không biết là đã viếng hình ảnh của 5 cuộc cách mạng nghệ thuật kéo dài suốt năm thế kỷ. 


Mình sẽ ở lại thành phố này hai đêm để có thì giờ xem xét, ngắm lại nhưng gì đã được thầy giáo giải thích khi xưa nhưng sinh viên năm thứ nhất nên chỉ nghe như vịt nghe sấm. 


Đi tìm lại dấu chân xưa của một thời ngu dại. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc Sơn tử

Những con đường Trường Sơn đặc biệt


Đọc mấy bài viết của ông Mỹ, cựu phi công tham chiến tại Việt Nam, kể lại các điệp vụ, nhảy toán, thám thính của ông Nguyễn Văn Cư, thuộc lực lượng đặc biệt của Việt Nam Cộng Hoà. Kể về những vụ nhảy toán vào con đường Trường Sơn, để thâu thập tin tức để thả bom. Người Mỹ bỏ bom không biết bao nhiêu tấn, thậm chí còn rãi bột da cam mà ngày nay các cựu chiến binh Hoa Kỳ, vẫn còn bị ảnh hưởng. Theo dõi mấy nhóm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, có rất nhiều người than ngày nay vẫn còn bị đau do chất da cam khi xưa được rãi trên chiến trường Việt Nam.


Hình tìm thấy trên nhóm cựu quân nhân Mỹ. Trực thăng bốc toán llđb ra khỏi vùng địch. 


Nhưng tại sao không chận được đường tiếp tế của Hà Nội vào nam. Tò mò mình đọc được cuốn sách của ông Đặng Phong, giáo sư viện Kinh Tế Hà Nội. Nói ngoài con đường mòn chính từ Thanh Hóa qua Lào, Hà Nội còn gầy dựng những con đường Trường Sơn khác thì mới hiểu thêm chút gì về cuộc tiếp liệu của Việt Cộng trong chiến tranh Việt Nam. Nhìn lại thì phải nói là Viẹt Nam Cộng Hòa quá giỏi đã cầm cự được Việc Cộng suốt 20 năm sau hiệp định Geneva. Gần đây mình đọc đâu đó nói có trên 300,000 lính tàu bận đồ bộ đội tham gia chiến tranh Việt Nam. Để mình xem lại mấy tấm ảnh người tàu bận đồ bộ đội. Nếu đúng thì có lẻ vì vậy mà Hoa Kỳ không muốn đánh tới bến, sợ Trung Cộng chơi thêm cú Triều tiên năm 1953. Theo tài liệu mới tìm được thì họ cho biết có đến 300,000 chiến binh Hồng vệ quân đã sang Việt Nam giúp Hà Nội nhưng chỉ ở hậu cần, không trực tiếp đánh nhau với Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ.


 Chỉ tìm thấy bản đồ từ Hải cảng Cao Miên đến vùng Pleiku, chưa tìm ra bản đồ đến miền Tây nam bộ. Ai có cho em xin để bổ túc.


Con đường Trường Sơn qua hải cảng Cao Miên. Mình thấy quan trọng nhất, hiểu lý do ông Hoàng Thân Sihanouk cho phép Việt Cộng chuyển tiếp liệu qua Hải cảng của xứ Khờ Me đưa đến sự thất bại chống cộng sản của Việt Nam Cộng Hoà. Vì làm vậy ông ta mất đi sự trung lập mà tổng thống De Gaulle muốn biến Đông Dương trở thành trung lập. Đã cho Việt Cộng chuyển quan, tú náu tại quê hương của ông ta là mất đi tính trung lập.


Treen nguyên tắc, Lào và Cao Miên là trung lập nhưng trên thật tế thì các cuộc chiến trong bí mật đã xảy ra tại các xứ này nhất là tại Lào, quân đội Mỹ nhất là lực lượng đặc biệt đóng quân tại đây hay thám thính, bỏ bom khá nhiều tại xứ này.


Sau hiệp định Geneva, Việt Nam bị các nước lớn chia làm đôi như xứ Triều Tiên, Đức quốc. Cựu ngoại trưởng Trần Văn Đổ kể là hai phái đoàn người Việt đại diện tham dự hội nghị cho vui vì một hôm, ông Phạm Văn Đồng, gọi điện thoại ở khách sạn cho ông Đổ, cho biết phái đoàn Liên Sô đã nói họ đã thống nhất với Hoa Kỳ, Pháp và Trung Cộng, chia cắt Việt Nam ở vỹ tuyến 17. Thế là ngọng. Người Việt không có quyền nói gì cả về sinh mệnh của quốc gia họ. Sau đó, hai phe người Việt, đại diện cho hai khối đánh nhau chí choé cho ngoại bang từ 1954 đến 1975. Tương tự ngày nay, mấy nhóm như Hezbollah, Houthi, Hamas,.. đánh dùm cho Ba Tư này nọ.  Hay Ukraine đánh cho Âu Châu và Hoa Kỳ. Dân chết chớ chả ăn nhập gì đến tương lai của họ.


Như ông Lê Duẫn đã tuyên bố là Bắc việt đánh cho Nga và tàu. Như ông thần nào tuyên bố Cuba ngủ thì Việt Nam thức. Còn miền nam thì nghe Hoa Kỳ đến nói về chủ nghĩa tự do, nhân bản, phải bảo vệ tự do của miền nam thế là đánh đến khi Hoa Kỳ bắt tay bán CoCa cola cho người Tàu là phủi tay. Chết sống mặt bây. Họ đã tiếp tục với các nước ở Trung Đông.


Họ kêu 2 năm sau, tổng tuyển cử để thống nhất lại Việt Nam. Vấn đề là ngoại bang chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17, lại quên chú ý đến số người dân vì tính ra người dân ở Bắc Việt từ Cửa Tùng trở lên có 3 triệu người hơn miền Nam sau khi có 300,000 người miền Nam tập kết ra Bắc và 1 triệu người di cư vào nam. Thời đó Việt Nam có độ 18 triệu ngoài Bắc và 15 triệu trong Nam. Ngoài ra Đảng cộng sản còn cài đặt lại miền nam nhiều cán bộ, để tạo dựng cơ sở đánh phá miền nam. Cho thấy họ không chủ trương thống nhất đất nước bằng hoà bình mà bằng quân sự.


Ông Diệm về nước làm thủ tướng rồi truất phế ông Bảo Đại, đắc cử tổng thống của đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà. Có thi hành chương trình Ấp Chiến lược, bắt chước của người Anh quốc tại Mã Lai. Mình đọc đâu đó thì ông Phạm Ngọc Thảo được cử thực hiện vụ này. Ông này lại là tình báo của Việt Cộng nên huề cả làng. Sau đó người Mỹ phải bỏ vụ này. Nhìn lại thì ông Diệm, phải lo giặc trong thù ngoài. Bình định nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn, Ba Cụt,… một mặt phải truy lùng Việt Cộng nằm vùng. Một mặt có nhóm thành phần thứ 3, chống đối, giựt dây bởi Hà Nội. 


Trong cuốn sách, kể là những năm 1960, nhu cầu chi viện cho miền Nam gia tăng. Dạo ấy, sau khi Stalin bị KHruschov lên án Stalin khiến Mao Trạch Đông nổi điên nên hai nước có lộn xộn nên đường tiếp tế của Liên Xô qua ngõ Trung Cộng hơi gặp khó khăn. Do đó họ tìm đường khác, con đường Cao Miên. Tàu của liên Xô cứ vô tư cập bến hải cảng Sihanoukville. 


Hà Nội cử ông Ca Văn Thỉnh làm đại sứ tại Cao Miên. Ông này khi xưa có dạy học tại Sàigòn và hoàng thân Sihanouk là học trò nên giúp quan hệ hai nước hữu nghị, thắt chặt hơn và cho phép Hà Nội chuyển vũ khí của liên Xô đến Hải cảng Sihanoukville. Nghe nói khi xưa ông Sihanouk qua Sàigòn học ở trường Chasseloup-Laubat, họ không nói ông Thỉnh có làm giáo sư ở trường này. Nhiều khi Việt Cộng cứ nói đại cho vui. Mình có ghé lại Hải cảng này mấy năm trước. Toàn là tàu và người Tàu. Họ xây cất sòng bài khắp nơi, nghe nói nay te tua vì người Tàu hết tiền đi chơi. Xây cất bú xua la mua. Từ Hải cảng này họ chuyên chở đến các mật khu Việt Cộng gần biên giới Việt Nam Cộng Hoà.


Dạo này Cao Miên và Thái Lan muốn đánh nhau. Điểm đặc biệt là ông Hun Sen là gốc tàu, mà bà thủ tướng thái lan cũng gốc tàu. Không biết khi điện đàm, họ nói tiếng gì, tàu hay anh ngữ.


Họ thành lập Đoàn Hậu Cần 17, chuyên tổ chức tiếp nhận từ miền Bắc qua cảng Sihanoukville , rồi từ đó chuyển vận đến B2, Nam Bộ, vùng tạm chiếm.


Người phụ trách là ông Nguyễn Gia Đằng, tự Tư Cam, lót đường hối lộ mấy tướng tá Cao Miên hay giao 1/3 khí tài cho quân đội Cao Miên. Từ năm 1966 đến 1975, họ đã tiếp nhận 20,478 tấn vũ khí, 1,284 tấn quân trang, 731 tấn quân y, 65,810 tấn gạo, 5,000 tấn muối.


Họ thành lập công ty thương mại Hắc Lỷ, có giấy phép kinh doanh khắp Cao Miên, mua hàng hoá của người cao miên và tiếp nhận hàng hoá từ Hải cảng rồi chuyển vận đến bưng, chiến trường. Công ty khá lớn vì có đến 564 nhân viên, đa số là Việt kiều và người cao miên làm việc cho công ty. Họ chuyển vận với 150 xe vận tải, có thuê thêm của người cao miên, và ca-nô để vận chuyển hàng hoá đến các chiến trường tại Việt Nam.


Họ kể đưa ông Đức Phương làm chủ hãng. Hà Nội chuyển tiền và vàng cho ông này hoạt động. Ông ta kết thân với tư lệnh an ninh Nam Vang, Unxiut nên có thể thuê xe vận tải của quân đội Cao Miên để chuyển vận khí tài. Ông ta tặng bộ trưởng an ninh cao miên một chiếc xe Merểcdes mới và ông thần này tặng lại ông chiếc xe cũ của ông ta. Thế là cứ chạy xe này phong phong khắp cao miên, không ai chận hỏi.


Từ biên giới họ chuyển vận về Tây Ninh, Long An, đồng Tháp, miền Tây,… họ thành lập đoàn thanh niên xung phong để lo công việc tải đạn được này. Nói là xung phong nhưng trên thực tế họ bắt xung phong như sau 75, họ đem thanh niên miền nam xung phong nghĩa vụ quốc tế qua Cam bu chia. Nói là xung phong chớ bị bắt làm tù không lương. Họ dùng thuyền để chuyển vận quân trang qua kinh Vĩnh Tế, sau này Việt Nam Cộng Hoà khám phá nên chận đánh khá nhiều. Máy bay bỏ bom cũng nhiều và năm 1969, gần như không còn vận tải qua đường ngày nữa vì Việt Nam Cộng Hoà càn quét nhiều.



người Tàu bận đồ bộ đội tại chiến trường Việt Nam 

Tổng kết từ năm 1967 đến 1974, họ đã vận chuyển cho miền Tây 13,650 tấn vũ khí, đưa người về miền Tây hơn 30,000 gồm bộ đội và cán bộ. Sau Hoa Kỳ kêu tướng Lonnol lật đổ ông Sihanouk thì con đường này bị chặn. Việt Nam Cộng Hoà đánh qua Cao miên khiến bọ đội bỏ chạy rút lui  về hứng Hạ Lào, ông tướng Đổ Cao trí muốn truy sát nhưng Hoa Kỳ không cho, buồn đời trực thăng ông ta nổ trên trời. Sau đó Việt Cộng sử dụng đường khác. Nếu người Mỹ cho phép thì có lẽ đã truy kích đến Hạ Lào thì có lẽ mấy năm sau không có sự thất bại của Lam Sơn 719. Khi Việt Cộng đã cũng cố lực lượng và chờ đợi phe ta. (còn tiếp)


kỳ sau rảnh mình kể vụ kinh tài, rất quan trọng cho sự nghiệp đánh chiếm miền nam.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử

Làm video Đà Lạt xưa qua hình ảnh cũ

 

Có ông thần gốc Đà Lạt, một hôm kêu về hưu nên buồn đời làm video với mấy tấm ảnh Đà Lạt xưa mà mình đăng trên bờ lốc. Anh ta gửi mình xem và xin thêm mấy tấm ảnh. Mình giới thiệu ông thần với cựu học sinh Đà Lạt đã gửi mình đâu trên 800 tấm ảnh mà mình chưa có thì giờ xem hết. Qua cloud thì biết có trên 2,500 tấm ảnh Đà Lạt trước 75.

Mình có tấm ảnh này lâu rồi. Có kể chụp từ cầu Cẩm Đô, thấy mấy bậc thang Đi lên dốc nhà Làng. Đi thẳng thì qua nhà chú Lìn bán hủ tiếu ngoài chợ cạnh hàng mẹ mình. Rồi Đi lên thêm vài thang cấp đến đường Minh Mạng, đối diện tiệm chè Vọng Nguyệt Lầu. Còn không thì nhìn xéo từ khách sạn Cẩm Đô có mấy thang cấp nay vẫn còn để dân Đà Lạt đi lên gọi là dốc Nhà Làng. Lên hết dốc sẽ có một cái hẻm bên trái khi xưa có tiệm hớt tóc, sau 75 thấy một bạn hàng của mẹ mình người Huế ở đây, quên tên, rồi đến đường Minh Mạng nơi bà bán bánh căn từ chợ dọn lên đây. Hoặc tiếp tục con đường đi tới gần nhà mẹ của ông Lê Xuân Ái, tập kết, bạn của tướng Tôn Thất Đính sẽ có một con hẻm bên tay phải, phía trên là nhà Chú Ký, bạn đồng ngủ với ông cụ và sau này đi tù và ra tù cũng ngày với ông cụ, đi tới thì sẽ có con đường lên dốc đến đường Duy Tân. Trong khu vực này mình chỉ biết nhà chú Ký và dì Huê, con vợ đầu của ông Nguyễn Văn Ngạch, dưới chợ, có ông chồng trốn lính, khi xưa Mở trường dạy con nít ở nhà. Mình có ở lại nhà mấy đêm xem đài truyền hình Mỹ. Dđạo đó, dân ngoài phố xung quanh Khu Hoà Bình xem truyền hình tương đối rõ nhất vì ở trên cao. Bắt antenne trên cao nên rõ.


Mình đang dự định đọc lại mấy bài đã kể Đà Lạt xưa. Bổ túc thêm các chi tiết đã được thiên hạ phản hồi giúp mình hiểu thêm về Đà Lạt và hình ảnh mới nhận sau khi viết. Em buồn đời chỉ kể chuyện ngày xưa, có nhiều chi tiết do người lớn kể lại nên không rõ lắm. Ai biết thì cho em hay, em bổ túc lại.


Nay thấy ông thần này làm video với hình ảnh cũ xưa. Không biết có nên nhờ anh ta hợp tác làm video rồi đọc giải thích vì viết khó lột tả được những gì mình muốn giải thích từng địa điểm vì nhiều người xem còm đủ tên địa điểm. nhất là giới trẻ sau này. thế hệ mình trở về sau thì đã bắt đầu quên quên.


Hôm qua ông thần gửi lại một video được cập nhật hóa thêm hình ảnh cũ Đà Lạt. Em ghi lại dưới đây. Bác nào thích thì xem và cho thêm ý kiến để ông thần video này tiếp tục thực hiện các video khác. 


Em thấy ông thần bỏ thêm vài tấm sau 75 nên hơi bị sượng một chút vì thấy xe và người dân che mặt đời nay nên đứng hình một chút. Được cái là ông thần dùng AI để chỉnh sửa lại hình ảnh nên xem rất rõ. Chắc mình phải xin ông thần mấy tấm ảnh này để tải lên cho bà con xem.


Tôi vừa mới làm lại video Đà Lạt, gởi đến anh xem và tùy anh xử dụng 


https://youtu.be/qcWG4ưl3xms


Chúc các bác một cuối tuần vui vẻ. Nay em đi ăn cưới có cháu bên vợ kêu bằng chú mà đã có cháu ngoại. Vậy cháu ngoại của cháu vợ mình, kêu mình bằng gì? Ông cố chú?ông chú, hay ông chú cố. 

Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc Sơn tử