50 năm sau (1975-2025)

 50 năm sau (1975-2025)

Tuần này giỗ ông cụ mình, buồn nhớ lại thời xưa nhất là những 15 năm dài ông cụ bị đầy đọa nơi trại cải tạo. Bi kịch lịch sử của 20 triệu dân miền nam phải chịu đựng sau ngày 30/4/75. Hàng triệu người bỏ nước ra đi, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc thì có đến phân nữa bỏ mình trên đại dương. 

Nghe nói ở Việt Nam đang chuẩn bị ăn mừng lớn sau khi bị áp thuế 149%.

Bổng mình nhớ đến bài ca « 20 năm » của nhạc sĩ Phan Văn Hưng một thời du học tại Paris, vẫn hiện thực sau 50 năm. Những bài hát của anh ta và ca đoàn Lam Sơn đã giúp mình vượt qua những gian nan thời sinh viên, tỵ nạn ở Paris. Mất liên lạc với gia đình sau ngày Đà Lạt bỏ ngõ, suốt 3 năm liền. Nghe nói anh ta nay đã định cư tại Úc Đại Lợi.

Nhạc sĩ Phan Văn Hưng, gần đây mới biết là em trai của ông Phan Văn Trường

Anh này mình chưa bao giờ gặp ở Paris, chỉ thấy hát ở hội chợ Tết của tổng hội sinh viên Việt Nam tại Paris. Dạo đó có văn đoàn Lam Sơn có nhiều bài hát truyền cảm hứng của Khúc Lan, Phan Văn Hưng, Đinh Anh Tuấn,… rất hay. Nghe nói Khúc Lan, Khúc minh và Đinh Anh Tuấn nay định cư tại Hoa Kỳ. Mình có mua tập nhạc này với mấy băng cassette nhưng dọn nhà bao nhiêu nước nên lạc đâu mất. Anh Phan Văn Hưng có phổ thơ của cô Minh Đức Hoài Trinh, bài ‘Ai Về Xứ Việt,” rất nổi tiếng nhưng có lẻ bài “Tiễn em rời K18” khiến mình khóc rất nhiều. Mỗi lần nghe: “về đi em, đừng lên thăm nữa em ơi, còn thương nhau thì xin sống nuôi con…, nơi chồng đi chẳng có ngày về, nhà cách ly chờ chôn người tù K 18, nhắn mẹ già anh vẫn nhớ đến me. Về đi em đừng lên thăm nữa em ơi. ….” Mỗi lần nghe, khóc như một dòng sông của Đức Huy.


Mình nghe, học đánh đàn để hát bài này mường tượng đến cảnh mẹ mình đi thăm nuôi ông cụ suốt 15 năm, hy vọng một ngày nào đó, cách mạng khoan Hồng cho trở về với vợ con. Có lẻ bài hát này theo mình suốt thời gian 20 năm đến khi về lại Đà Lạt lần đầu sau gần 20 năm, gặp được ông cụ vừa ra trại cải tạo. Mỗi lần ăn, lại nhớ ông cụ trong tù nên nuốt không không vô. Tương tự khi nghe bài “một chút quà cho quê hương” của Việt Dũng, khi gói quà cho nhà đem gửi ở Paris, Torino, Luân Đôn, New York, Cali,…


Con gởi về cho cha một manh áo trắng 
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây 
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy 
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình


Sinh viên Việt Nam tại Paris để tang cho Sàigòn ngày 27/4/1975. Ảnh Trần Đình Thục. Có ai còm cho biết là anh ta có mặt trong buổi tuần hành này.

Cuộc đời tỵ nạn của mình gắn liền với những bài ca như “Sàigòn niềm nhớ không tên” của ông Nguyễn Đình Toàn.

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên 

như giòng sông nước quẩn quanh buồn 

như người đi cách mặt xa lòng 

ta hỏi thầm em có nhớ không 


Sài Gòn ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao 

trong niềm vui tiếng hỏi câu chào 

sáng đời tươi thắm vạn sắc màu 

nay còn gì đâu... 

hình như ông Võ Văn Ái ở Paris có làm thêm mấy câu trong tạp chí Quê mẹ:

Sàigòn ơi! Ta sẽ về tay cầm súng bên em


Lâu quá không nhớ lời bài hát

 

TIỄN EM RỜI K18
[Phan Văn Hưng - Nam Dao]

Em về đi, thôi đừng lên thăm trại K18
Anh ngoài đây như chết thật rồi
Đừng xót thương đời một tên tù K18
Nhắn mẹ rằng anh vẫn nhớ đến me.

Về đi em, đừng lên thăm nữa em ơi
Còn thương nhau thì xin sống nuôi con
Đừng đến nữa, van em đừng đến em ơi
Đường gian lao, vùi mạng dốc Ô Ba.

Anh ở lại, giam đời mình trong trại K18
Chồng Lồ Ô liệm kín đời người
Nhà Cách Ly, chờ chôn người tù K18


Mỗi lần nghe tới đây là mình lo sợ vì đọc các hồi ký của những người thoát được trại tù kể thì rợn tóc gáy. Họ kể về những cảnh chết trong tù rồi được bạn tù chôn ở đâu đó. Có lẻ hồi ký “Thép Đen” của Đặng Chí Bình khiến mình ớn lạnh nhất. Không ai kể rõ và vẽ lại trong nhà giam như ông này.


Dạo ấy, bà nội mình còn sống. Ông nội vào Nam thăm gia đình mình đúng lúc ông cụ bị bắt, không được thăm viếng. Ông nội về lại quê rồi qua đời. May sau này, ông cụ mình được thả về quê, sau 40 năm, sống với bà nội được vài năm rồi bà qua đời. Mình nghĩ người Việt ở Việt Nam có rất nhiều gia đình đồng cảnh ngộ. Nhớ lời ông cụ dặn, mẹ mình ra Bắc, thăm quê chồng, lo chăm sóc ông bà nội đàng hoàng.


Hình như trong phần văn nghệ của Tổng Hội Sinh Viên Paris có hoạt cảnh khi họ hát bài này. Tiễn em K18.


Chết vội vàng, manh áo rách bó thây.

Về đi em, đừng lên thăm nữa em ơi
Gặp nhau thêm, càng đau đớn cho nhau
Đừng khóc nữa, van em đừng khóc nữa em ơi
Tình đôi ta đành hẹn lại kiếp sau.

Em trở về, với cuộc đời cô phụ trông mòn mắt
Nơi chồng đi, không có ngày về
Đời nát tan chờ mong người tù K18
Sống dật dờ năm tháng úa héo tàn

Giờ chia ly, lòng ta trăm mối đau thương
Ngoảnh trông theo, nào em quá xa ta
Còn nước mắt, tuôn rơi nào tiễn chân em
Đành xa nhau chờ hẹn lại kiếp sau.

Về đi em, đừng thăm nữa em ơi
Gặp nhau thêm, càng đau đớn cho nhau
Đừng khóc nữa, van em đừng khóc nữa em ơi
Tình đôi ta đành hẹn lại kiếp sau.


Nghe kể bà cụ mình khi xưa, hay hát bài “Ngày Trở Về” mà khi xưa ông Duy Khánh hát trong băng nhạc Trường Sơn. Ngày trở về anh bước lê, mẹ mình lần mò ra trước ao để nắm tay ông cụ ngỡ trong giấc mơ…. Những người nghe rất cảm động, thương cho bà cụ lặn lội thăm nuôi chồng suốt 15 năm.


Trại tù K18, sau này được đổi tên Kim Sơn ở Bình định mà Hà Nội vừa tổ chức kỷ niệm hoành tráng 60 năm thành lập trại giam này. Lạ chỉ có Việt Nam mới tổ chức ăn mừng kỷ niệm xây tù nhốt thiên hạ. Hóa ra nhà tù này vẫn còn. Lần trước về Việt Nam, mình có đi ngang vùng này mà không biết, để ghé xem nhà tù danh tiếng này. Nơi chôn biết bao nhiêu người Việt ở tù cải tạo.

https://congan.binhdinh.gov.vn/vi/news/hoat-dong-cua-nganh-cong-an/trai-giam-kim-son-tu-hao-truyen-thong-60-nam-xay-dung-chien-dau-truong-thanh-2237.html


20 năm sau biến cố 30/4/1975, nhạc sĩ Phan Văn Hưng có làm bản nhạc 20 năm (1995) nhưng nếu cộng thêm 30 năm nữa (2025) thì vẫn thấy không khác chút nào nên mình tải lại đây do ca sĩ Nguyên Khang trình bày.

https://youtu.be/2EGBKQUE0Wo?si=BD41N9FPsV7ME9i1


Hai mươi năm,

đàn trẻ thơ nay đã lớn 

và chàng trai nay đã già

Những người xưa đã nằm xuống, 

và rừng núi đã héo nhoà.


Hai mươi năm, 

người cụt chân trên hè phố, 

kẻ quyền uy trong căn nhà,

Người nằm rên trong hộ xá, 

là người sáng hay đã loà,


Người bỏ thây nơi trùng dương, 

mộng nhổ neo trên sóng gầm,

Những hồn ma sau hàng kẽm, 

những con mắt sâu trừng trừng

Người nằm chết trên núi sông, 

người đào sắn trên ruộng đồng,

Người lặn lội vẫn đi tìm, 

bao con đường dấu quê hương.


Hai mươi năm, 

những người đi đã về bến,

một vùng quê hương không còn, 

Những người điên trong ngục khám, 

một đoàn quân trong khách sạn.


Hai mươi năm,

nhiều kẻ gian trong làng xóm, 

người hiền khô mang gông cùm

Kẻ mộng du lên bạo chúa, 

người ngồi khóc trên sân chùa.

Người hùng xưa nay giầu sang, 

một thằng bé đứng trần truồng, 

nhìn người qua buôn và bán, 

kẻ gian ác đi nghêng ngang.


Người già nua có nhớ không, 

hay đã quên những mối tình, 

người đập đá trên nông trường, 

trơ lưng còm giữa gió sương.


Hai mươi năm, 

những nụ hoa cho người hái,

những thể xác cho ai đày,

một thầy cô trong nhà chứa, 

gặp trò xưa bỗng khóc oà.


Hai mươi năm,

người còn tâm hay còn trí, 

lòng sục sôi như vỡ bờ,

đàn lạc giây đã bỏ xó, 

còn vọng nghe tiếng nức nở.


Người chạy quanh theo thời thế, 

ruồi nhặng xanh bu lối về

Mẹ lặng im bên mồ đá, 

nào có biết gió thu qua?

Một người đi trong đám ma, 

mặc người vui trong xa hoa.

Người tù tội trước quan toà,

chỉ gục đầu giấc mơ xa!


Hai mươi năm,

triệu người đi trong cuộc sống, 

mà thể xác như không hồn

Triệu người lao trong cùng khốn, 

và buồn vui như bao lần.


Hai mươi năm, 

Người hiền lương dẫu còn sống,

phải cật lưng trong thiên đường,

Những vệt nhăn trên vầng trán, 

và hòn than nung trong lòng.

Người còn yêu hay còn nhớ, 

phải vượt qua những bến bờ,

phải tìm sâu trong hồn nước, 

những thôi thúc những mong chờ,

Người còn tha thiết núi sông, 

thì sẽ thấy cơn mưa nguồn

Người lặn lội vẫn đi tìm, 

sẽ thấy đường dấu quê hương!

Phan Văn Hưng - Nam Dao

50 năm sau, người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi, lao động quốc tế hay có chút tiền thì đi lậu qua biên giới Mễ để vào Hoa Kỳ. Ai có tiền thì đi theo diện đầu tư hay lấy vợ chồng giả như khi xưa nhận con lai để đi Mỹ. Kẻ ác vẫn quảng cáo bán sữa thuốc giả cho dân mình.


50 năm sau thì mình cũng gần 7 bó, con cháu đều lớn. Việt Nam đối với chúng rất xa vời. Những người lớn tuổi xưa đã được đi theo diện bảo lãnh về chốn xa xăm, đoàn tụ với ông bà. Chúng ta đã quên những mối tình của tuổi niên thiếu. Bạn bè không nhận ra nhau, ký ức đã trôi theo những con thuyền viễn xứ, của dòng sông không trở lại.


50 năm để thấy Tân Gia Ba trở thành một nước giàu có nhất Đông Nam Á. Lợi tức hơn cả người Mỹ. Người Việt qua xứ này đứng đường. Mà xưa kia trước 30/4/75, người giàu xứ này chạy qua Sàigòn để được chữa bệnh tại bệnh viện Chợ Rẫy. Nay thì người giàu Việt Nam chạy qua đây chữa bệnh.


50 năm ta còn gì? Chúng ta còn tha thiết với núi sông? Người lặn lội đi tìm sẽ thấy đường dấu quê hương.

Chân trời trước mặt của quê hương ta sẽ nở hoa, những đôi mắt này còn nhìn nhau còn hẹn một ngày. Có bài hát do Khúc Lan và Phan Văn Hưng trình bày mà mình rất yêu thích:

Tôi sẽ hát xuyên qua đỉnh núi, xin mặt trời soi lại ngục tối, tôi sẽ hát xuyên qua biển xanh, ngọn sóng ơi thôi gieo bão bùng, tôi sẽ hát cho người vùng dậy, to sẽ hát to đập tan xích xiềng. Hát lên đi thơm lời tự do. Hát lên đi cho dân tôi thôi tù tội. Hát lên đi cho một ngày về.


Bài ca này đem lại cho mình một niềm tin, tương lai sẽ gặp lại gia đình. Vì dạo ấy mình mất liên lạc với gia đình đến 3 năm. Nếu không có mấy bài hát của sinh viên Paris thì chắc khó mà giữ được niềm tin ngày mai tươi sáng. Hát cho một niềm tin, hát cho một ngày về. Nếu không có những bài hát này, có lẻ mình và nhiều bạn sinh viên việt khi xưa đã bỏ học.


Ngồi viết lại đôi dòng sau 50 năm, nghe Charles Aznavour hát “Hier encore” thấy thấm thía nỗi buồn mất quê hương, Việt Nam Cộng Hoà sau 50 năm.



Hier encore, j′avais 20 ans
Only yesterday I was twenty years old
Je caressais le temps et jouais de la vie
I caressed time and I enjoyed life
Comme on joue de l'amour et je vivais la nuit
Like one savours love and I lived for the night
Sans compter sur mes jours qui fuyaient dans le temps
Without counting my days that were wasting away with time
J′ai fait tant de projets qui sont restés en l'air
I've made so many plans that never came to life
J'ai fondé tant d′espoirs qui se sont envolés
I've build on so many hopes that withered away
Que je reste perdu, ne sachant où aller
Will stay lost not knowing where to go
Les yeux cherchant le ciel mais le cœur mis en terre
My eyes looking for the sky but my heart buried
Hier encore, j′avais 20 ans
Only yesterday I was twenty years old
Je gaspillais le temps en croyant l'arrêter
I've wasted the time thinking I could make it stop
Et pour le retenir, même, le devancer
And in order to retain it or even get ahead of it
Je n′ai fait que courir et me suis essoufflé
I did nothing but to run and I ran out of breath
Ignorant le passé, conjuguant au futur
Ignoring the past conjugating only in the future tense
Je précédais de "moi" toute conversation
I preceded every conversation
Et donnais mon avis que je voulais le bon
And I spoke my mind I only wanted to do good
Pour critiquer le monde avec désinvolture
By criticizing the world with insolence

Hier encore, j'avais 20 ans
Only yesterday I was twenty years old
Mais j′ai perdu mon temps à faire des folies
But I've wasted my time by doing foolish things
Qui ne me laissent, au fond rien, de vraiment précis
That had me take off nothing specific
Que quelques rides au front et la peur de l'ennui
Except for some wrinkles on my forehead and fear of boredom
Car mes amours sont mortes avant que d′exister
All my romances are dead before they even existed
Mes amis sont partis et ne reviendront pas
My friends have left and won't come back
Par ma faute j'ai fait le vide autour de moi
Through my fault I've build an empty space around me
Et j'ai gâché ma vie et mes jeunes années

Mình có nhiều mộng ước, hoài bảo khi đi du học nhưng không thực hiện được. Nay thì cuộc sống ổn định bên đồng chí gái, cùng một lứa bên trời lận đận. Cuối tuần vừa rồi, họp mặt thân hữu, có anh bạn kể đi vượt biển, bị bể ở tù ở Cà Mau, muỗi to như con ruồi đốt. Đứng chào cờ trước khi được thả, thề với cán bộ không bỏ nước ra đi, về đến nhà là có người móc nối đi vượt biển nữa, lại gật đầu, đi tiếp. Nhìn lại anh ta nói nếu phải làm lại, anh ta vẫn quyết ra đi dù có bỏ thây trên biển cả.


Tôi sẽ hát xuyên qua biển xanh, ngọn sóng ơi thôi gieo bão bùng…


50 năm sau, người Việt vẫn ra đi. Thế hệ cháu của mình lại tiếp tục ra đi. Chán Mớ Đời 


Đọc bài viết của Ôn, tui đã khóc...và chia sẽ cho những người bạn của mình. Có những bài hát, có những chuyện sảy ra bên kia đại dương tui và những người ở lại chưa biết...nhưng vẩn rất xót xa...


Đọc và buồn. 30-4  như mới hôm qua mà đã 50 năm...Một đời người, chỉ còn lại tình yêu và nổi nhớ, ai còn, ai đã bỏ lại ta nơi đây,...Thành phố càng rộn ràng bao nhiêu, trái tim ta càng thắt lại, ... Ôi! Nhớ da diết những tháng ngày xa xưa ấy... Nhớ...nhớ...làm sao cho ta quay lại NGÀY XƯA.(1 thân hữu)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Cầu Cũ Ponte Vecchio

Daọ này bổng nhiên thích đọc tài liệu về kiến trúc. Khi xưa học để thi. Thi xong thì trả lại cho thầy hết. Nay mình tham gia các nhóm bên Ý Đại Lợi và pháp để xem họ nói về các đi tích lịch sử của Âu châu. Có điểm lạ là những nơi mình đã đến và vẽ thì khi xem hình là nhận ra ngay còn không thì như bò đội nón. 

  Hôm qua xem trên Nhóm người bạn Ý Đại Lợi thấy tấm ảnh của chiếc cầu cũ của thành phố Firenze mà mình đã có lần vẽ nhiều ngày tại đây nên ghi lại đây vài chi tiết để ai có dịp viếng thăm dễ cảm nhận cái vẻ đẹp của nó. Tấm ảnh năm 1944, cho biết là quân đội đức rút lui, tính tới tính lui không giật xập chiếc cầu này nhằm làm chậm sự di chuyển của quân đội Mỹ. Còn tấm ảnh năm 2025, xem như 80 năm sau.

 Lần trước về Firenze với đồng chí gái thì thấy một cặp vợ chồng nam Hàn mới cưới đến đây chụp hình bận áo cưới với phó nhòm chuyên nghiệp. Cho thấy dân Á châu phải đến đây để chụp hình cưới. Đồng chí gái và mình chụp cưới ở Huntington Beach là thấy khá tốn tiền rồi. Đây họ bay tới Ý Đại Lợi để chụp ảnh cưới, hy vọng họ sống đến bạc đầu vì một ngày cưới vợ, một đời trả nợ mà bỏ nhau giữa đường thì ai trả nợ.

Tết vừa rồi về Hội An thì thất kinh vì Chùa Cầu ở đây được tô son điểm phấn lại trong cuộc trùng tu vừa qua. Chỉ biết lắc đầu. 

Mình nghĩ khi quân Đức quốc xã rút lui không làm xập chiếc cầu này vì xe cộ khó đi chuyển vì có nhiều hàng quán nếu không thì đã banh ta lông


Ponte Vecchio (“Cầu Cũ”) ở Florence, Ý, là một trong những cây cầu mang tính biểu tượng và lịch sử nhất trên thế giới, bắc qua sông Arno tại điểm hẹp nhất. Ai đến Firenze thì chịu khó leo lên cái đồi đối diện thành phố, nhìn xuống con sông này và toàn thành phố. Rất đẹp. Mình có ngồi đây vẽ mấy ngày. Kiến trúc của nó là sự kết hợp tuyệt vời giữa kỹ thuật thời Trung cổ, sáng tạo thẩm mỹ và thiết kế đô thị thực tiễn. Được xây dựng vào năm 1345, đây là một trong những ví dụ sớm nhất về cầu vòm phân đoạn bằng đá, thể hiện các kỹ thuật kết cấu mới vào thời điểm đó. Thường chúng ta thấy các cầu được xây vòm nữa vòng tròn, từ thời la-mã, đây bán nguyệt nhưng ngắn. Cho nên sử dụng vòm phân đoạn kéo dài ra, giúp tránh tai nạn khi tàu chạy ngang nhất là khi nước chảy xiết.


“Cầu Cũ” là nghĩa đen của Ponte Vecchio theo tiếng Ý Đại Lợi. Khi viếng Firenze lầu đầu tiên, mình đến đây vẽ. Nghe Ponte Vecchio rất lạ tai như “Cầu Mới” (pont neuf) ở Paris nhưng khi mình nghĩ theo tiếng Ý hay tiếng Pháp thì thấy xoàng quá. Hay có thể gọi “Cổ Kiều” (ponte vecchio) hoặc Tân Kiều (pont neuf ) nghe có vẻ tàu tàu 1 chút. :)

Mình có ngồi chỗ này vẽ mấy tấm tranh. Bán hết

Vào thế kỷ 14, việc xây cầu ở châu Âu đang chuyển từ các cấu trúc gỗ sang các công trình đá bền vững hơn. Lũ lụt thường xuyên của sông Arno đòi hỏi một thiết kế chắc chắn để thay thế các cây cầu trước đó bị phá hủy vào các năm 1117 và 1333.

Cầu được cho là do Taddeo Gaddi, học trò của Giotto, thiết kế, mặc dù một số nguồn cho biết Neri di Fioravante có thể là kiến trúc sư. Thời đó, kiến trúc sư, kiêm luôn hoạ sĩ, điêu khắc gia, không phân biệt như ngày nay. Kiểu nhạc sĩ phải biết hát, đánh đàn, viết nhạc,..

Cận cảnh của cầu, dính tòn teng mấy căn nhà ở được xây cao đến 3 tầng trên chiếc cầu. Giữa cầu có một quảng trường nhỏ, rất dễ thương. Nếu hên thì du khách sẽ thấy mấy nghệ nhân chơi nhạc ở đây hay vẽ hí hoạ cho du khách. Khi xưa, khi mấy người ở trên cầu đi vệ sinh chắc như cá tra ở Việt Nam. Nay thì chắc họ làm ống cống kéo vào trong bờ.

Các đặc điểm kiến trúc chính

Vòm phân đoạn:

 Ponte Vecchio có ba vòm phân đoạn, một sự khác biệt lớn so với các vòm bán nguyệt kiểu La Mã phổ biến trong các cây cầu Trung cổ trước đó. Vòm phân đoạn có đường cong phẳng hơn, cho phép nhịp rộng hơn và chiều cao thấp hơn, giảm sử dụng vật liệu và tăng cường độ ổn định trước dòng sông.

Vòm trung tâm có nhịp khoảng 30 mét (98 feet), trong khi hai vòm bên mỗi nhịp khoảng 27 mét (89 feet). Hồ sơ thấp của các vòm tạo nên hình dáng thanh thoát đặc trưng của cầu và giảm thiểu cản trở dòng chảy sông, giảm thiệt hại do lũ lụt.

Việc sử dụng vòm phân đoạn là một bước tiến tiên phong vào thời điểm đó và đã ảnh hưởng đến các thiết kế cầu sau này trên khắp châu Âu. Thiết kế này phân bổ trọng lượng hiệu quả hơn, cho phép cầu chịu được tải trọng lớn từ các cửa hàng và người đi bộ.

Cầu được xây chủ yếu bằng pietra forte, một loại đá sa thạch chắc chắn được khai thác từ các ngọn đồi quanh Florence. Vật liệu này được chọn vì độ bền và khả năng chống chịu thời tiết, rất quan trọng để chịu đựng các trận lũ của sông Arno. Thật ra thì có đá nào tại địa phương thì dùng chớ dạo ấy đâu ai có máy để đo tính như ngày nay.

Công trình đá được đặc trưng bởi các khối đá thô, được đẽo gọt thô sơ, điển hình của kiến trúc Trung cổ Florence. Các vòm được chống bởi các trụ cầu dày với các mũi cắt nước hình tam giác (phần nhọn) giúp giảm sức cản của nước và bảo vệ khỏi mảnh vỡ trong lũ. Một mặt để tàu không ủi nhầm vào đây, nếu đụng thì sẽ bị lệch qua một bên.


Một đặc điểm nổi bật của Ponte Vecchio, tương tự cầu Rialto ở Venezia là hàng cửa hàng được xây trực tiếp trên cầu, nhô ra hai bên sông. Đây là giải pháp thực tiễn để tối đa hóa không gian đô thị trong Florence thời Trung cổ đông đúc. Các cửa hàng được chống bởi các dầm gỗ và giá đỡ, tạo hiệu ứng nhô ra. Thí dụ: cầu Ông Đạo Đà Lạt, biến thành chỗ đi bộ. Người Đà Lạt có thể xây các cửa hàng trên cầu, để che dấu toà thị chính, cực xấu mới được xây bằng kính to đùng ở đường hÙng Vương khi xưa.

Ban đầu, các cửa hàng có thiết kế đồng nhất, với mặt tiền mở hướng ra lối đi trung tâm. Theo thời gian, các sửa đổi đã dẫn đến vẻ ngoài hiện nay hơi không đều, mang tính chất đẹp như tranh vẽ, với một số cửa hàng nhô xa hơn ra sông.

Phần trung tâm của cầu mở ra thành một “quảng trường” ngoài trời nhỏ, nơi các hàng cửa hàng bị gián đoạn, mang lại tầm nhìn toàn cảnh sông Arno. Không gian này tăng cường sức hấp dẫn thẩm mỹ và chức năng của cầu như một điểm tụ họp công cộng.

Mấy cửa sổ của mấy tiệm trên cầu. Thấy mũi nhọn bằng đá của chân móng để tránh tàu đụng vào móng, sẽ lệch qua một bên. Họ dùng các thanh gỗ tốt và chắc để làm corbeaux để chống đỡ sàn của mấy căn phố nhô ra ngoài cầu.

Hành lang Vasari (1565):

Được thiết kế bởi Giorgio Vasari cho Cosimo I de’ Medici, Hành lang Vasari là một lối đi kín, nâng cao chạy dọc theo phía đông của cầu, phía trên các cửa hàng. Nó kết nối Phòng triển lãm Uffizi với Palazzo Pitti, cho phép gia đình Medici di chuyển riêng tư qua thành phố. Xin nhắc là dòng họ Medici từng làm bá quyền ở vùng Toscana này, một trong những gia đình giúp dẫy lên nền Phục Hưng của Ý Đại Lợi. Ở La-Mã thì dòng họ Borghese (Bourgeois) từ đó người Pháp dùng từ này để nói đến những giai cấp quý phái.

Hành lang được chống giữ bởi các giá đỡ đá và tích hợp liền mạch với cấu trúc Trung cổ của cầu. Các cửa sổ hình chữ nhật nhỏ cung cấp ánh sáng đồng thời duy trì sự riêng tư. Việc bổ sung hành lang làm thay đổi nhẹ sự đối xứng của cầu nhưng tăng cường ý nghĩa lịch sử và kiến trúc của nó qua năm tháng.

Được xây dựng chỉ trong năm tháng, hành lang thể hiện hiệu quả và độ chính xác kỹ thuật thời Phục hưng, tương phản với thẩm mỹ Trung cổ thô ráp hơn của cầu.

Thật ra chỉ có tàu nhỏ hay phà đi ngang thôi; thoạt đầu chỉ có dãy nhà cao với 3 cái vòm được xây nhưng từ từ, dân tình nới thêm tuỳ theo nhu cầu, điều kiện sinh sống nên ngày nay có hình thức bề ngoại khá ấn tượng. Nhưng xét về kiến trúc thì Chán Mớ Đời 

 Hai trụ cầu lớn của các vòm được nhúng sâu vào lòng sông, giúp ổn định trước dòng chảy mạnh của Arno khi mùa Xuân, tuyết tan chảy về. Các mũi cắt nước hình tam giác của trụ được thiết kế để làm lệch hướng nước và mảnh vỡ, một đặc điểm thực tiễn đã giúp cầu sống sót qua nhiều thế kỷ lũ lụt.

Kỹ thuật móng chính xác không được ghi chép đầy đủ, nhưng có khả năng liên quan đến các cọc gỗ đóng vào lòng sông, một phương pháp phổ biến thời Trung cổ ở các môi trường ngập nước như Florence. Mình có kể về thành phố trên biển venezia tương tự họ đóng cọc xuống dưới nước sâu và trét bùn để tạo nền móng cho các dãy nhà bên trên.


Kiến trúc của Ponte Vecchio vừa thực dụng vừa nổi bật về mặt thị giác. Các vòm thấp, uốn lượn tạo ra một khung cảnh hài hòa, hòa quyện với các đường cong tự nhiên của sông Arno. Mình không nhớ bên bồi bên lở của dòng sông vì khi xưa không để ý lắm. Chỉ sau này đi chơi mấy dòng sông mới để ý đến mấy điều kiện này để hiểu thêm về sự phát triển của các thành phố Âu châu. Công trình đá thô ráp và các mặt tiền cửa hàng không đều mang lại nét đặc trưng Trung cổ, trong khi Hành lang Vasari bổ sung sự tinh tế thời Phục hưng.


 Cầu được thiết kế như một cấu trúc đa chức năng, vừa là lối qua sông, trung tâm thương mại, và sau này là lối đi riêng cho gia đình Medici. Việc tích hợp các cửa hàng tối đa hóa việc sử dụng không gian kinh tế, trong khi phần trung tâm mở rộng hỗ trợ giao thông người đi bộ và tương tác xã hội. Cứ tưởng tượng chiếc cầu hình chữ K của chợ Đà Lạt, nếu họ cho làm nhưng cửa hàng thì có lể sống động hơn. Nhất ngày nay họ dành phố đi bộ vào cuối tuần.

Trên cầu nay thì du khách khá đông. 45 năm về trước khi mình viếng thăm lần đầu thì ít du khách nay thì người đi như cá mòi Sumaco.

Các vòm phân đoạn và trụ cầu đã giúp Ponte Vecchio chịu đựng nhiều trận lũ, bao gồm trận lũ thảm khốc ở Florence năm 1966, gây thiệt hại nhưng không phá hủy cầu. Sự nhìn xa kỹ thuật của nó được thể hiện qua tuổi thọ lâu dài. Theo thời gian phù sa được cuốn về giúp chân cầu chắc thêm. Không có cát tặc nên vẫn tồn tại đến ngày nay.

Thiết kế vòm phân đoạn của Ponte Vecchio đã ảnh hưởng đến các cây cầu sau này ở châu Âu, chẳng hạn như Ponte Santa Trinita ở Florence (xây dựng năm 1567–1569), đã tinh chỉnh thêm khái niệm này.


Qua nhiều thế kỷ, cầu đã trải qua các sửa chữa, trùng tu đặc biệt là sau các trận lũ. Trận lũ năm 1966 đã thúc đẩy việc phục hồi lớn cho các cửa hàng và lan can, nhưng cấu trúc cốt lõi vẫn nguyên vẹn. Nếu đến đây, các bờ tường bên sông đều làm bằng đá để phòng ngập lụt.

Là một phần của Di sản Thế giới UNESCO tại trung tâm lịch sử Florence, Ponte Vecchio được duy trì cẩn thận. Các nỗ lực tập trung vào việc bảo tồn nét đặc trưng Trung cổ của nó đồng thời giải quyết sự hao mòn từ du lịch và các yếu tố môi trường. Việc gắn “khóa tình yêu” lên lan can đã bị hạn chế để tránh hư hại kết cấu.

Toàn tiệm đắt tiền không


Kiến trúc của Ponte Vecchio là minh chứng cho sự khéo léo thời Trung cổ, kết hợp kỹ thuật thực tiễn với chức năng đô thị. Các vòm phân đoạn của nó là một sáng tạo táo bạo, và sự tích hợp giữa không gian thương mại và không gian dành cho giới tinh hoa phản ánh lịch sử xã hội năng động của Florence. Cầu vẫn là một kiệt tác của kỹ thuật dân dụng thời Trung cổ, được ngưỡng mộ vì cả sự bền bỉ về kết cấu lẫn vẻ đẹp như tranh vẽ. Lần chót về đây, đồng chí gái cứ bắt chụp hình nụ cười toả nắng và để cô nàng đi xem quần áo, thêm du khách đông như quân Nguyên nên mất vẻ đẹp mà mình nhận thấy cách đây 45 năm về trước. Chúc các bác cuối tuần vui vẻ bên người thân.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Cái kết của các điệp viên trong chiến tranh


Trong cuộc nội chiến vừa qua, có nhiều điệp viên của hai bên được giải mả như các ông nằm trong phủ tổng thống Việt Nam Cộng Hoà, các nhà nằm vùng. Có lẻ người được Hà Nội cài đặt nổi tiếng nhất là thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn. Một nhà báo, được Hà Nội cho qua Hoa Kỳ học hai năm rồi về Sàigòn, làm việc cho cơ quan báo chí nhất là của Hoa Kỳ nên sau chiến tranh, người Mỹ đều bật ngửa khi Hà Nội phong chức ông này thiếu tướng tình báo.

Ông Phạm Xuân Ẩn, điệp viên của Hà Nội, sau được phong chứ thiếu tướng

Một ông khác tên Phạm CHuyên, bí danh là Ares được Hoa Kỳ thả ra Bắc. Là điệp viên nhị trùng (mình có kể rồi). Do Hà Nội đưa vào nam để được Việt Nam Cộng Hoà tuyển vào các toán biệt kích rồi thả ra Bắc móc nối người dân chống đối Hà Nội như CIA từng làm với các biệt kích của Đài Loan, huấn luyện rồi cho xâm nhập vào Trung Cộng. Mấy vụ nhảy toán ở Trung Cộng đều thất bại vì cách kiểm soát lương thực, hộ khẩu của Trung Cộng không có kẻ hở. Theo tài liệu thì tất cả đều được thả dù, hay đổ bộ đường biển đều bị bắt hết ngoài trừ bí danh Ares. Thế nên CIA phải dựa vào ông này để có thêm tin tức. Tốn khá nhiều hàng hóa được thả dù suốt 10 năm trời trước khi CIA test lại và quyết định bỏ luôn, đánh dấu việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà sau hiệp định Paris.

Phạm Chuyên, gián điệp nhị trùng khiến nhiều toán biệt kích bị bắt khi xâm nhập vào Bắc Việt

Năm 1954, khi mấy nước lớn họp mặt tại Genevre, Thuỵ Sĩ, bàn bạc chia đôi Việt Nam như Đức quốc và Đại Hàn trước đây. Chả thèm hỏi đại diện Việt Nam có đồng ý hay không. Ngoại trưởng Trần Văn Đổ có kể là một hôm, tối ông Phạm Văn Đồng, đại diện phe Việt Minh, gọi điện thoại ở khách sạn, cho biết là phái đoàn Liên Xô đã cho biết là ngày mai, sẽ chia đôi Việt Nam. Ông Đổ sau này làm ngoại trưởng cho miền nam, đề nghị ông Đồng, hai phái đoàn người Việt họp nhau để bàn mai sẽ nói gì này nọ. Nhưng ngày mai chả được hỏi gì cả. Mấy nước như Hoa Kỳ và cộng sản kêu chia đôi. Họ nhìn bản đồ thấy vĩ tuyến 17 có con sông Bến Hải ngăn nên dùng đó là nơi ranh giới cho 2 miền nam Bắc. Xong om


Nam Hàn hên là Bắc Hàn muốn đánh chiếm miền nam thì phải tràn qua khu phi quân sự. Xung quanh Nam Hàn toàn là biển nên khó đổ bộ vì hải quân sẽ biết ngay. Còn Việt Nam thì bên cạnh là Cao Miên và Lào, hai nước trung lập. Miền nam thì tôn trọng chủ quyền hai nước này còn Hà Nội thì bất chấp. Họ đem quân qua ngõ hai nước này để đánh miền nam thêm nằm vùng của họ được cài đặt tại miền nam.

Thấy trên nhóm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam 


Họ cho rằng tạm thời như vậy rồi 2 năm sau sẽ tổng tuyển cử để hợp nhất lại Việt Nam. Đó là cách nói ngoại giao chớ làm gì có chuyện đó. Triều Tiên đã chia đôi từ năm 1953 đến nay vẫn còn đó. Đức quốc được thống nhất với điều kiện không được vũ trang và NATO sẽ không tiến gần Liên Xô.


Vấn đề là khi họ chia cắt hai miền nhưng chả để ý đến dân số của hai vùng. Lý do là miền Bắc có hơn miền nam đến 3 triệu dân thì khi tổng tuyển cử như dự định năm 1956 thì miền Nam thua là cái chắc nếu tính theo dân số bầu. Do đó một trong những lý do mà ông Ngô Đình Diệm không chịu tổng tuyển cử vào năm 1956.


Ông Diệm về nước làm thủ tướng thì gặp nhiều vấn đề ở miền Nam như giặc BÌnh Xuyên, thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn HInh, Ba Cụt, chưa kể nằm vùng do Hà Nội cài đặt ở lại. Cuối cùng thì nhờ pháp mua chuộc cho mấy người này sang Pháp, ngoại trừ ông Ba Cụt bị tử hình. Năm 1954, có 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam, và 300,000 người từ miền Nam di cư ra Bắc mà họ dụng cụm từ “tập Kết”. Mình không biết số lượng người do Hà Nội cài đặt ở lại miền nam là bao nhiêu nhưng sau này thấy có ông Lê Đức Thọ, Lê Duẫn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh,.. số người tập kết ra Bắc, có gia đình ở miền nam. 


Điển hình là cậu ruột của đồng chí gái đi tập kết, làm sĩ quan tuỳ viên cho ông Võ Nguyên Giáp, đổi họ từ Tôn Thất qua Nguyễn. Đà Lạt có ông Lê Xuân Ái, nhà ở Dốc Nhà Làng tập kết, sau 75 mới về lại Đà Lạt. Ông ta là bạn thân của tướng Tôn Thất Đính nên khi con trai ông ta đến tuổi đi lính, được ông Đính đỡ đầu. Hà Nội cho những người tập kết viết thư cho gia đình như bà Dung Krall kể ông bố theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, hình như ông ta là ngoại trưởng cho chính phủ lâm thời, nằm vùng đến nhà cho biết nên lúc nào cũng nghe đài Hà Nội để nghe tiếng của ông bố. Rồi từ từ những thân nhân của những người tập kết, được kết nạp vào tổ chức, hoạt động nội thành cho Hà Nội. 300,000 người tập kết thì biết bao nhiêu gia đình ở miền nam được tiếp xúc. Miền nam cầm cự đến 20 năm là quá giỏi. Bà Dung Krall đã giúp Hoa Kỳ phát hiện ra các người của Hà Nội cài đặt tại Hoa Kỳ. Lâu quá không nhớ rõ chi tiết. Hình nha bà ta mới qua đời năm ngoái thì phải.


Mẹ mình khi xưa theo việt minh, bị Tây bắt tra tấn năm 1950. Mình không hỏi nhưng mình đoán là có bị nằm vùng liên lạc. Năm 1956, sau khi sinh mình ra thì mẹ mình bị mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diệm bắt, đem mình theo vào tù. May ông cụ là quân nhân, về phép thăm con đầu mới sinh nên bảo lãnh ra và đưa về Quy Nhơn, nơi ông cụ đóng quân được 1 năm rồi tình hình yên lại, trở về Đà Lạt đến giờ.


Đà Lạt có rất nhiều người làm nội tuyến cho Hà Nội như cô Ba Chỉ, tiệm Bình Lợi dưới chợ mới. Cô ta theo việt minh nhưng không tập kết, làm kinh tài cho Việt Cộng. Cô ta có đi Thái Lan, nghe cô kể gặp bà Nguyễn thị Bình để nhận chỉ thị. Lâu lâu nghe nói xe hàng của cô bị Việt Cộng bắt, lấy hết để báo cho cảnh sát. Thực tế là mua hàng gạo, tiếp tế cho Việt Cộng chở vào bưng. Dạo đó có ông Sở cạnh hàng mẹ mình, lái xe hàng bị bắt ở tù. Bà Sở phải thuê tài xế và đi buôn Sàigòn Đà Lạt dạo ấy. Lâu lâu kêu bị Việt Cộng lấy hết đồ. Có dạo ông ta bị bắt ở tù không hiểu tội gì. Hồi nhỏ ít dám hỏi vì hỏi là ăn tát. Mình rất mến ông Sở, rất hiền khi xưa ông ta dùng cái bàn tính của tàu abacus để làm tính, có dạy mình sử dụng. Qua Tây họ có máy tính hết nên hết xài.


Có người liên lạc với mình cho biết là bà con với cô Ba Chỉ. Cô ta còn sống ở Đại Ninh nhưng mình không có dịp gặp lại. Về Đà Lạt thường là 3 ngày rồi chạy. Cô Ba Chỉ chắc cũng trên 100 tuổi. Sau 75, ông cụ mình bị bắt cải tạo 15 năm thì trong thời gian này, cô Ba Chỉ làm lớn tại Đà Lạt nhờ có công kinh tài cho Việt Cộng. Gái đình mình bị cách Mạng 30 đánh tới tấp nhưng nhờ Cô Ba Chỉ giúp đỡ, nếu không thì gia đình đi kinh tế mới rồi. 


 Mẹ mình kể có lần cô Ba CHỉ, kêu vào nói có dầu ăn hay gạo mới về. Ai hỏi mua thì vào lấy bán. Giá bao nhiêu đó. Vài tiếng sau là có người đến hỏi mua 100 bao gạo. Mẹ mình nói có, rồi kêu người chở cho họ, lấy tiền Hoa Hồng 20%. Sau 75, gặp lại bà hay mua gạo đường cho Việt Cộng, bà ta nói khi xưa run quá. Nói cho ngay khi xưa buôn bán thì ai cũng phải bán cho Việt Cộng. Nếu không chúng giết như cây xăng ngã Ba chùa. Bị họ đặt chất nổ. Các đại gia Đà Lạt khi xưa đều bị Việt Cộng xin tiền đóng góp cho cách mạng. Nghe kể khi xưa Việt Cộng vào nam đánh chỉ cần đem theo vàng và Đô la. Trinh sát 302 đi nhảy toán có lần thấy một sacoche mấy ngàn đô la của Việt Cộng. Hình như mình có kể vụ Hà Nội nhờ người ở Sàigòn qua pháp hay Hương Cảng để đổi đô la. Đưa cho dân miền nam, mua hàng tiếp tế cho bộ đội. Đánh kiểu này, không Thắng mới lạ. Sau 75 tưởng được trưng dụng nhưng lại bị đánh tư sản nên bỏ chạy mệt thở. Mình đang đọc thêm tài liệu để kể chuyện này. Bác nào có tài liệu thì cho em xin vì Hương Cảng, Paris, Sàigòn đủ trò, do nằm vùng của Việt Cộng thực hiện để có tiền nuôi quân của họ. Dân miền nam vừa đánh Việt Cộng vừa nuôi Việt Cộng. Không thua mới lạ. Mình có kể vụ tướng Toàn, quân khu 2, sai đệ tử đưa tiền cho Việt Cộng để họ không phá đám, để ông ta chặt cây đem bán cho Nhật Bản,… Lính trinh sát 302 Đà Lạt đi nhảy toán thì thấy vụ này, bị lộ nên phải bắn chết Việt Cộng cũng như đệ tử tướng Toàn. Ông này nổi điên vì mất cái sacoche tiền đô la nên kêu trực thăng đi kiếm thiếu tá Phong.


Có con gái của một tiệm ở khu Hoà Bình, xin dấu tên, kể trước mấy tuần Đà Lạt bỏ ngõ thì có ông chú họ ngoài Bắc được nằm vùng dẫn đến nhà gõ cửa ban đêm. Thế là ông bố tin vào lời cách mạng ở lại Đà Lạt không di tản nên không mất nhà, của cải. Sau bị đánh tư sản nên phải đem cả gia đình vượt biển. Mình có kể vụ này rồi, ai buồn đời thì tìm trên bờ lốc.


Mình nói chuyện với Thiếu Tá Phong, đại đội trinh sát 302 khi xưa của Đà Lạt Tuyên Đức. Anh ta kể là mỗi lần đi hành quân về là ra tiệm hớt tóc của ông thần gì quên tên. Tên Nghĩa. Chỉ nhớ có cô con gái độ tuổi mình, không đẹp nhưng đồ phụ tùng đầy đủ. Mỗi lần vào đây sang băng nhạc lậu là gặp cô ta bận đồ bộ rất bắt mắt. Tắm xong rồi cắt tóc, tên này hỏi đi trinh sát chỗ nào. Anh ta kể cho hắn đánh đâu này nọ rồi phá lên cười. Ai ngờ sau 75, hoá ra ông ta là nằm vùng, làm chức lớn ở Đà Lạt đến khi Hà Nội cho người vào thay thế. Cũng như ông Kim, thầu khoán ở Trại mát và ông thợ mộc trên Số 4, làm nhà cho gia đình mình. Sau 75 mới khám phá ra họ nằm vùng. Tương tự mấy ông thợ của ty công quản nước Đà Lạt, làm dưới quyền ông cụ mình. Kinh


Ngoài Bắc thì dân chống đối chủ nghĩa cộng sản đã di cư vào nam gần hết, đa số là công giáo nên không có một lực lượng nào lớn để có thể ra mặt chống đối Hà Nội. Trong nam thì theo thể chế dân chủ nên họ cho phép sinh viên, tôn giáo xuống đường biểu tình, tự thiêu, đủ trò khiến thế giới bàng hoàng. Báo Việt Cộng phỏng vấn một ông cựu thị trưởng Đà Lạt và phó chủ tịch quốc hội Việt Nam Cộng Hoà, có em đi tập kết móc nối, nên ông ta cho Hà Nội biết các tường trình quân sự của các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà rồi được cử đi Hoa Kỳ để xin viện trợ. Ông ta nói với các thượng nghị sĩ Mỹ, là trễ rồi. Không nên viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Bố của bạn học Yersin nên mình dấu tên. Ai muốn biết thì kiếm tài liệu của Hà Nội đọc.


Mình có kể về một điệp viên của Việt Nam Cộng Hoà được cài đặt trong bộ chỉ huy của Hà Nội, vùng Tây Ninh, gần biên giới Cao Miên, có số danh là X92. Nhờ các tài liệu của ông ta mà Việt Nam Cộng Hoà tránh được nhiều vụ đẫm máu cũng như giúp toà đại sứ Mỹ cấp tốc nhân viên di tản người Việt ra khỏi Sàigòn trước ngày 30/4/75. Lý do Hà Nội muốn đánh chiếm toàn miền Nam trước ngày 19/5, sinh Nhật của ông Hồ. Ông ta bị khám phá vì một người làm cho CIA, bị bắt nên khai ra. Ông này người Bắc nên được đưa về vùng Tây Ninh làm việc để không ai biết tung tích đến khi ông ta lấy vợ vùng này thì phải đưa đi vùng khác. Nghe nói ở Ban Mê Thuộc rồi khi Việt Cộng đánh cao nguyên thì ông ta và xếp người Mỹ bị bắt nên khai ra. Sau này vượt biển chết với cả gia đình. 


Mình có ông cậu họ, làm cho CIA tỏng chương trình Phượng Hoàng nên khi Sàigòn sắp đầu hàng, CIA hẹn cậu ta ở đâu để bốc gia đình cậu đi. Cậu về nhà để kêu bà vợ đi thì khám phá ra bà mợ là nội tuyến của Hà Nội. Hóa ra họ biết nên cài người lấy cậu. Cũng có thể là Hà Nội biết được nên tìm cách chiêu dụ mợ. Cuối cùng trễ hẹn trực thăng, cậu tự tử chết. Ngày 30/4 mình đều thắp nhang cho cậu. Mình có kể về cái máy truyền tin của cậu khi ghé nhà mình, đi đâu với ông cụ.


Mình có đọc tài liệu của Hà Nội về nhân vật X92 này do một thứ trưởng công an Hà Nội kể. Xin trích tải về đây:


Qua khai thác một tên tình báo Mỹ bị bắt, ta được biết một số tên nội gián chui vào hàng ngũ ta, trong đó có một tên đã hoạt động được hơn 10 năm, mang tên trùng với hai đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh. Y đã cung cấp nhiều tin tức rất quan trọng cho địch. Tây Ninh là căn cứ Trung ương Cục nên mọi tin tức quan trọng về quân sự, chính trị của ta, y đều biết và cung cấp cho CIA. Những tin tức này được Lầu Năm Góc rất chú ý, chúng coi y là một tên tình báo số 1. Y có trí nhớ rất tốt. Chỉ cần đọc một lượt những chỉ thị, nghị quyết của ta là y có thể chép lại hầu như nguyên văn.

Tình báo Mỹ trước khi rút khỏi Việt Nam đã cài y ở lại. Y giao hẹn là tất cả hồ sơ, báo cáo của y gửi cho cảnh sát và CIA đều phải đốt hết để không còn tung tích. Nhưng Mỹ đã rút về nước, công an cảnh sát ngụy thì mất hết tinh thần, không còn bụng dạ nào đốt hồ sơ của y nữa. Cảnh sát trưởng ngụy ở Tây Ninh lúc đó là tên Nguyễn Tấn Danh trực tiếp nắm y. Chúng tôi đã bắt tên Nguyễn Tấn Danh. Tên này khai báo đầy đủ quá trình sử dụng và bàn giao Võ Văn Ba cho tình báo Mỹ. Qua khai thác Nguyễn Tấn Danh, chúng tôi biết đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy bị bắt là oan, ký tên trong báo cáo có tên Nguyễn Văn Ba là tên giả mạo. Nguy hiểm hơn, trong Thường vụ Tỉnh ủy có hai đồng chí tên là Ba. Chúng tôi tìm hồ sơ trong Tổng nha Cảnh sát ngụy và nắm được toàn bộ hồ sơ của y do chính tay y viết. Ðồng chí Tô Quyền (cán bộ miền bắc chi viện cho miền nam), Trưởng ban An ninh Tây Ninh, báo cáo cụ thể với tôi.

Sau khi thu thập đầy đủ tài liệu, nghiên cứu hồ sơ của Võ Văn Ba với Ty công an ngụy và Tổng nha Cảnh sát, tôi báo cáo Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn bàn cách bắt Võ Văn Ba để khai thác, đồng thời can thiệp với Tỉnh ủy Tây Ninh để minh oan cho hai đồng chí. Nhưng vì tình tiết sự việc phức tạp nên sau một thời gian dài mới minh oan được cho hai đồng chí đó.

Vụ Võ Văn Ba là vụ nội gián quan trọng. Y đã chui sâu, leo cao vào nội bộ ta. Trong 10 năm, y đã thu thập rất nhiều tin tức quan trọng cho địch, nhưng vì ta có nhiều tin tức và bút tích của y còn lưu lại trong hồ sơ cảnh sát cộng với lời khai của Nguyễn Tấn Danh (người trực tiếp phụ trách y) nên việc kết tội y không khó khăn. Công an Tây Ninh bắt tên gián điệp Võ Văn Ba đưa về trại giam của Tổng nha Cảnh sát ngụy cũ... Sau khi đến nhà anh Trần Quốc Hoàn báo cáo kết quả khai thác, anh Hoàn chỉ thị cho tôi bàn giao tên này cho An ninh Trung ương Cục... Trong giờ tập thể dục buổi sáng của anh em, Võ Văn Ba đã dùng dây quần thắt cổ tự tử.” (Hết trích)


Ông Phạm Xuân Ẩn làm điệp viên cho Hà Nội biết bao nhiêu năm nhưng không được tin dùng sau khi Việt Nam được thống nhất. Khi hết đi săn thì thợ săn sẽ không cần con chó săn nữa. Ông ta dùng tài liệu của Hà Nội đưa để báo chí ngoại quốc lên tiếng định hướng theo ý đồ của Hà Nội. Giúp Hà Nội tiến chiếm miền nam nhanh hơn. 


Nếu so về công giúp người Việt bớt đổ máu, chết chóc thì ông Võ văn Ba (không phải tên thiệt vì ông lấy tên Ba để trùng tên với 2 cán bộ lớn của Việt Cộng) với danh số X92 là người có công nhất. Hơn 100 ngàn người Việt được di tản vào những ngày cuối cùng của Sàigòn là nhờ tin tức của ông này đưa cho toà đại sứ. (Theo lời kể của cựu tình báo viên Frank Snepp). Việt Nam Cộng Hoà thua nên ít ai biết đến các hy sinh của những điệp viên của miền Nam. Mình có kể về ông Ba này rồi.


Tương tự khi Mỹ dội bom Cao Miên, tướng Đổ Cao Trí đem quân qua biên giới đánh Việt Cộng vì năm Mậu Thân, Hà Nội bị tổn thất quá nặng. Nên rút về dưỡng thương bên Cao Miên. Nếu người Mỹ cho phép ông Đổ Cao Trí tiếp tục đánh, truy sát Việt Cộng năm đó thì có lẻ đã dẹp được các căn cứ Việt Cộng bên Lào luôn. Cuộc chiến Việt Nam có lẻ đã đổi thay. Nhờ tin tức này mà người Mỹ muốn Việt Nam hoá chiến tranh nhanh để rút ra khỏi Việt Nam. Giao lại cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà nên đôn quân trong thời gian này khá nhiều. Cũng có thể Mỹ muốn bang gia lại với Trung Cộng nên không muốn tiếp tục cuộc hành quân này. Kết quả máy bay của tướng Trí nổ cái đùng trên trời. Thuận ta thì sống còn nghịch ta thì nổ máy bay.


Mình theo dõi vài nhóm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam thì thấy họ đưa tài liệu khá chính xác về cuộc chiến Việt Nam. Đọc tài liệu của Mỹ, Việt Cộng để hiểu thêm. Còn tài liệu Việt Nam Cộng Hoà thì thất lạc hết nên khó kiểm chứng.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn