“Anh cứ hỏi khiến tôi phải viết trả lời”

đó là lời thầy An nói với mình. Thầy quay sang thầy Phan Nam như phân trần “thằng này cứ hỏi ấm ớ nên tôi phải viết trả lời cho nó dài lắm”. Năm ngoái mình về thăm bà cụ, có gặp lại hai thầy và bạn học cũ. Ngồi cạnh thầy An và thầy Nam nên mình chỉ nói chuyện được với hai thầy. CBMT có đến nhưng không nói chuyện được, chỉ chụp hình bóng cho Văn Học hội ngộ.
Về Đàlạt gặp lại bạn bè, người thân, mình hay thắc mắc và tự hỏi nếu mình không đi Tây năm 1974 thì có lẻ cuộc đời mình đã bước sang một trang sử khác. Có thể bị Việt Cộng bỏ tù chung với ông cụ,…. Hoặc đi kinh tế mới hay vượt biển… như vài người bạn học cũ. Về Việt Nam, ngoài các người bạn học cũ, nay có đảng tịch thì những người bạn không được chế độ tin dùng thì cảm thấy họ như những người sống bên lề, thất chí, chìm vào trong các cuộc ăn nhậu để quên đi những mộng tưởng của tuổi thanh xuân.
Em hay cháu của mình, cũng được chế độ loại bỏ theo chế độ lý lịch nhân thân 3 đời, chỉ sống qua ngày, không dám ước mơ cao như thời VNCH. Cố gắng cho con du học. Có người em rễ, 3 đời hồng chuyên, có bằng khen của Hồ Thị, phấn đấu vào đảng nhưng không được. Lý do lấy con nguỵ thuộc giai cấp 13.
Ảnh hưởng hay hiểu biết của mình về Nho Giáo rất ít so với bạn cùng tuổi, sau này đi Tây thì coi như mất gốc. Những hành trang văn hoá Việt mình đem theo rất ít, thậm chí không hiểu rõ nên rất mù mờ về lễ lạc, cúng bái, giao tiếp nên hay bị chửi đồ mất gốc, không có tố chất Việt… sau này ra trường thì mới lò mò tìm sách đọc về nguồn thì mình lại đeo cặp kính khác, ở ngoài Việt Nam, ảnh hưởng của tây phương để nhìn lại, khảo sát về văn hoá Việt Nam do đó mình hay đặt câu hỏi ấm ớ mà người Việt trong nước cho là bình thường.
Tóm lại mình có thể xem là thành phần lai căng, không tây không ta như thịt 3 chỉ hay đúng hơn là ở vùng giao thoa của hai nền văn hoá tây phương và Việt, đứng ở vị trí gạch nối của Vietnamese-American hay Franco-Vietnamien, chưa kể những văn hoá lượm lặc trên đường tạm dung như Ý, Anh quốc, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ.
Mình đang đọc cuốn sách “Nhìn Lại Sử Việt” của ông Lê Mạnh Hùng, cựu sinh viên M.I.T., sau này về Sàigòn làm việc trước 75, lấy con gái của ông Phan Huy Quát, cháu của Phan Huy Lê, sử gia. Sau 75, bị đi tù Việt Cộng đến 7 năm, tự học hán văn. Ra hải ngoại, ông đi học lại và đậu tiến sĩ về sử học. Nghiên cứu và viết cuốn sử Việt Nam dài 2,500 trang. Ai rảnh thì nên dọc dạng PDF, tìm trên mạng. Trước đây có ông Tạ Chí Đại Trường, viết lịch sử Việt Nam, rất hay theo tiêu chuẩn sử của Tây phương, nếu không ngày nay chỉ có toàn thông tin bựa như anh hùng Lê văn 8,.. của sử gia Việt Cộng. Mình kiếm ông ta nhưng nghe đã qua đời.
Hôm trước có anh bạn học cũ, kể chuyện thời học sinh rồi kết luận “âu cũng là số mệnh” khiến mình nhớ đến những câu nhật tụng mà người Việt hay sử dụng khi nói chuyện như “cái số mình như vậy”, “kiếp trước mình vụng tu” hay có nợ nên kiếp này phải trả,… cao hơn nữa thì người ta gọi “đất nước mình như thế”, “tổ tiên mình giết người Khờ Me nhiều quá nên nay phải trả”,… họ chấp nhận như một chân lý bất di bất dịch như người ta chấp nhận đức mẹ đồng trinh dù ngoài ông Giê Su ra, còn sinh thêm nhiều người con khác….
Có lẻ người ta tin vào những định lý ấy theo lối cha truyền con nối, đời này truyền sang đời kia, không bao giờ tự đặt lại câu hỏi có đúng hay sai. Nếu có ai đặt lại câu hỏi thì được xem là phản nghịch, phản tặc, có thể bị tru di tam tộc,… hay được gán cho cái tội bất hiếu, bị cha mẹ từ bỏ.
Năm ngoái mình có đi viếng vùng Đế Thiên Đế Thích thì mới hiểu lý do tại sao một đế quốc văn minh như Khờ Me mà sau này lại te tua. May là Tây đến đô hộ nếu không thì còn te tua hơn nữa.
Đế quốc Khờ Me có khả năng kỹ thuật dẫn thuỷ nhập điền từ hồ Tônlesap để tạo dựng một thủ đô to lớn, vùng Đế Thiên Đế Thích, một nền văn minh tột đỉnh hơn hẳn người tây phương trong thời gian này nhưng sau này biến mất. Người ta có đưa ra nhiều giải thuyết của sự suy tàn của nền văn minh này nhưng không thuyết phục lắm. Nếu không có người Pháp thám hiểm thì chắc không ai biết đến lịch sử vùng này. Tại sao dân Khờ Me không chống trả lại người Việt, khi họ xâm lăng chiếm đất của Khờ Me dưới triều Nguyễn.
Mình nghĩ đó là vì ảnh hưởng đạo Phật tông phái Tiểu Thừa. Có anh bạn nhờ mình dịch 2 cuốn sách pháp ngữ của các nhà nghiên cứu của Pháp của viện Đông Bác Cổ về phật giáo ở Cam Bốt. Những bận quá nên chỉ đọc rồi khôgn thực hiện được.
Thiên chúa giáo cho rằng khi một đứa bé mới sinh ra, đã được xem có tội nên phải làm lễ rữa tội. Bố mẹ đứa bé ngủ với nhau, có mang sinh ra nó thì trên nguyên tắc mới có tội, tại sao lại đè đầu đứa bé mới ra đời, bảo nó có tội. Người ta cứ kêu lỗi tại tôi mọi đằng, Mea Culpa. Cứ tưởng tượng thằng bé mới sinh ra, nghe người ta phán mỗi ngày là có tội như Việt Cộng kêu mày là thằng phản động, con cháu địa chủ cường hào ác bá, có nợ máu với nhân dân dù chả hiểu nhân dân là ai, nợ máu là gì, vô hình trung sẽ tạo cho đứa bé bị nhập tâm, có cảm giác phạm tội, tìm cách cầu nguyện để sám hối. Có lần mình quen một cô theo đạo thiên chúa gộc, bố mẹ cô ta kêu mình là người Lương, anh bỏ đạo nên phải trở về đạo khiến mình đã ngu là càng đần thêm.
Có nhà dòng, Opus Dei, mình thấy họ đeo dây thừng rồi mỗi ngày lấy dây thừng để tự đánh vào mình để sám hối như người Hồi giáo, tới mùa lễ, lấy dao cắt da thịt họ để ăn năn sám hối. Nghe kể đức giáo Hoàng John Paul đệ nhị, khi xưa cũng hay tự quất dây vào mình, bắt chước cảnh chúa Giê Su bị quân La Mã, quất roi, để chú tâm vào việc tu hành hơn, tin vào thiên chúa hơn.
Hồi nhỏ, mình sống với Mệ Ngoại, được mệ dẫn lên chùa vào ngày rằm, ăn chay nên tin kiếp trước mình làm nhiều tội ác hay làm con bò nên kiếp này ngu như bò. Chấp nhận khi thầy cô, bạn học hay người thân gọi là đồ ngu như bò, dốt như heo nên từ từ ngấm trong đầu, trong tâm khảm tự cho là mình thuộc dạng ngu sớm dốt lâu nên nghĩ học cũng vậy nên chơi thả dàn. Chán thì phá làng phá xóm, hay được hàng xóm kêu là thằng mất dạy.
Khi sang Văn Học thì như giác ngộ cách mạng, mình đeo kính cận, thấy rõ trên bảng, bổng học khá ra rồi gặp thầy Nguyên, khuyên đi du học nên đã thay đổi cuộc đời của mình. Từ đó lo học, không thích phá làng phá xóm nữa, chỉ tiêu là đi tây.
Sau khi đậu tú tài, về Sàigòn, mình với Võ Hoàng Đa, đạp xe đạp ra nha du học nộp đơn nhưng không tin tưởng lắm vì thiên hạ nói phải chạy tiền. Mình thì cứ nói được thì đi, không thì thôi nhưng ít ra là đã thử hết mình. Hùng con cua, gửi cho mình nghị định của nha du học được cho du học nên chạy về Sàigòn, vào nha du học lấy nghị định để làm sổ thông hành.
Vào bộ nội vụ, thiên hạ nhìn mình như bò đội nón, bắt đợi từ 8:00 sáng đến 3:00 giờ chiều gần hết giờ làm việc. Sau này mới hiểu thiên hạ đi vào đút lót nên được qua các cửa khẩu còn mình thì itờ nên cuối cùng mới được vào. Tên ngồi bàn ở khâu cuối cùng, có nhiệm vụ đóng dấu cho xuất ngoại, được thiên hạ cho bao thư khá nhiều. Mình thấy bố con một tên vào sau mình nhưng lại được gặp tên này trước, trao cái phong bì cho hắn, cất vào học tủ. Tên này bảo mình mai trở lại, hết giờ làm việc nhưng mình rên hết tiền, mai phải về Đàlạt vì nhà có chuyện, nói quá nên hắn cảm thông, lấy cái sổ thông hành của mình, đóng dấu cho xuất ngoại, không cần chi địa cho hắn. Nghĩ lại mình bắt đầu biết thương lượng với thiên hạ từ bé, từ thời ra chợ dọn hàng cho bà cụ. Cuộc đời mình giang hồ tứ xứ, khá nhờ cái tài đấu tranh và đả thông tư tưởng với thiên hạ sau này.
Hôm qua, đi ăn cơm ở Brodard. Mấy đứa con kêu phải đợi 30-45 phút. Mình vào nói một cái là có bàn ngay, khỏi phải đợi chờ hơn nữa tiếng như thiên hạ. Mụ vợ thì cứ nói đợi như thiên hạ nhưng cũng vào ngồi, gọi thức ăn, khỏi đợi rồi chửi mình vì đồng chí gái từng sống với Việt Cộng trong thời xếp hàng cả ngày của thời bao cấp nên quen cảnh chờ đợi. Chán mớ đời.
Cháu hay con mình đều ngạc nhiên. Mình nói không ai có thể từ chối mình cả. Đi nghỉ hè, vào khách sạn là mình có presidential suite dù chỉ trả tiền phòng thường, đi máy bay quốc tế cũng miễn phí. Mụ vợ mình than là mình không biết ăn nói nhưng không hiểu tại sao người ta cho mình mượn tiền, có người cho mượn cả triệu mà không biết đánh vần họ mình là gì, nhà cửa ở đâu. Mụ vợ chỉ biết lắc đầu, tự hỏi sao lấy thằng chồng ăn chi mà ngu rứa.
Hôm qua đưa tiễn con gái ra phi trường đi Ý, học một năm. Mình để con gái và thằng con kéo va li dùm em đến quầy làm thủ tục vé. Thằng con gọi cầu cứu, mình chạy lại. Tên ở quầy vé, kêu là vali nặng hơn 3 ký, còn cái va li nhỏ mà con gái tính mang theo lên máy bay thì khổ kích thước to hơn hạn định nên phải đóng thêm $100. Mình nói hắn một câu, hắn cho con gái check-in luôn cái va li nhỏ tính vác lên máy bay, không tốn đồng bạc. Con mình nhìn mình như bò đội nón.
Mình mới giúp hai đứa con mua được căn nhà đầu tiên cho thuê. Chúng hùn tiền để đặt cọc, mình thương lượng chủ nhà cho tiếp tục trả cái nợ 2.75%. Thằng con nhìn mình ngạc nhiên vì mình chỉ nói chuyện vớ vẩn, khi vào vấn đề thì chỉ 5 phút là chủ nhà đồng ý, ký giấy tờ nộp cho County dù mình chưa đưa một đồng.
Người Khờ Me khi thờ Ấn Độ Giáo đã thành lập được Đế Thiên Đế Thích đến khi theo Phật Giáo, tông phái Tiểu Thừa thì mất hết. Họ xoay qua ăn chạy niệm phật, mất hẳn chí vươn lên, cứ lo ăn năn sám hối để lên Niết Bàn. Có nhiều người làm ăn khá rồi bổng nhiên nghe ai đi theo cõi trên, bỏ làm ăn, bở vợ chồng đi tu để lên Niết Bàn. Khi đã có niềm tin vào nơi khác thì con người cho rằng trái đất là cõi tạm, không muốn phấn đấu.
Homo Sapiens trở thành chúa tể của trái đất nhờ tư duy, muốn khám phá, xây dựng tương lai qua những ước mơ, những gì họ tin tưởng và hoạch định. Nay con người không muốn sát sinh, chỉ ăn chay niệm phật thì sẽ không còn tư duy về những hoạch định xây dựng về tương lai mà lại chỉ mong làm điều tốt để lên thiên đàng nhưng người về hưu, dọn đường về cỏi Phật hay đất Chúa.
Hôm trước nói chuyện với anh bạn, anh ta cho rằng nhiều khi mình bỏ tâm ra giúp người, dù nói suông vô hình trung gánh cái nghiệp dùm thiên hạ. Anh ta nói thấy cái kết của các thầy bùa thầy ngải vào cuối cuộc đời rất bi thương. Ngay người có lòng nhân từ muốn giúp người khác, như lãnh hộ mấy cái nghiệp của người khác nên te tua, chưa kể đến những người thiếu đạo đức. Kiếp sau còn phải tu thật nhiều hơn vì lỡ lãnh nghiệp của thiên hạ quá nhiều ở kiếp này.
Lên 6 bó con người tìm về cội nguồn hay tự hỏi sẽ đi về đâu khi mãn phần thì chấp nhận được nhưng mấy đứa trẻ 5, 10 tuổi bắt chúng sống, tư duy như những gì ở cuối đời người thì cả đời sẽ không làm gì được ngoài đi khất thực, ăn chạy niệm phật.
Tương tự Việt Nam với quan niệm, văn hoá Nho giáo đã làm trì trệ sự giàu mạnh, phồn thịnh nhất là về trí tuệ rất thiếu vắng. Tư tưởng người Việt hầu như không có, chỉ vay mượn từ người Tàu. Hơn 2500 năm mà Nho Giáo chỉ lập lại những gì ông Khổng Khâu và học trò đã nói trong khi Tây Phương sau mấy thế kỷ chìm trong bóng tối ngu xuẩn của Thiên Chúa Giáo chuyên chế ở thời trung cổ như giết ông Galileo,.... Sau này, họ được kề cận với tư tưởng La Hy, dấy lên phong trào Phục Hưng giúp họ chiếm lãnh các nước trên thế giới, làm cách mạng kỹ nghệ nay thì cách mạng tin học. Họ đi trước thế giới nhờ tự do tư duy sáng tạo. Người ta nói nếu nhà thờ không đàn áp ở thời Trung Cổ thì có lẻ cách mạng kỹ nghệ đã khởi sự từ lâu.
Nhân sinh quan của Nho học cho rằng phải trung với vua, hiếu với cha. Nhưng nếu gặp một ông vua ngu dốt, tàn bạo thì chúng ta phải tuân phục theo bạo lực? Tương tự gặp một người cha, tối ngày nhậu xỉn, đánh bài thua, về đánh con, đánh vợ thì vẫn phải có hiếu, chịu đựng để được mang tiếng vợ hiền con ngoan. Thấy cái sai nhưng vẫn chấp nhận, chịu đựng cái sai để mong ngày nào vua hay cha sám hối, giác ngộ cách mạng?
Họ chia xã hội thành 4 giai cấp chính: Sĩ Nông Công Thương, kêu gọi làm người quân tử, một kẻ sĩ trong khi đó họ lại nói “Phi thương bất phú”. Mấy người biết chút đỉnh chữ tàu, kêu gào, tự xem là giỏi văn, xuất khẩu thành thơ nhưng trên thực tế lại là đám ăn bám xã hội kinh khủng nhất. Hết ăn bám cha mẹ rồi đến vợ, thi chả đậu suốt 20-30 năm trời, gia đình khánh tận. Mình có đọc một tài liệu về thi cử ở Việt Nam khi xưa. Trung bình một người đi học mất 20 năm, không lao động sản xuất, mỗi lần đi thi là gia đình phải bán heo bò hay vay nợ mà đâu phải đậu liền, rớt te tua rồi sau 20 năm về làm ông giáo làng hay bốc thuốc bắc.
Người Tàu họ dạy người Việt những mê tín quái gở nhằm nô lệ hoá tinh thần người Việt. Kinh Dịch, tử vi, bói toán… chúng ta tự hào đánh đuổi người Tàu bao nhiêu lần nhưng vẫn nô lệ vào văn hoá, tôn giáo của họ, may thực dân tây đến chiếm đóng có 80 năm mà đã biến đổi Việt Nam quá nhiều. Sau này chúng ta chống Tây lại quay đầu về với ông tàu.
Kinh dịch thì theo mình chỉ là một phương trình toán học có 64 ẩn số, lấy 8 x8 nên không gì đặc biệt còn bói toán thì có bao nhiêu sao trên dãy Ngân Hà để mà biết ngôi sao nào là của mình để bói toán. À nhưng mà thiên cơ bất khả lộ. He he he. Nhất là Trần Hoàn sinh ra trong thời kỳ ăn lông ở lỗ mà phải tin theo? Mấy ngàn năm qua, người ta vẫn kêu tử vi là hay, tuyệt. Có người dùng toán học để minh chứng là tuyệt vời nhưng khi họ áp dụng cho thực tế thì thất bại về làm ăn.
Năm ngoái về Đàlạt, gặp lại một người thầy, khi nói chuyện cứ thấy thầy cứ nói theo tử vi. Thầy kể khi ra khỏi nhà cũng phải xem ngày giờ, hướng đi,… lấy vợ cũng phải tìm người có mạng Mộc để hợp với mạng Hoả của thầy. Thầy rất tin tử vi, nhờ đó mà thầy thành công trong thương trường. Nghe một người bạn học cũ kể thì ông thầy này thuộc dạng làm ăn kinh hồn nhờ có đảng tịch.
Việt Cộng rất hiểu điều này nên trong thời gian họ chống, để cướp chính quyền thì đả phá mê tin dị đoan, kêu tôn giáo là thuốc phiện nay cướp được quyền hành thì nở rộ lên chùa chiềng, đồng bóng, ấn thần,… tổ chức các lễ hội để nô lệ hoá tư tưởng con người tại Việt Nam, phải cho họ niềm tin nhất là về tâm linh, thậm chí có tượng ông Hồ trong chùa như thánh hay bụt. Do đó thực dân luôn luôn dùng niềm tin vào Thiên Chúa Giáo để đô hộ và chiếm đóng thuộc địa.
Có dạo ông TT, chuyên in lịch Tam Tông Miếu ở Bôn sa, kiếm rất được nhiều tiền. Không biết nghe ai lại tổ chức làm băng nhạc video, lỗ học máu. Sao ông ta không xem lịch ngày giờ của chính ông ta in để tránh những giờ xấu, hướng hoành đạo. Ông ta hát dỡ như sao băng thì ai mua. Năm kia, ông ta bị một vố khác là in lịch ở Việt Nam cho rẻ. Việt Cộng chơi đểu bỏ thêm tin tức hồ chí mình và đảng trên lịch….nên ông này phải bỏ hết mấy mấy ngàn cuốn lịch chở từ Việt Nam qua. Ông ta quên xem ngày giờ, ngày lành tháng tốt.
Khi người Việt kêu chắc là số mệnh, kiếp trước mình vụng tu,… là một cách đỗ thừa cho sự sai lầm, tự bào chữa về thất bại của mình, tự đánh lừa mình là tài giỏi nhưng không qua thời vận. Người Tây phương, khi thất bại thì họ xem lại, phân tích lý do để tránh lập lại sau này do đó họ mới tiến xa. Ông Madison thất bại biết bao nhiêu lần để trở thành thần tượng của các khoa học gia ngày nay. Ông ta hên, không sinh tại Việt Nam hay tàu nếu không thì thầy bói đã kêu kiếp trước như vậy như kia, tu cho mau.
Dưới thời Cộng Sản thì đúng là học tài thi lý lịch. Nếu anh hay chị có giỏi thì được thu dụng nhưng không bao giờ nắm lấy chức vụ cao nếu không phải đảng viên. Ở hải ngoại thì chúng ta không thể nào sử dụng những lá bài ấy để biện hộ cho hành động của mình.
Hôm trước mình có kể về O-zone thì một anh bạn imeo, than dùm mình “Bạn ta vẫn chưa ngơi nghỉ; vẫn lăn xả vào cuộc đời với những toán tính và chuẩn bị”. Mình muốn ngơi nghỉ nhưng đồng chí gái thì cảm thấy khó chịu. Sáng thấy mình ngồi đọc sách hay viết kể chuyện ngày xưa, trưa về ăn cơm thì thấy mình xem đá banh, tối thì đi múa võ, nên mụ vợ cứ cằn nhằn cửi nhửi nên phải tìm cách thoát ly trong ngày, đi làm cách mạng lại. Chán mớ đời.
Cách đây đâu 5, 6 năm, đồng chí gái cấm mình không được mua thêm nhà vì hàng năm mụ vợ thi đua làm người vợ anh hùng, người mẹ nhân dân, lao động cật lực để được bonus vào cuối năm. Mình sợ đồng chí gái xài bậy, lấy tiền thưởng của mụ vợ đi mua nhà bị cô nàng chửi, cấm không cho mua nhà nữa. Kêu có đủ nhà rồi thì thấy đồng chí gái có lý vì bao nhiêu chỉ tiêu, ước mơ của mình từ bé đến nay đều thực hiện được hết, ngồi nhà chơi.
Khổ là mấy tên chuyên gia bán nhà quen, cứ lâu lâu khều, kêu có gút điu, như ra đường thấy tờ $100 hay 1xu rớt dưới đất, không lẻ không lượm nên phải lén vợ đi mua. Bây giờ có đất, để không thì tốn tiền đóng thuế, cắt cỏ nên phải xây. Phải đặt thêm các mục đích khác để thực hiện, nếu không cái óc bị teo lại, chỉ cần có sức khoẻ là cứ làm thoải mái, không cần năng nổ lắm. Mình mướn thằng mỹ làm những gì cần làm. Khoẻ đời.
Hôm qua, có người i-meo cho mình kêu pocket listing, chủ bán nhà cho vay lại. Mình gửi cho thằng đại hàn trẻ, muốn học nghề mình nên hy vọng hắn mua được căn ấy do thằng bạn mỹ, cựu phi công, từng tham chiến tại Việt Nam bán. Khi xưa, mình học nghề ông Rich Dad, nay có nhiều tên muốn học nghề mình nhưng đa số là lười, cứ muốn người ta dâng tận miệng. Chỉ có tên đại hàn, có vẻ chịu khó hơn nên gửi cho hắn.
Không đi làm, được vợ nuôi từ mấy năm nay, có thì giờ nghiệm lại cuộc đời, mình nghĩ ông cụ mình mất năm 90 tuổi, dù bị Việt Cộng nhốt ở trại cải tạo đến 15 năm thì mình cũng có thể thọ thêm 30 năm nữa mà nếu sống lâu mà chả làm gì thì cũng chán. Mình được cái là sáng đi tập võ nên thấy ngày dài ra chớ, ở nhà đọc sách hoài cũng chán. Đi chơi thì chừng 3 tuần là mình muốn về nhà lại.
Dạo mình ở New York, có ông chủ tịch gia đình Phật tử ở Connecticut, kêu mình vẽ chùa cho họ. Ông này có cô con gái xinh nức nở. Ông ta nói là mỗi người sinh ra, trời phật cho một cái cốc, không biết là cái cốc lớn hay nhỏ. Mấy năm trước đồng chí gái cấm không được mua nhà nữa thì mình nghe lời vì nghĩ là chắc trời cho cái cốc chừng đó.
Rồi thiên hạ lại kêu mình đi mua đất, mình tính xoay qua bán liền kiểu mì ăn liền nhưng nếu giải thích theo lối Việt Nam thì số mình không bán nhà được. Lúc mới vào nghề, tính mua nhà rồi sữa lại bán nhưng cứ mỗi lần bán nhà là hai vợ chồng cúng thổ thần đất đai chết bỏ nhưng không ai mua, chỉ thấy thiên hạ đến xin mướn nhà. Rốt cuộc phải làm Landlord bất đắc dĩ.
Thứ 7 này, mình đi gặp một ông ấn độ, có mấy miếng đất trong vùng O-zone, cho vay lại. Hai năm nay, ông ta cứ réo mình mua, cho vay lại nhưng mình thì cứ lo cái miếng đất của mình chưa xong. Nay khám phá ra nằm trong vùng O-zone nên mình gọi lại. Chắc sẽ mượn tiền bạn bè để đặt cọc cho ông ta còn nợ thì sẽ trả khi nào xây cất xong thì tái tài trợ để trả.
Tuần trước, mình có đi viếng một nông trại trồng bơ, bưởi, chanh hữu cơ, có giếng, có hệ thống năng lượng mặt trời. Hôm nay nói chuyện với chủ, ông ta kêu 81 tuổi, hỏi mình có muốn mua không thì ông ta sẽ bán cho vay lại. Mình nói khi nào ông ta khoẻ thì gọi mình rồi sẽ bàn thêm.
Có lần nói chuyện với anh bạn thì anh ta khuyến khích mình nên xây để cho con sau này. Dạo này thằng con mới ra trường, đang kiếm việc làm nên kéo nó lên vườn, đi họp với đám mỹ đầu tư,… biết đâu nó thích theo nghề mình thì sẽ truyền lại. Mẹ nó thì muốn nó đi làm cho công ty nào còn mình nghĩ nếu nó chịu khó, học hỏi thêm, nội trồng bơ cũng có ăn, lợi tức còn cao hơn kỹ sư nhưng mẹ nó lại thích khoa bảng kỹ sư kỹ xiết. Xa hơn thì đi mua nhà cho thuê nhưng tổ trưởng vẫn thích có con mang tiếng kỹ sư hơn là nông dân như bố nó.
Biết đâu, ngày nay mình đi làm lại, tạo dựng một cơ sở cho thằng con và con gái sau này hay lấy lợi nhuận để làm nhiều chuyện khác như cho thêm học bổng sinh viên nghèo như mình khi xưa.
Chán mớ đời

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn 

Đường Minh Mạng *


Đường Minh Mạng bắt đầu từ khu Hoà Bình đi xuống dốc và chấm dứt với đường Phan Đình Phùng, góc nhà thuốc Tây Việt Quang, đối diện rạp Ngọc Hiệp, có ba con đường nối liền và một con hẻm nối với dốc Nhà Làng. Khởi đầu ở khu Hoà Bình là tiệm Đức Xương Long, nhà của Huỳnh Đức Lương, học Yersin, hay đi học chung với mấy anh em Hùng Con Cua, nay định cư ở Úc, bán tạp hoá đối diện tiệm đồng hồ Tiến Đạt, bên cạnh là tiệm Lưu Hội Ký, bán sắt, vật dụng xây cất.
Đầu đường Minh Mạng, Đà Lạt xưa. Bên tay phải có tiệm đầu tiên là đức Xương Long, rồi đến Viễn Xương Long, đến Lưu Hội Ký. Hình này chụp nhân buổi rước xe hoa của gia đình Phật Tử, về chùa Linh Sơn
Phía bên tay trái, là tiệm Thiên Thai, tiệm vàng Kim thịnh, nhà tên bạn học khi xưa. Sau đến tiệm Anh Võ rồi đến tiệm chụp hình ANh Việt
Kế đến là tiệm thuốc Bắc Bội Sanh của bà Chiu, đại lý rượu miền nam, tiệm bánh Hoài Hương thì phải của ông Quảng Thành, có xe đò chạy Saigon - Đà Lạt rồi đến tiệm Liên Hưng bán tạp hoá sau đó con đường nhỏ không nhớ tên, nối đường Minh Mạng và đường Tăng Bạt Hổ, hình như Nguyễn Biểu. Mình chỉ nhớ phía này là cửa sau của các tiệm như Việt Hoa, bán máy truyền hình, radio,..dùng để xe hàng đậu để giao hàng.
Tiệm bà Bội Sanh, đại lý rượu, thuốc Bắc . Bên kia là tiệm vàng Kim Thịnh, tiệm Anh Võ,..
Tiệm Thiên thai này, lúc gia đình mình xây nhà, ra đây mua sắt làm bê tông đủ trò, tốn khá nhiều tiền cho họ
Phía bên kia đường là tiệm vàng Hùng Thanh của ông Bùi Duy Chước, bố của bà tiệm vàng Bùi Thị Hiếu, ở khu Hoà Bình góc Tăng Bạt Hổ, đối diện nhà hàng Mekong. Đêm đêm có bà 7 quốc đẫy xe bán sữa đậu nành và bánh chuối, đứng bán trước cửa tiệm này và khách hàng ngồi la liệt trên các thang cấp.
Mình không nhớ chỗ này có tiệm cắt tóc của người Tàu. Chắc lâu lắm rồi
Đi xuống chút nữa, thấy tiệm vàng Hừng Thành của ông Bùi Duy Chước. Chỗ này vào ban đêm, dân Đà Lạt hay ghé lại đây uống sữa đậu nành của bà 5. Ngồi trên mấy  thang cấp, trời mưa tạt vào chân, uống ly sữa đậu nành nóng hổi. Sướng kể gì.
Đối diện Đức Xương Long có tiệm bán vật liệu xây cất, cắt kiếng, tên Thiên Thai kế đến là tiệm vàng Kim Thịnh, có tên Nguyễn Biêu học chung với mình khi xưa ở Yersin. Tên này người Huế, nhỏ con nên hay bị ăn hiếp nhưng hắn có cái mồm rất to nên hay chửi những tên đánh hắn, chửi khá thâm như "mai tau ra tau đào mả cha mi lên rồi tau ẹ xuống cho dòng của mi, mười đời không ngóc đầu lên,..." nên cuối cùng ai cũng ngán hắn nên không ăn hiếp nữa.
Kế đến hình như tiệm vàng, bán đông hồ của ông Bùi Vàng, bà vợ có cái xập trên lầu chợ Mới, chổ cầu thang chợ đi vào. Có con là Bùi Văn Đông có thời học chung với mình, sau này nghe nói đi du học, có cô em là Bùi thị Hoa, chơi khá thân với cô em mình khi định cư ở Paris. Kế bên là tiệm uốn tóc Mỹ Tân rồi đến tiệm Anh Võ rồi đến tiệm chụp hình Mỹ Dung mà có lần mình mua cái máy chụp hình tí hon đầu tiên ở đây.
Bên cạnh là tiệm hớt tóc rồi đến tiệm của bà người Tàu, bán giày dép rồi đến tiệm Lộc Thành rồi có con hẻm nhỏ đi vào có quán chè Mai Hường và vài thang cấp đi vào cái hẻm có dãy nhà phía sau. Kế bên là tiệm may Văn Gừng có con Trần Văn Phong học Yersin, có thời hay đi đánh bi da với mình, nghe nói đang ở Úc rồi đến nhà bà Giáo Trình xong có hai tiệm uốn tóc, một là Bạch Cung và tiệm kia thì không nhớ. Lí do nhớ là bà cụ mình hay đến tiệm Bạch Cung. Bên cạnh tiệm này là tiệm bán nước mắm của ông Tư Kha rồi đến con hẻm Nguyễn Biểu đi xuống dốc Nhà Làng.
Đối diện tiệm may Văn Gừng là tiệm may Hoàng Nho, có con tên Hoàng Ngọc Tuấn học Văn Học, nghe nói nay ở bên Úc. Có dạo đại hội thể thao quân khu 2, mấy anh em Đinh Quốc Tuấn, Đinh Quốc Hùng lên làm mưa làm gió nên các đại gia đà lạt khi ấy cho con mình đi học đánh quần vợt khá đông. Tên này là một trong những học trò của ông tiệm giày Bata, ở khu Hoà Bình. Bên cạnh là tiệm may Toàn Mới rồi mấy tiệm Vĩnh Long , Vĩnh Phát bán vãi rồi đến tiệm Hiệp Pháp bán kim chỉ, tạp hoá,..

Tiệm Hiệp Phát này khi xưa hay nhờ mẹ mình bán hàng ế của họ. Sau chiếc xe hơi là đường Nguyễn Biểu, có một tiệm bán kiếng. Mình hay ra đây mua kính để thay mấy tấm kính cửa sổ bị bể.
Ngay góc Nguyễn Biểu và Minh Mạng, có một quán phở, dựng phía sau cái talus bằng đá ong của tiệm Vĩnh Phát mà mình có ăn một lần khi được cô em bao. Đối diện có tiệm bán sách vở, bút chì, tên Thiên Nhiên thì phải, bên cạnh có tiệm bán kính mà mình cứ vào xem coi họ dùng cái dụng cụ để cắt kính, nhẹ nhàng . Chỗ này đi xuống thì có tiệm bán cà phê mà mỗi lần đi ngang đây thơm mùi cà phê rang. Nhà này có mấy cô con gái Bắc kỳ học Bùi Thị Xuân, có một cô cùng tuổi mình học Hội Việt Mỹ chung lớp một hai lần. Tên Nguyễn Thế Hùng, con ông Nguyễn Hợp Đoàn, mê cô này lắm. Đi học Hội Việt Mỹ, cứ thấy hắn tán cô này trong lớp. Hình như hai gia đình quen nhau.
Chỗ này là đầu Dốc Nhà Làng, đi vào tay trái là xuống dốc. Chỗ này có nhiều người bán bắp nướng. Cố bà bán bánh căn khi xưa ở dưới chợ, sau này dọn lên đây bán đắt khách, sau đó mua căn nhà tại đây luôn.
Chỗ bà đội cái thúng, bên tay trái trong ngõ hẻm có tiệm chè Mai Hường. Mình có ăn đây vài lần. Bên cạnh là tiệm may VĂn Gừng
Kế bên là tiệm giày Mỹ Hưng mà mình có đóng đôi giày đầu tiên trong đời trước khi đi Tây. Căn nhà này của ông Tư, anh ruột của bà ngoại mình làm thợ may ở Saigon, sau này ông ta nói bà cụ mình mua nhưng không đủ tiền nên ông ấy bán cho ai khác. Trên lầu của tiệm này được gia đình chú Ký, bạn của ông bà cụ mình mướn nên mình hay ra đây chơi. Mình hay đứng trên balcon rồi ai đi ngang nhất là các cô thì mình nhỏ nước miếng xuống rớt lên đầu họ rồi núp, có lần có tên chạy lên lầu đòi đánh mình nhưng vô cửa không được. Kinh
Tiệm vàng Bùi Duy Chước, bố của bà Bùi Thị Hiếu.
Cuối dãy này ngay góc Tăng Bạt Hổ có tiệm giặt ủi của ông Châu, con của bà Cai Thỏ ở ấp Thánh Mẫu mà khi bà cụ sinh ra mình, đem bán mình trên đó để dễ nuôi. Có lẻ vì là con Thánh nên sau này mình đi phá làng phá xóm. Ông Châu này có thời mình thấy ông ta hay làm trọng tài đá banh ngoài sân vận động với ông Năm Ngựa nhưng sau này chắc chạy không nổi nên hết thấy bóng dáng ông ta.
Ông chủ Lữ Quán Sàigòn và tiệm hủ tiếu Nam Vàng đối diện
Tiệm Vọng Nguyệt Lầu, bán chè trên lầu, còn ở dưới là tiệm hủ tiếu Nam Vàng. Bên cạnh tiệm Vogn Nguyệt lẦu, trên đường Tăng Bạt Hổ, có cầu thang đi xuống động chị em ta. Nhà trắng xanh là của gia đình Đào VĂn Quý học với mình khi xưa, bên cạnh là nàh của Xí Rổ , người đã chém đại ca thay trước vũ trường La Tulipe Rouge.
Ảnh này thấy tiệm trồng răng cua rông Nguyễn Văn Nghi, đi vài tiệm thì đến tiệm chụp hình Hồng Thuỷ. Bên trái là nhà của bác sĩ Hách sau đó là mấy tiệm ở đường phan Đình Phùng
Đối diện dãy này, bên cạnh con hẻm đi xuống dốc Nhà Làng thì có tiệm giặt ủi, bà con chi với gia đình Thanh Tịnh vì lâu lâu mình thấy cô này ở đây. Trong thời chiến tranh, lính Mỹ hay đem đồ lại đây để giặt nên sau này thấy họ lên hai tầng lầu, nhà được xem sang nhất khúc này. Bên cạnh có cái cầu thang đi xuống để vào hẻm nhỏ có mấy căn nhà ở phía sau rồi đến tiệm hớt tóc. Kế bên là tiệm Công Đồng, bán radio, máy truyền hình. Ông chủ là người Bắc, hình như Đà Lạt dạo đó trên khu Hoà Bình thì có tiệm Việt Hoa, đường Minh Mạng có tiệm này bán máy truyền hình thì phải.
Xuống vài căn thì có cái nhà ba tầng cho thuê bàn bóng bàn mà các tuyển thủ bóng bàn của Đà Lạt dạo đó hay tụ tập ở tiệm này để đánh độ như anh Tín đánh kiểu cầm thìa từ Nhật về làm trong trường Võ Bị, Minh đen ở xóm ông Xu Huệ, hình như con rễ của nhà này. Lê Xuân Thảo, Nguyễn Minh Dũng, chú Nô em của chú Nê ở ấp Cô Giang. Mình nhớ có lần mình đến đây đánh trên lầu, có cái máy kéo như ở các sòng bài bên Mỹ. Có lần một tên kéo ra ba con thì máy kêu in ỏi, tên kéo máy mừng quá chạy đi kêu bà chủ, bà chủ thương lượng trả 500 đồng thay vì 500 cái token vì mỗi token được bán 25 đồng.
Khúc này là ngã ba Tăng Bạt Hổ và Minh Mạng, đi xuống một chút thì có Lữ Quán Saigon, khi xưa thường gọi là Saigonnais, kế bên là tiệm bi da Hồng Ngọc, có ông chủ người Nam, cứ đi vòng vòng xem tụi con nít có ăn gian, lấy miếng thiết mài cho mõng rồi đút vào cái chỗ bỏ tiền để đẫy cái móc làm rơi banh xuống. Mình đốt tiền lì xì khá nhiều ở tiệm này khi bị đám bạn rũ chơi banh bàn hồi học tiểu học. Sau này lên Trung học thì mê đánh bi da nhưng không đánh ở tiệm này vì mấy cái bàn quá cũ nên mấy cái băng bị cứng như đá vì trời lạnh. Tiệm có bàn bi da đánh phê nhất là Minh Tâm đối diện rạp Ngọc Hiệp vì chủ có lò sưởi khi trời lạnh nhưng ở đây cho thuê đắt nhất Đà Lạt vì mấy tên đánh chuyên nghiệp như Trung Ba tai, cắm dùi ở đây.
Đối diện khúc này, ngay ngã ba Tăng Bạt Hổ, có tiệm chè Vọng Nguyệt Lầu trên lầu còn ở dưới là tiệm ăn Tàu bán hủ tiếu Nam Vang, kế bên có tiệm sách tên Khai Trí hay Thiên Nhiên mà mình mướn cuốn Tuấn Chàng Trai Nước Việt ở đây. Mỗi lần nhập học là mua porte plume, plumier,... ở đây. Bên cạnh là tiệm vẽ quảng cáo của ông Đình Nghi mà mình hay đứng xem ông ta kẻ chữ trước khi vẽ xong đến cái quán của ông bán bắp rang. Mỗi ngày ông ta kéo cái xe có kính không tới 60cm ra rồi cắm điện cho hột bắp vào cái nồi điện, khi bắp nở thì bỏ thêm đường vào rồi múc bỏ vào gói nhỏ. Chỗ này rất nguy hiểm vì có mấy thang cấp cao mà hình như không có hàng rào.
Đi xuống một chút là phòng trồng răng của ông Nguyễn Văn Nghi, ở gần xóm mình, cạnh nhà Đinh Gia Lành ở đường Thi Sách mà trước khi đi tây, mình ra phòng nhổ răng của ông ta để nhổ và trám răng mất nguyên buổi sáng. Bên cạnh là tiệm chụp hình Văn Hoa rồi đến Nhà Ngũ Bồng Lai của ông Chà Và, có tiệm bán đồ tạp hoá, nước hoa,.. trên khu Hoà Bình, cạnh tiệm Việt Hoa.
Sau đó thì có phòng mạch của Bác sĩ Sohier, chỗ này có mấy thang cấp khá nguy hiểm, bên cạnh là tiệm thuốc Tây Việt Quang, rồi đến tiệm uốn tóc Ba Lê và cuối cùng là tiệm bảo hiểm Rồng Vàng của ông Võ Đình Hoè, người Huế, cựu vô địch bóng bàn Đà Lạt, chơi banh kiểu Mai Văn Hoà. Ông này hình như có hai tên con trai ngang lứa với mình, hồi nhỏ có chơi với nhau sau này thì gặp nhau không chào hỏi.
Kế bên Hồng Ngọc thì có mấy căn nhà nhưng thuộc đường Phan Đình Phùng như phòng mạch của bác sĩ Đào Duy Hách, người bé bé hình như không có con, hay đánh golf với giáo sư Phó Bá Long. Gần cuối đường thì có mấy thang cấp cho người bộ hành đi xuống rạp Đường Phan Đình Phùng, bên cạnh trạm biến điện cho khu vực này, để băng qua đường tới rạp Ngọc Hiệp.
Chỉ nhớ tới đây, Bác nào có nhớ cái gì thì cho biết thêm để bổ túc.
Sơn đen

Hình chụp từ trực thăng, thấy đầu đường Mình Mạng, có cái tháp chuông còi hụ tại khu Hoà bÌnh. Thấy chỗ đường Tăng Bạt Hổ, tiệm Hiệp Tam Kỳ, của gia đình thằng Hùng khi xưa học chung với mình.

Xong om
Nguyễn Hoàng Sơn 

Tiếng rao hàng thời thơ ấu

Có lẻ những kỷ niệm khó quên của thời thơ ấu là tiếng rao hàng buổi sáng hay tối của những người bán hàng rong đi ngang xóm hay đường Hai Bà Trưng. Những người này gánh trên vai, cuộc đời và tương lai của một gia đình trong thời gian mà sự thanh bình còn tồn tại trong không gian của Đà Lạt ngày xưa vì sau biến cố Mậu Thân thì mình không còn nghe những tiếng rao hàng vào ban đêm nữa.
Buổi sáng thì nhớ nhất là bà bán bún bò tên chi không nhớ, chỉ biết trong xóm gọi bà Bún Bò. Bà ta quanh năm suốt tháng, ngoại trừ ba ngày tết là đều đi bán, không nghỉ ngày nào dù mưa bảo. Bà ta chuyên bận chiếc áo dài màu nâu, mang guốc, đội chiếc nón lá bài thơ Huế, nếu trời mưa thì có miếng nylon bọc chiếc nón lại, đi từ đường Hai Bà Trưng rồi gánh lên dốc nhà mình sau đó thì tiếp tục đường Thi Sách, đi lên cư xá Kiến Thiết rồi khu xóm nhà của hai anh chàng thợ may Sơn Tánh rồi tiếp tục đường Hai Bà Trưng về phía khu cư xá Bưu điện và trường Đa Nghĩa. Bà Bún Bò, người Huế hay rao "bò đây...." Mình nhớ dáng bà ta gầy gò, ốm yếu mà không hiểu sao lại gánh nổi lên dốc, không bị đỗ nước ra ngoài vì mình nhớ dạo đi xách nước là bị chao ra ngoài.
Vào những ngày mưa thấy bà gánh lên dốc, bận cái áo tơi, hay ghé lại hiên nhà mình để núp mưa, nghỉ. Cái áo tơi làm bằng rơm, người ta kết lại như người bù nhìn, để trên mấy vườn rau mới gieo hạt để tránh chim ăn, khoát lên người để che phía sau lưng chớ phần trước thì vẫn bị ướt. Mình hay thấy các nhà làm vườn ở Đà Lạt hay bận khi trời mưa. Phía trước nhà mình có cái véranda nên các gánh hàng rong, sau khi gánh lên cái dốc từ đường Hai Bà Trưng là ngừng để thở rồi bán cho mấy bà trong xóm.
Những ngày mưa là bà ta bán rất chạy, có lẻ trời lạnh nên bà con trong xóm kêu mua ăn hay vì thương bà ta đội mưa đi bán. Chẳng ai biết bà ta ở đâu sau này không thấy bà ta đi lại xóm mình từ khi mẹ thằng Khánh Ù nấu bún học bán trong xóm và khu chợ nhỏ ở đường Phan Đình Phùng, chỗ nhà thuốc Tây Lâm Viên.

Nhớ vườn Suối Tía

Đi bộ chuyến này bên Ý Đại Lợi, băng rừng vượt núi, đi qua các triền đồi trồng nho và cây olive bổng nhớ đến thời xưa, khi nhà mình làm vườn trong Suối Tía. Về lại nhà dưỡng sức, ngồi thừ nhìn ra vườn bổng mình nhớ đến thời bé, làm vườn ở trong Suối Tía, ấp Sòng Sơn, chỗ đồn Quân Cụ đi vào trong sâu. Dạo ấy con đông nên bà cụ mình mua mấy mẫu đất trong vùng Suối Tía để làm vườn, kiếm thêm tiền nuôi con, có việc để ông cụ khỏi đi đánh bài vào cuối tuần.

Mua đất xong thì ông cụ sắm cái rựa, cuốc xẻng,… người cứ phừng phực như Alexey Stakavov, muốn làm người anh hùng lao động. Cuối tuần, ông cụ đèo mình trên chiếc xe đạp hình như mượn của ai trong xóm vào vườn. Của bà Thường chú Dũng thì phải vì chú dạy mình đạp xe đạp bằng chiếc xe này. Ông cụ đạp xe tới cầu Bá Hộ Chúc, rồi kêu mình xuống xe, dắt chiếc xe đạp lên dốc đường Bà Triệu, lên đến đường Pasteur thì ông cụ đạp một khoảng rồi mình dắt xe đến khi rẽ qua đường Triệu Việt Vương thì bớt dốc nên ngồi xe đạp lăn trên đường đầy ổ gà vẫn thấy cuộc đời đẹp sao. Lý do đi đường này vì ít dốc, chớ đạp xe đạp theo đường Lê Quý Đôn, rồi rẽ trái qua đường Yersin mới đến Tiểu Khu là ngọng, chỉ có dốc và dốc.

Tới khúc đồn Quân Cụ thì rẽ phải, hình như người ta gọi tên đường là An Sơn hay chi đó, qua đồn xong thì có cái dốc cao vời vợi với cái bảng to đùng "Ấp Sòng Sơn". Nói là ấp nhưng chả thấy ai ở ngoài lác đác vài cái vườn, vài cái am. Sau này về Đà Lạt lại khám phá ra Suối Tía chảy ra một cái hồ mang tên Tuyền Lâm. Hình như sau 75, Việt Cộng cho xây một cái đập chận nước lại, đặt tên hồ Quang Trung sau thấy hơi khát máu nên đổi lại Tuyền Lâm cho có tính lãng mạn. Nhờ cái tên này mà du khách bò đến chớ nghe tên Quang Trung chắc ít ai đến. Khu này khi xưa, Việt Cộng đóng quân chỗ này. Nếu mình không lầm thì có đại gia Đà Lạt thưởng tiền cho lính trinh sát 302, nếu sát hại được Việt Cộng. Lý do là Việt Cộng đốt xe be, máy cày của ông ta trong khu vực này dù có chung tiền cho Việt Cộng. Khi xưa ai làm ăn mà phải vào rừng là phải nộp tiền bạc cho Việt Cộng, thậm chí ở thành phố không cúng cho Việt Cộng thì họ cho đặt chất nổ như cây xăng Ngã Ba Chùa. Nghe con gái của tiệm hủ tiếu Nam vang kể là sau 75, có ông nằm vùng nói với mẹ cô ta rằng, có lần ông ta được lệnh đem chất nổ, bỏ trong gà mên rồi bỏ quên gà men, đi ra thấy một đám con nít đang chơi trước tiệm nên bò vô lại, lấy gà men đem về.

Đồn Quân Cụ, có chú Ba đóng ở đây. Chú biết lái xe Jeep trông rất chiến, ra chợ tán dì G, bạn hàng của bà cụ mình là dính ngay. Chở dì G đi một vòng bờ hồ là đăng ký quản lý đời nhau. Sau khi VC vô thì gia đình chú khá lắm, chú dạy VC tập lái xe rồi chạy xe hàng. Thời ngăn sông cách chợ, mấy tài xế xe hàng là hot boy, ai cũng muốn gã con gái cho.

Nói tới dì G, mình nhớ có lần, nhà mình bổng nhiên như có hội. Hôm ấy, có ai đem người nhà đến xem mắt dì G nhưng ông bố dì chưa chịu nên mượn nhà mình để tên nào đem gia đình đến làm quen. Rượu bia đồ nhắm thay nhau chúc tụng hẹn ngày lành tháng tốt sẽ cho hai cháu nên duyên Tần Tấn. Tuần lễ sau, vợ của tên đem ông chú lên nhà mình ra mắt họ nhà Gái, ra chợ đến hàng Dì G, tự xưng là vợ của tên kia, kêu hắn có 5 con, đi lính bị đổi lên Đà Lạt, rồi kêu thượng sĩ già đến làm chú thay thế ông bố đã qua đời thật ra còn sống nhăn răng ở Bến Tre. Thế là mình hụt ăn đám cưới dạo đó.

Cứ đi theo con đường đất được xe máy cày ủi nhưng không tráng nhựa đường độ thêm 2 cây số thì đến vườn nhà mình. Mùa mưa là cực hình vì bùn lầy lội còn mùa khô thì khi xe vận tải chạy qua là hít bụi mệt thở. Dạo ấy chưa có xe gắn máy Honda, ông cụ mình sau đó có mua một chiếc xe hiệu Gobel hay Ischia thì phải để chạy vào vườn nhưng mình vẫn phải lết bộ. Lý do ông cụ đánh bài khuya mới về nên vào vườn rất trễ trong khi mình thì 8 giờ đã vào vườn. Trên quãng đường này toàn là thông, gió thổi lá thông rì rào nghe đã lắm, lâu lâu thấy mấy ông già hay người Thượng đeo gù đi hái Phong Lan. Mấy tuần trước đi bộ bên Ý Đại Lợi, có lên núi cao thì thấy thông, gió thổi rì rào khiến mình nhớ đến vườn xưa.

Có vài cái am thờ người chết nên cũng rợn tóc gáy nhất là vào mùa mưa. Mỗi lần đi qua đây là mình khấn Phật Bà mệt thở. Thường ngày thì chả nhớ Phật gì cả nhưng khi thấy cái am với ngọn đèn hột vịt le loé từ xa là rợn người vì đường chẳng có ai cả. Mấy tuần trước đi bộ leo núi băng rừng một mình, cảm giác cũng tương tự vì chả có ai đi chung đường. Những hình ảnh cái am với đèn hột vịt được đặt khắp nơi khiến trong tiềm thức con người có gì bất ổn, lo sợ khiến họ cần phải đi chùa, nhà thờ cầu khấn để tâm được bình an.

Đi độ 2 cây số thì con đường rẽ sang trái, có con đường đất do ông bà cụ mình kêu xe máy cày ủi con đường đi xuống thì đến địa phận vườn của gia đình. Ngày đầu tiên, ông cụ mình hăng lắm, mặt ông cụ đỏ hồng, mắt ông cụ sáng quắt với giấc mơ Phù Đổng trở thành một đại gia bắp sú Đàlạt. Cầm cái rựa để phát cỏ dại, cây hoang trong khi mình ôm cỏ, cây hoang đem đi chất thành đống để khô sau này đốt nhưng dần dần thấy ông cụ bớt hồ hởi, ngồi nghỉ hỏi mình đói không.
Ngày nay có con, thấy thằng con y chang ông cụ mình, lười lao động nên không muốn đem nó theo vào vườn. Dạo mình mới mua cái vườn bơ, 20 mẫu. Một mình tự thay thế hệ thống nước đã cũ. Nay nghĩ lại thất kinh. Có lẻ nhờ khi xưa, 2 ngày cuối tuần, đi bộ, vác gạo vào vườn mấy cây số khiến mình không sợ mệt nhọc. Có mệt cũng phải lết về nhà nếu không trời tối mà khu này nghe nói Việt Cộng hay về ban đêm.

Hôm ấy, chị người làm, bới cho hai cha con món cơm vắt, thêm cái sườn heo được rô ti. Sau này quen con gái tiệm BH, mỗi lần cô nàng xuống Nam Cali, làm cơm vắt muối vừng cho mình ăn mệt thở. Ngày nay mình thèm món cơm vắt vì mỗi lần ăn, khửu giác của mình vẫn nhớ về cái mùi cỏ khô, cây khô cháy khi người ta làm rẫy. Đi học nghe tả cảnh nhà quê với khói lam chiều gì đó mà ở thành phố thì mình đâu có hiểu, biết khói lam chiều, lam sáng nhưng khi đi làm vườn thì mường tượng ra hình ảnh đấy nhưng cái mùi cỏ khô cháy, Đà Lạt mưa nhiều nên cỏ khô bị ướt nên có mùi rất đặc biệt, quyện vào ký ức mình đến ngày nay. Không biết ngoài bôn sa có tiệm nào làm cơm vắt hay không để mau về ăn.

Hôm đi bộ bên Ý Đại Lợi, đi ngang một đồng ruộng, thấy người ý, chất cây và cỏ để đốt, nghe nổ bong bong của lửa khiến mình lại nhớ đến những ngày khai phá vườn ở Suối Tía.

Tuần thứ nhì thì bà cụ mình mượn thêm chú Chiếu, người Huế, làm lao công của ty công chánh. Ông cụ mình chắc oải quá, hết mơ thành anh hùng lao động sau 2 ngày chiến đấu, chém cây. Chú Chiếu đào mương, làm đường rồi cuối tuần thì ai mượn, nhờ làm vườn, đào đất thì chú đi làm thêm vì con đông. Nhà chú ở ấp Hà Đông, mình có đến 2 lần, mới hiểu cảnh nghèo ra sao. Nhà chú dạo ấy có 4 đứa con, nhà nghèo, ở nhà con trai con gái nước dãi, nước mũi chảy thò lò nhưng không có quần áo gì cả, bò lăn bò lốc dưới đất. Nền nhà thì đâu có tráng xi măng như nhà mình nên bụi đất đỏ bám đầy vách tranh, bàn ghế… cửa sổ không có kính, chỉ có cái phêng chống lên cho ánh sáng lọt vào và ruồi bay ào ào như tổ ong. Tường nhà thì làm bằng đất đỏ trộn với rơm, mái thì lợp tranh. Nhà độc nhất có một cái bàn và 3 cái ghế đẩu, một bộ ván ngựa để cả gia đình ngủ. Mình không bao giờ quên cái cảnh ấy nên sợ nghèo từ dạo ấy.
Chú Chiếu ăn rất khoẻ mà cuốc đất, phạc cây rừng rất chiến đấu. Ông cụ mình thì tà tà phạc cây kiểu thằng con mình. Hè mình cho nó vào vườn phụ mình, rất công tử, đeo đồ nghề, dây nịt, dao mã tấu,….rất phong độ như tay chuyên nghiệp. Leo dốc một lần là quăn hết đồ nghề, đi tay không cũng oải. Mình làm việc theo kiểu bà cụ nên không bao giờ than, rên nên sau này gặp đồng chí gái, cô nàng y chang bà cụ mình làm việc ào ào khiến mình phải phục lăn phục lết.

Làm được 2, 3 tuần thì ông bà cụ mình nghe ai, mướn người thượng làm rẫy cho nhanh chớ cở Chú Chiếu, ông cụ và mình làm 2 ngày cuối tuần thì đến Tết Congo cũng chưa chắc đã khai phá được mấy mẫu đất. Mình thấy ông cụ mình trả giá với mấy người Thượng nhưng rốt cuộc, trả giá của người ta nêu. Cuối tuần sau mình vào vườn, kỳ này không có chú Chiếu, thấy mấy ông Thượng đã san bằng 1/3 cái vườn và 2 tuần sau đó là xong hoàn toàn. Họ đốt cỏ và cây xong thì lấy tro rãi lên đất để làm phân. Rựa của họ khác với rựa người Kinh. Rựa người Kinh thì tròn cong còn rựa của họ thì dài thẳng.

Không biết từ đâu hay ai giới thiệu, bà cụ mình mượn được hai cặp vợ chồng để làm vườn, anh em tên Chú Hai và Chú Nhị, dân Quảng Ngãi, giặc giã chạy vào Đà Lạt, rồi xây một căn nhà bằng gỗ thông mà sau này mình về Đà Lạt vẫn còn thấy họ làm kiểu này. Nhà có hai gian, 1 để nấu ăn, đựng củ giống, một kê hai cái giường ngủ. Có mấy cột nhà, lợp mái tôn, còn tường thì đóng mấy tấm gỗ còn vỏ thông. Sau này, mình gặp lại Thím Nhị, mang bầu khi chú đi lính Địa Phương Quân tử trận ở Núi Voi khiến mình khóc như mưa trong khi bà cụ cho tiền Thím lo bụng mang dạ chửa. Đó là lần chót mình gặp Thím. Hình như sau 75, mẹ mình có gặp lại thím ở Đà Lạt.
Năm đầu tiên thì trồng khoai tây, bà cụ mua mấy cần xé đầy áp củ khoai tây về, trái to thì cắt nhỏ rồi ủ, lâu quá nên không nhớ là bao lâu, củ khoai mọc mầm ra. Phải mài dao cho thật bén vì sợ cắt không ngọt thì củ khoai sẽ bị hư. Trong khi chờ đợi khoai nẩy mầm, hai cặp vợ chồng làm vườn đánh vồng để chuẩn bị trồng khoai. Bắt đầu thấy trang bị mấy bình thuốc trừ sâu, phân bón, có cái nhà đựng cái máy bơm nước Kubota gần bờ suối, có cái ống nước to bỏ dưới suối để bơm nước tưới vì vườn làm trên đồi nên khá dốc. Lúc đầu thấy hai chú gánh nước từ dưới suối lên tưới. Nội tưới 1 mẫu đất là hết ngày. Hai cái thùng tưới mua từ ông Ba thợ Thiếc, anh của ông Thạc làm nha Địa Dư. Sau thì bà cụ mua cái máy tưới Kubota, bỏ dưới một căn nhà nhỏ xiềng xích cái máy lại sợ thiên hạ chôm.

Từ dạo đó, mình có nhiệm vụ vào vườn cuối tuần. Sáng sớm, mình ra chợ dọn hàng cho bà cụ xong thì bà cụ mua gạo và nước mắm, đồ ăn, bảo mình đem vào vườn, tiếp tế gạo và thức ăn cho hai cặp vợ chồng bồi dưỡng một tuần. Sợ mua nhiều thì người làm vườn thuổng mất, mình cứ nghe bà cụ rên sao ăn chi ăn hung rứa. Khi đến mùa hái bắp sú hay khoai tây thì đỡ phải vác đồ ăn, chỉ vác 10 ký gạo mỗi tuần. Vác gùi đựng gạo, nước mắm vào, mình cũng phải phụ mấy người làm vườn tưới xú, mình được dặn phải ở tới chiều vì sợ người làm không có ai thì đâm bệnh lười. Trưa mình ở lại, ăn cơm với hai cặp vợ chồng như thằng ăng ten ghi nhận tất cả để về báo cáo bà cụ. Chỉ có bắp xú luộc chấm với nước mắm, chang nước xú luộc sao mà ngon, không sợ bị cồ lét tê rôn, dạo ấy mình như con mắm, đen đui đen đủi. Trong căn nhà, mùi thuốc sâu, mùi khoai tây ủ, ruồi xanh bay vòng vòng đậu trên mấy bao phân rồi ghé thăm bữa cơm, kêu o o như sáo. Tay bưng chén cơm tay kia quạt ruồi, miệng thì húp nước xú. Ngon chi lạ. Tới mùa xú thì mình có bổn phận vác 2 trái bắp sú đem về nhà luộc ăn, chấm nước mắm với hột vịt luộc.

Xem lại mấy năm nhà mình làm vườn thì coi như cuối tuần mình không có dịp chạy chơi với con nít trong xóm vì chiều đi bộ về tới nhà là oải rồi, chỉ muốn ăn rồi đi ngủ. 10 cây số thêm vác gạo, xăng cho máy bơm nước làm vườn còn ông cụ thì đi đánh bài nhờ tư duy đột phá làm tiền nhanh trên sòng bài hơn là lao động trồng khoai tây, khoai ta. Có lẻ vì vậy mà mình quen ngủ sớm và dậy sớm từ dạo ấy.
Năm ngoái gặp NTV, tên này nói học Yersin trên mình một lớp, sau này qua Văn Học, nhà ở Dốc Nhà Bò khiến mình nghi nghi, nhớ lại một đám trong Dốc Nhà Bò, hay chặn đường ăn hiếp mình khi vào vườn. Mình hỏi hắn khi xưa có hay chận đầu thiên hạ thì hắn gập đầu. Mình muốn bợp tai hắn để trả thù nhưng nhận ra mình không phải là quân tử nên 50 năm sau trả thù thì đã quá muộn. Muốn vào vườn mình thì có ngõ đi tắt, đi xuống đường Đào Duy Từ rồi đi lên cái dốc đến đường Nguyễn Thiền Thuật, rồi gặp đường Triệu Việt Vương. Mình chả biết ông Triệu Việt Vương là ông nào nhưng chỉ nhớ con đường này đưa mình vào Ấp Sòng Sơn, sau này mới khám phá ra là ông Triệu Quang Phục, không biết có họ hàng gì với Triệu Đà. Vào trong khu Dốc Nhà Bò thì có một đám du côn, hay bắt nạt người lạ nên mình đi vào khu này là cúi mặt, e thẹn như gái 13. Sau này, để tránh bị bợt tai bởi đám Dốc Nhà Bò, mình phải đi vòng lên đường Pasteur rồi rẽ qua Triệu Việt Vương, xa hơn 2 cây số.

Bà cụ mình làm vườn được vài năm đều lỗ chỏng cẳng vì ông cụ. Ông cụ có cái bệnh tứ đổ tường nên thua bài là kêu bà cụ đưa tiền mua phân, mua thuốc sâu,… dù tuần trước đã hỏi tiền bà cụ. May thay Việt Cộng tấn công năm Mậu Thân, “giải phóng” mình khỏi đời làm vườn. Sau Tết Mậu Thân, thiên hạ sợ đi xa trung tâm thị xã, sợ mấy ông kẹ ra bắt đi lính giải phóng miền Nam. Đường Đà Lạt-Sàigòn lâu lâu bị tăng-bo, Việt Cộng chận đường thêm hai anh em làm vườn cho gia đình mình bị động viên nên bà cụ thấy lỗ nên ngưng trò cung cấp tiền cho ông cụ đi đánh bài. Hồi làm vườn cho gia đình mình, hai anh em này đều có vợ mà giấy tờ cứ kêu là 16 tuổi. Chán Mớ Đời

Trên Số 4, ban đêm Việt Cộng nằm vùng mò ra bắt trưởng khu phố, công chức, xử tử,… tối tối mình và ông cụ ra phố ngủ ở tiệm Hiệp Thạnh, số 11 đường Duy Tân đến khi hơi yên yên. Từ đó, mình chưa bao giờ trở lại vườn. Mình có dặn nhà là đừng bán vườn vì trong tương lai rất có giá nhưng rồi ông cụ đem bán không cho bà cụ biết. Mình thì ngược đời ông cụ, mình mua nhà, mua đất không cho đồng chí vợ biết. Chỉ mua xong mới báo, hỏi muốn đi xem để lỡ mình có chuyện gì còn mò ra. Mình có tính ít khi mơ nhưng mỗi lần mơ là thấy mua căn nhà này nhà nọ. Khi tĩnh giấc thì cứ cố nhớ căn nhà ở đâu. Để đóng thuế điền địa. Khổ cái là tìm không ra.

Ngồi nhớ lại thì nhớ đủ thứ, nhớ nhất cái lạnh lạnh của những ngày mùa đông, gió thổi ào ào, phải đi bộ qua mấy cái am thờ người chết. Hình như mấy người bị Việt Cộng bắn chết. Gió lâu lâu ập đến tung thổi bụi hồng xoắn vào người mình, quần áo coi như phải giặt lại. Nếu mình không lầm thì ngã ba xuống vườn nhà mình, có một cái am to đùng. Gió rít lên khiến cây thông reo hét như ma gọi hồn đòi nợ, khiến mình càng đi nhanh như chạy càng tụng kinh cứu khổ cứu nạn. Nhớ đến mùa mưa, đường bùn xình, trơn trợt, bị ngã mấy lần, được cái mưa thì không phải tưới khoai Tây.
Lớn lên nghe ca sĩ Thái Thanh hát "Ngày Xưa Hoàng Thị", mình rất ngạc nhiên là ông Phạm Thiên Thư cứ tiếc ngẫn ngơ kêu "ai đem bụi đỏ đi rồi…" mình mà có kết cô nào mà nhà ở đường kiểu vào ấp Sòng Sơn thì thà rằng không có bồ còn hơn hít bụi đỏ hay té xình khi mùa mưa đến.

Con đường này ít người đi lại, chỉ thấy mấy chiếc xe be vào rừng đốn cây, vườn tược thì có vài người làm lại không quen biết. Mảnh vườn được chia làm hai bởi cái suối, chắc là suối Tía nên khi qua bên kia vườn là phải cởi dép, lội qua. Nước suối rất lạnh, vào mùa hè thì quá đả nhưng mùa đông thì buốt xương. Trước khi về, mình nhảy xuống suối tắm, giặt quần áo, ngồi đợi khô, bận lại rồi đi về. Mình nhớ cái thú ị vất trong rừng. Ở nhà thì không buồn cầu nhưng sau khi đi 6 cây số vào tới vườn thì phải lấy cái cuốc làm một lỗ rồi thả bom, sau đó lấp đất lại vì sợ ma lai, ban đêm rút đầu ra đi ăn kít của mình biến mình thành ma lai. Chán Mớ Đời

Có lẻ nhờ bà cụ làm vườn nên mình học được nhiều bài học từ nhỏ; thợ không có chủ bên cạnh là ngồi chơi sơi nước và phải kiểm soát những chi tiêu, hè phải vô vườn mỗi ngày nhất là khi mùa sú và khoai tây sắp được hái vì sợ thợ ăn cắp lấy bán riêng. Sau này xây nhà cho thiên hạ mình không mướn thợ, chỉ khoán cho tụi thợ, làm sớm thì ăn nhiều làm trễ thì mình kêu thằng khác làm rồi trừ tiền theo giao kèo. Xong om.

Mình nhớ mùi nhựa thông vi vu reo vang, gió thổi. Nhớ tiếng chim hót reo vang trời, nhớ dấu chân heo rừng đêm chạy ra, bừa mấy vồng ăn khoai tây, nhớ tiếng máy bơm nước Kubota với mùi dầu xăng, nhớ những quãng đường phải đi qua, mang theo gạo, tay xách bình xăng, nhớ những lần lội bùn dép bị đứt quai sau đó rút kinh nghiệm, đi chân không, dép bỏ trong gùi, ra tới đường, không có nước xối chân,…. 
Sơn đen một thời làm vườn ở Suối Tía, ấp Sòng Sơn Đà Lạt 
Nhớ sao là nhớ, những hình ảnh vẫn in đậm trong ký ức của mình. Ước gì được bay về lại khung trời ấy dù một phút. Khi về Đà Lạt, có anh bạn chở đi viếng lại vườn thì họ xây đủ thứ nhà cửa, không nhận đâu ra đâu. Nghe nói dân miền bắc, sau 75, vào Đà Lạt đông còn hơn quân nguyên. Nghe nói nay lên hơn 60% dân số Lâm đồng. 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 
Nhs



Chợ Đà Lạt

Mình có một tên bạn học cũ ở Đà Lạt, rời xa Đà Lạt từ năm 1975, chưa một lần về lại cố hương nhưng có lẻ ký ức của hắn cứ lêu bêu, dừng lại ở cái chợ Đà Lạt. Cứ thấy tài liệu viết về Đà Lạt, nhất là cái chợ, hình xưa bóng cũ của Đà Lạt là hắn gửi cho xem. Hắn ray rức nổi nhớ đến nổi tự học, vẽ lại cái chợ Đà Lạt ngày xưa trong không gian 3 chiều rồi lồng vào những hình ảnh các học sinh cũ của Đà Lạt như thể thổn thức, gợi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của một thời thơ trẻ. Ký ức lưu vong của hắn dừng lại ở cái chợ Đà Lạt khi xưa nhưng vẫn được cập nhật hoá với hiện tại.
Mình chỉ ngạc nhiên là tên bạn này, gia đình thuộc hạng cao cấp khi xưa ở Đà Lạt, suốt ngày chỉ ăn và học, nhà ở Chi Lăng mà lại thương nhớ cái chợ Đà Lạt này khiến mình cũng buồn lây lất khi nhận mấy tài liệu của hắn. Nghĩ lại thì Chợ Đà Lạt, là trái tim của thị xã Đà Lạt khi xưa, là sức sống của thành phố tương tự khu chợ Les Halles của thủ đô Paris, trước khi được dời về Rungis, ngoại ô của Paris. Mình vẫn chơi vơi khi thấy bóng hình cũ của Đà Lạt như tìm lại bức thư tình cũ hay đôi mắt của cố nhân để rồi xót xa khi hình ảnh cũ được tô lên lớp son, lớp phấn cực quê mùa để che giấu cái già nua được thời gian tàn phá.
Bà cụ mình buôn bán từ khi rời quê vào Đà Lạt nên mình sinh ra và lớn lên với cái chợ Đà Lạt, thậm chí từ cái chợ cũ trên khu Hoà Bình trước khi chợ mới được xây vào năm 1958 do kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức thiết kế tại vùng dưới đồi của khu phố Hoà Bình mà người ta hay gọi khu vườn xà lách xoong.
Chợ Đà Lạt lúc đang xây do nhà thầu khoán Nguyễn lInh CHiểu trứng gthaauf
Góc gian hàng của bà Phòng bán trái cây cạnh gian hàng dì Bơn, bạn mẹ mình
Chợ Đà Lạt được thành lập nghe nói đâu vào năm 1929 tại khu Hoà Bình. Bà cụ mình kể họ kêu là Chợ Cây hay Chợ Gỗ vì được xây bằng gỗ sau đó bị cháy nên người ta mới xây lại bằng gạch. Sau này khi chợ Mới được xây xong thì họ phá chợ cũ để xây khu hội trường Hoà Bình, rạp xi nê ở trong được bao bọc bởi một dãy tiệm buôn bán phía ngoài. Hồi còn bé, chị giúp việc hay đưa mình ra chợ cũ, khu Hoà Bình thăm bà cụ, nhất là lấy đồ ăn đem về nhà ở Ấp Ánh Sáng nấu cơm. Sau khi chợ mới Đà Lạt được xây xong thì bà cụ bốc thăm được buôn hàng xén nên dọn xuống khu cạnh cái bễ nước ở dưới chợ. Dưới chợ có hai cái bể nước: một ở đầu phía tay trái từ cầu Ông Đạo đi vào và một ở phía sau chỗ chợ cá.
Hàng xén của mẹ mình nằm ngay cầu thang, phía ngoài có bồn nước 
Sau này khôi nguyên Grand Prix de Rome, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ tốt nghiệp ở Pháp về, có vẽ lại mặt tiền nhất là chiếc cầu, đúc bằng bê tông, nối kết từ khu Hoà Bình qua chợ mới và cầu thang đi từ đường Lê Đại Hành xuống. Chiếc cầu này có lẻ bị ảnh hưởng của ông Le Corbusier, vì sau này mình thấy nhiều kiến trúc sư khác như Mario Botta, cũng thiết kế nhiều chiếc cầu tương tự. Năm ngoái đi viếng La Mã lại mình có chỉ cầu thang của công trường Piazza D'Espagna cho đồng chí gái xem, nói là sau 3 năm nghiên cứu ở La Mã, nội trú ở Villa Di Medici do chính phủ Pháp tài trợ sau khi đoạt giải nhất của Grand Prix de Rome, kiến trúc sư Thụ đã vẽ lại những thang cấp phỏng theo quảng trường này nhưng cô nàng cứ nhìn những cửa hàng thời trang. Chán mớ đời!
Từ cầu thang xuống thì có cái bùng binh tròn mà khi xưa mình hay ra đây chơi, đợi bà cụ tan chợ vì có cỏ xanh, có một cây tùng ở trọng tâm. Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, người Pháp dùng bê tông trắng khá nhiều với ảnh hưởng của ông kiến trúc sư Le Corbusier nên kiến trúc sư Thụ thiết kế lại mặt tiền, tương tự Dinh Độc Lập ở Sàigòn được sửa lại với kỹ thuật bê tông trắng mới.
Mình nghe kể là Dượng Thụ ( vợ là bà con với bà cụ mình) thiết kế hai dãy nhà xung quanh cái chợ và những kiosk từ bùng binh chỗ cầu Ông Đạo vào. Mình chỉ nhớ là ống thoát nước mưa từ chợ và khu Hoà Bình chảy ra suối Ấp Ánh Sáng, chảy về Thác Cam Ly nên khá hôi nhưng không biết ngày nay có thay đổi gì không vì dân cư đông hơn thêm rác rưỡi khá nhiều.
Kỷ niệm của mình chợ Đà Lạt thì có khá nhiều vì từ bé mình hay ra chợ phụ giúp bà cụ mỗi khi có hàng về hay dọn hàng khi bà cụ có mang mấy người em. Mình thích nhất là chợ Tết nhất là Chợ Đêm trước Mậu Thân vì sau đó thì ban đêm bị thiết quân luật, giới nghiêm nên không có chợ đêm.
Chợ Đà Lạt là nơi hội tụ đủ các tầng lớp người Đà Lạt nên có nhiều chuyện quái quái mà xa Đà Lạt từ lâu, mình vẫn nhớ hoài, đến những nhân vật như người khuân vác, bà bán cá đánh ghen, bà Lại vì ai nói cái gì thì bà ta làm theo như vậy,…
Dạo ấy chỉ có một cái chợ to rồi có con đường nối hai bên phía sau lưng chợ, cắt ngang chợ với một khu chợ cá, chợ bán rau che mưa nắng bởi mấy cái nhà dù bằng tôn, màu của rét rỉ rồi đến bãi trồng rau, cạnh đó có nhà vệ sinh công cộng. Có một cô bạn học cũ, ở cái nhà to đùng cạnh đó.
Mình thích nhất cuối tuần, ra phụ bà cụ dọn hàng rồi được thưởng cho một đĩa bánh căn, ngay khu hàng thịt. Mình kéo cái đòn, ngồi đợi bà bán bánh căn đỗ. Có lần đang ngồi ăn, thấy một cô bạn học chung lớp, chắc cũng ra chợ phụ gia đình, ngượng suýt tí nữa là sặt ra mắm cá.
Mình thích nhất là ông Sơn Đông Mãi võ, hay đậu chiếc xe Lam trên con đường ngăn Chợ Cá và Chợ Rau. Ông ta biểu diễn nội công, tự xưng là em của võ sư Hà Châu, nổi tiếng, nằm cho xe Hủ Lô chạy qua không dẹp mà mình đọc trong báo Thao trường. Ông ta cầm cái micro, nói oang oang qua cái loa gắn trên mui của chiếc xe Lam còn bà vợ ông ta thì cầm mấy chai thuốc bổ tam tinh đi vòng vòng để bán. Sau này mình hay thấy loại thuốc này được bày bán ở tiệm thuốc bắc của một tên bạn học cũ.
Ra nước ngoài, xem cuốn phim "La Strada" do Federico Fellini đạo diễn với tài tử Anthony Queen khiến mình ngậm ngùi nhớ và thương vợ chồng ông bán cao đơn hoàn tán ở chợ Đà Lạt khi xưa. Cũng chiếc xe Lam 3 bánh, họ đi khắp nơi biểu diễn nội công, bán thuốc ba láp kiếm ăn.
Ông kêu như hét trong cái micro, ai đau trong thận, nhức trong xương, uống 3 ngày là bảo đảm hết đau. Đau thận dễ biết lắm, bằng đêm đi tiểu 6 , 7 lượt. Đàn ông yếu dương, xuất tinh sớm, phụ nữ đau lưng khi có kinh nguyệt nên uống thuốc này. Uống 3 ngày bảo đảm là hết. Không hết đem thuốc lại tụi hoàn tiền. Tui là môn sinh của môn phái Long Hổ, không bao giờ làm xấu mặt môn phái rồi cởi áo cho người ta xem hình con rồng bên tay phải và con cọp bên tay trái, lấy cái khăn quấn cái cùi chỏ rồi quỳ xuống đánh cái cùi chỏ vào trái dừa, được kê trên 3 cục gạch. Bụp! Trái dừa bị bể. Mình nghe khán giả đàn ông ai nấy đều kêu á đù rất dài rồi sau một phút im lặng, đám khán giả như cái tổ ong vỡ, ùa chạy lại bà vợ ông võ sư chi đó, kêu mua 2 chai, 4 chai…. Hà rầm trong khi ông võ sư thâu tiền, miệng gào thét uống không hết đem thuốc lại tui trả tiền lại.
Mấy tuần sau trong trường, Petit Lycée có cho học sinh xem xiếc, cứ hai lớp thay phiên nhau ra xem chỗ gần văn phòng y tá, cạnh cái cột cờ. Mình lại thấy ông bán thuốc này, làm xiếc với con khỉ bận áo đỏ, đạp xe đạp, đánh trống. Dạo ấy mình phục ông ta lắm, ước gì có một con khỉ như ông ta kiếm tiền. Về nhà mình cũng lấy khăn quấn cái cùi chỏ rồi dùng cùi chỏ đánh bể trái dừa. Đau thất kinh, tê dại và từ bỏ mộng làm Sơn Đen Mãi võ, làm xiếc từ đó.
Có bà T bán cá đánh lộn hay lắm. Đang xem Sơn Đông Mãi Võ mà nghe ồn ào trong Chợ Cá là thiên hạ chạy vào coi. Bà T bán cá này nghe nói có võ Bình Định Tây Sơn chi đó mà sau này lớn lên học ca dao " ai về Bình Định mà coi, con gái BÌnh Định múa roi đi quyền". Mỗi lần bà ta cãi nhau không lại mấy bà trong chợ, là bà tay tuột quần đối thủ, trong khi đối phương đang lo kéo quần lên thì bà ta rị tóc của đối thủ lại rồi vã vào mồm như điên như dại. Đàn ông cứ chăm chú nhìn nạn nhân kêu u chầu u chầu, không ai nghĩ can hay cứu giúp nạn nhân.
 Bên tay phải là gian hàng làm đồ thiết của hai anh em ông gì quên tên ở khu cư xá Nhà Địa Dư, chuyên làm mấy cái thùng để tưới vườn. Mình có học họ cách hàng thiết. Bên tay trái là tiệm Bình Lợi của cô Ba Chỉ làm kinh giầu cho Việt Cộng.
Có ông Tư Cà Thọt, chống nạng đi ăn xin ở chợ. Khi thì thấy ông ta ngồi ăn xin ở trên cầu chợ vào cuối tuần, khi thì thấy ông ta ở bến xe Chi Lăng. Tối về ông ta ngủ trên cầu thang nơi hàng bà cụ mình. Ông ta trải mấy thùng cạt tông đồ mỹ dưới đất rồi nằm trên đó, quấn mền để ngủ. Sáng ra thì ông ta dọn dẹp ngay nắp nếu không cảnh sát tống cổ ra khỏi chợ, nằm dưới hiên nhà thiên hạ thì lạnh hơn.
Có bà Lại, không biết bà ta tên chi nhưng thiên hạ kêu bà Lại vì bà này có cái bệnh lại. Mình nhớ có lần thấy bà ta đang bưng cái thúng gạo hay nếp chi đó thì có một đám con nít kêu Lại Lại bỏ xuống, bỏ xuống thì bà ta thả cái thúng xuống đất rồi bọn nhỏ bỏ chạy cười hét trong khi bà ta như định thần lại hốt gạo vào cái thúng. Lâu lâu thấy bà ta động cơn như lên đồng ngoài chợ cầm cái chuông nhỏ với đồ gõ bằng sắt. Bà ta gõ keng cà leng keng rồi nhảy múa như mấy bà lên đồng ở Am Mệ Cai Thỏ, hát: "Đàn bà buôn vụ bán mông" rồi nhảy lên trời kêu cái hứ rồi khỏ cái chuông nhỏ keng cà leng keng rồi nghêu ngao "Buôn khi mô tóp vụ rậm lông thì về". Mình hay tò mò đứng xem mỗi lần thấy bà ta lên đồng giữa chợ. Con nít bu lại xem đông như kiến rồi có đứa kêu tuột quần xuống, tuột quần xuống thì bà đang nhảy múa bổng đứng lại rồi tuột quần, may có bà nào chửi mồ tổ bây rồi chạy lại chụp quần bà Lại kéo lên.
Có hôm trời Đà Lạt bị ảnh hưởng bão nên mưa dai dẵng, tối bà Lại còn ngại chưa về, đi lên cầu thang, gặp ông Tư Cà Thọt, nghêu nghao "đàn bà buôn vụ bán mông ra răng rồi cười hề hề, buôn khi mô tóp vụ rậm rông thì về rồi cười he he he. Bà Lại chửi mả cha mi thì ông Tư Cà Thọt kêu cởi quần ra cởi quần ra thì bà Lại cởi quần rồi nhảy lên mấy cái cạt tông của ông ta.
Sau cái đêm lịch sử đó, mình thấy bà Lại với ông Tư Cà Thọt đi ăn xin ở bến xe Chi Lăng, mỗi lần mình đi học Grand Lycée, cuối tuần thì ngồi ở cầu thang chợ trên và cũng từ đó mấy đứa con nít không còn chọc bà Lại kêu bỏ xuống bỏ xuống vì có ông Tư Cà Thọt bảo vệ, đưa cái ba toong ra rượt mấy đứa nhỏ.
Hôm nào rảnh nhớ cái gì kể tiếp.
Sơn Đen

Chụp bên sẽ đò Chi Lăng, bên tay trái là nhà hàng và vũ trường La Tulipe Rouge