Tại sao người Pháp thành lập Đàlạt #1

 Khi xưa, học lịch sử về thời thực dân đô-hộ, thầy cô nói người pháp chiếm Đông Dương, sử dụng chính sách “chia để trị” chia Việt Nam thành 3 kỳ: Tonkin (Bắc kỳ), Annam (trung kỳ) và Cochinchine (nam kỳ) , Lào và Cam-bốt. Từ đó người Việt mình sau khi Tây về nước vẫn ghét nhau, chửi nhau thằng Bắc kỳ, con Nam kỳ hay thằng Mắm Ruốc,... mình không chắc lắm về thuyết này. Mình nghĩ nó sâu xa hơn, bắt nguồn từ văn hoá nho giáo. Cứ đổ tội cho tây thực dân là khoẻ, tương tự sau này đổ tội cho Mỹ xâm lược. Vấn đề này cần có một cuộc nghiên cứu đúng đắn hơn là các sáo ngữ tuyên truyền chính trị.

Từ ngày mình tìm hiểu thêm về lịch sử của Đàlạt, nơi mình sinh ra và lớn lên thì ngạc nhiên khi thấy những công trình dinh thự được xây cất đầu tiên là những khách sạn như khởi đầu khách sạn Hôtel du Lac, cộng thêm mấy biệt thự lân cận rồi khách sạn LangBiang, sau này được cải tên là Grand Palace. 

Thậm chí trong các bản phác hoạ thành phố Đàlạt thời sơ khai của kiến trúc sư Hébrard, đã thấy nhiều khách sạn to lớn, kiểu mấy trăm phòng mà công chức người Pháp tại Việt Nam thời đó trên dưới 3,000 người.

Thời gian ông tổng thống Paul Doumer, làm toàn quyền Đông Dương, đưa ra quyết định thành lập thành phố Đàlạt, một trung tâm điều dưỡng cho thực dân Pháp khiến mình tò mò vì phải phá rừng, xây đường, nhất là xây đường rày từ Nha Trang, Tháp Chàm - Đàlạt. Các cuộc xây dựng này đã giết hàng ngàn người việt, vừa kinh vừa thượng, mình xem các người thượng là người Việt. Trong khi đó, học lịch sử Việt Nam khi xưa, chỉ nghe nói người Pháp đến Việt Nam để chiếm các tài nguyên như mỏ than, trồng cao su,...mà Đàlạt thì chả có gì cả.

Nếu Đàlạt không có tài nguyên, tại sao người Pháp bỏ công và tiền của để xây dựng một tuyến đường xe-hoả răng cưa, từ Tháp Chàm lên, nối quốc lộ 1. Cho thấy khi học lịch sử, được viết bởi chính trị thì khiến chúng ta hiểu sai về quá khứ. Mình cứ đinh ninh là Pháp thực dân là gian ác, hút máu dân việt như các bài sử học khi xưa. Đến khi sang Pháp rồi sau này đọc thêm về chính quyền thực dân pháp tại các thuộc địa thì được biết Pháp tốn tiền cho Đông Dương so với những gì họ đem về. Chỉ có các công ty riêng tư của Pháp kiều mới làm giàu, ngược lại chính phủ pháp thì tốn tiền cho thuộc địa. Tại sao chiếm thuộc địa, đó là câu hỏi sẽ kể khi nào có dịp.






Đây tấm ảnh của Pháp về công trình xây dựng tuyến đường xe-hỏa từ Sông-Pha lên đèo Ngoạn-Mục. Đã giết chết không biết bao nhiêu người việt mà người Pháp gọi là cu-li (coolies Mọi). Trong hình mình thấy có người bận quần áo Chàm, áo dài đen, người đội nón lá,...

Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm và người em rể Nguyễn Văn Phúng, bà con với mệ ngoại mình. Lúc mới vào Đàlạt, làm nghề thợ may. Họ may quần áo, rồi gánh xuống các công trường xây dựng tuyến đường rày xe lữa, để bán cho nhân công tại đây. Phải gánh đi 3 ngày 3 đêm mới đến nơi. Đúng là với sức người, sỏi đá cũng thành cơm. Dạo ấy nghe nói có nhiều cọp (ông 30) mà ngày nay về, chạy trên đường vẫn thấy nhiều chỗ thờ ông Cọp.

Thời gia đình mình mới dọn về cư xá công Chánh ở đường Hai Bà Trưng, nghe người lớn kể là có cọp về lởn vởn gần nhà thương, ở trên đường Calmette. Mình chỉ thấy một lần con hoảng chạy ở đâu xuống xóm mình, rồi nhà bà Quán, vây bắt được làm thịt. Có cho nhà mình một lát thịt hoảng. Đó là lần đầu tiên mình ăn được thịt thú hoang. Một lần khác, chú Hà Thúc Mãn, hàng xóm nấu thịt cọp ai cho, kêu mình qua ăn. Thịt dai kinh hoàng. 

Nói chung dạo ấy, phía sau nhà mình, đối diện đường Thì Sách, toàn là cây Quỳ mọc dại, không có nhà cửa như ngày nay. Đi từ nhà mình lên nhà thương Phương Lan, bên tay phải toàn là cây quỳ, nay họ gọi là Dã Quỳ, thơ mộng hoá về loại hoa dại này, cũng có thể không còn bao nhiêu. Đi trong thành phố, kiếm được một cái cây hay bụi hoa dại còn khó hơn là tìm chim. Cây cối trong xóm mình tuyệt nhiên không còn nên không nghe tiếng chim hót như xưa.

Lò mò kiếm tài liệu Tây đọc thì khám phá ra một điều khá quan trọng: trong quá trình chiếm và bình định Đông Dương, người Pháp chết rất nhiều. Không phải vì đánh nhau với kháng chiến quân người Việt mà vì bệnh sốt-rét, khí hậu ác-nghiệt của Nam Kỳ. Một binh sĩ pháp viết trong nhật ký của ông ta; nghĩa trang quân đội viễn chinh ở Sàigòn, cạnh bệnh viện quân đội pháp có nhiều ngôi mộ hơn thị dân của một thành phố nhỏ ở Pháp. Kinh

 

Người Pháp đã chiếm, làm chủ, bình định hoàn toàn Nam Kỳ từ 1858-1862, các trại lính pháp ở Sàigòn, không quá 2,000 người. Cho thấy người Pháp không cần nhiều binh sĩ để đô hộ mấy chục triệu người Việt. Nghe kể ông tây với 3 người lính viễn chinh khác, với mấy khẩu súng Mousqueton, đánh chiếm mấy thành ở Việt Nam. Quan và dân quân, quỳ xuống, đầu hàng. Nhớ khi xưa, học sử, thầy nói về ông Cao Thắng, chế súng. Khổ cái là ông này không làm cái nòng xoắn để đạn bay đi xa nên cũng chả giết thằng tây nào cả. Đạn bắn ra vài thước rớt cái bịch. Chán Mớ Đời 


Người pháp chết tại Việt Nam thì được chôn tại đây, không có màn chở máy bay về mẫu quốc như binh sĩ Mỹ trong các quan tài, điển hình bà vợ của toàn quyền Decoux, được chôn ở Thánh-địa-Đức-Bà (domaine de marie) Đàlạt. Không biết nghĩa trang quân đội pháp ở Sàigòn còn hay không, chắc họ đã dẹp sạch để mở sân cù.

 

Vào năm 1876, bác sĩ Auguste-Pascal-Marie Danguy des Deserts, cho rằng phong-thổ miền nam Việt Nam rất độc và lo ngại người âu châu khó thích nghi với thời-tiết tại đây. Một y-sĩ pháp khác tên A. Léon tham gia chiếm đóng nam kỳ, kể rằng khí hậu ở đây “meurtrière “ (giết người) còn phong thổ thì quá mất vệ sinh so với tiêu chuẩn tây phương.


Mình về Việt Nam lần đầu tiên, bị tào tháo rượt mệt nghỉ. Về lại Hoa Kỳ, xuống đâu 10 lý lô, đồng chí gái đón ở phi trường không nhận ra luôn. Sau này, từ từ quen rồi. Kỳ về vừa rồi, không bị gì hết.


Mình nhớ khi đến xứ Ma-rốc thì chới với vì khí hậu nóng bức khó chịu vào mùa hè. Ở Rabat, Casablanca thì gần biển nên bình thường, Ở Fez, mình đi chơi có một ngày đã oải, mệt, khó chịu nên lên xe chạy về phía Bắc cho bớt nóng. Khi đi phi châu mới khám phá ra lý do thức ăn cua họ cay vì để chống bệnh sốt rét. Năm ngoái leo núi kilimanjaro, bác sĩ thậm chí điên phi tường, họ khám đầu tiên là chích ngừa về mấy bệnh sốt rét, đậu mùa trước Covid.


Nhớ xưa học lịch sử, nghe kể quân Mông Cổ chiếm Việt Nam nhưng vì không hợp phong thổ nên chết khá nhiều, đại bại dưới tay nhà Trần tại Việt Nam. Nếu không vì phong thổ thì có lẻ chúng ta đã là người Mãn Thanh.


 Mình có mấy tấm ảnh lính khố xanh khố đỏ Việt Nam bị động viên qua Âu châu đánh giặc cho Tây ở thế chiến thứ 1, lạnh thấu xương, không hợp phong thổ, cũng chịu không nổi, chết như rạ. Gần đây, chính phủ pháp đã lên tiếng xin lỗi, đã đối xử không tử tế với người Việt, khi được tuyển mộ sang Âu châu, đánh giặc hay lao động trong các hãng xưởng chế tạo vũ khí để cung ứng cho mặt trận. Mình co sanh bạn, ông ngoại anh ta sống sót khi đi đánh giặc been Âu châu, về Việt Nam được tuyển lên Đà Lạt làm cu-li. 1 trong 100 người Việt đến định cư tại Đà Lạt đầu tiên, được giấy khen đủ trò.

 

Bác sĩ François-Eugène Bernard, tham gia chiến dịch này, cho rằng binh sĩ đến từ miền Bắc nước Pháp, tham gia cuộc bình định ở Nam-kỳ, khó mà sống sót với khí-hậu nhiệt-đới địa phương, phải hồi hương sớm.

 

Người âu châu bị bệnh sốt-rét và thiếu máu trầm trọng. Họ không thể chữa bệnh, hồi sức tại Đông Dương nên phải hồi hương, bằng tàu thuỷ. Khi quân đội Mỹ đến Việt Nam thì có quạt máy và máy điều hoà không khí nên tương đới đỡ hơn thời Tây.


Dạo ấy, còn bé mình nhớ đến các bình xịt thuốc trừ muỗi của mỹ, dùng mỗi buổi chiều, nồng mùi cay cay. Cứ lắc lắc rồi đi vô mấy cái mùng rồi xịt nhất là mấy góc nhà, dưới bàn ăn. Ngoài chợ bán đầy. Nay mới biết là độc hại nhưng dạo ấy, thấy sao mình văn-minh hết lớn. Xịt xong, phải đợi nữa tiếng cho muỗi chết mới vô phòng hay nhà. Một trong điều kiện để người Pháp xây dựng Đà Lạt là độ cao không có muỗi nhưng trên thực tế, Đà Lạt không cao lắm.

 

Năm 1897, khoa học gia người Anh Ronald Ross, làm việc tại Ấn Độ, khám phá ra bệnh sốt-rét do muỗi Anopheles lây lan. Từ đó, người Pháp nghiên cứu thành lập những vùng nghỉ dưỡng, điều dưỡng cho người Pháp bị bệnh, giúp hồi sức tại Đông Dương thay vì chở về mẫu quốc, xa xôi và tốn kém.

 

Chi phí tải binh sĩ bị bệnh hồi hương rất cao nên người Pháp cho các binh sĩ bị bệnh qua Nhật Bản ở Yokohama, nơi một bác sĩ người Pháp, tên Mècres, thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng. Khởi đầu khi cuộc chiến Pháp-Trung Hoa, các binh sĩ bị thương được đưa về Nhật Bản điều trị. Ngắn đường tàu thuỷ hơn về Pháp. Khí hậu Nhật Bản tương tự như Pháp quốc.

 

Bác sĩ Bernard kể một đơn-vị pháo binh gồm 319 người đến Nam-kỳ năm 1862, 4 năm sau chỉ còn 50 còn ở lại. Ông ta đề nghị cho binh sĩ đi nghĩa-vụ ở Việt Nam 2 năm thay vì 4 năm để tránh bị bệnh. Có lẻ vì vậy mà người Pháp gọi bệnh này là “Jaunisse” vì người Pháp đến Việt Nam, độ mấy tháng sau là da họ bị vàng.

 

Bệnh sốt-rét và kiết-lỵ khiến quân đội pháp phải bỏ đóng quân tại Tourane (Đà Nẵng ngày nay). Năm 1861, sau khi Sàigòn lọt vào tay người Pháp thì có đến 11.5% binh sĩ chết vì bệnh. Bệnh viện Sàigòn đã có đến 2,774 bệnh nhân, và 170 chết sau đó và 371 được hồi hương. Các tài liệu lịch sử mình học về thời kỳ này kể là người Việt kháng chiến chống Tây, khiến giặc Tây chết như rạ, có lẻ không đúng. Nguyên do là bệnh sốt-rét, khí hậu đã giết lính thực dân như đã giết lính của Thành Cát Tư Hãn.


Đọc tài liệu xưa, họ cho biết 50% đàn ông Việt Nam dạo ấy nghiện thuốc phiện nên kêu đánh đấm, chống tây hơi quá tự cao. Đọc tài liệu thời còn ở Việt Nam, họ nói ông Nguyễn Hải Thần, nằm gai nếm mật ở bên tàu, mơ đến chống tây, kháng chiến đủ trò. Trên thực tế ông ta nghiện thuốc phiện, người Việt đóng góp tiền bạc cho kháng chiến để mấy ông này làm kháng chiến với các nàng tiên nâu. Ông Văn Cao, có kể là được lệnh ám sát mấy người chống pháp, không theo Việt Mình, đợi mấy người này vào hút thuốc phiện rồi xử tử.


Mình nhớ khi xưa, ông cụ đi lính, đóng quân ở rừng, có lần ở Qui-Nhơn, sau này giải ngủ bị bệnh sốt-rét. Cứ mỗi lần bị cơn bệnh này hành, ông cụ trùm mềm, rên hừ hự, kêu mình lấy thuốc Quinine để uống. Mình nhớ nhà có một lọ to đầy thuốc quinine. Sau này, đi cải-tạo 15 năm, mình có hỏi ông cụ còn bị bệnh này không thì được biết là ít hơn xưa.

 

Theo tài liệu thuộc địa ghi lại thì khoảng 1883-1888, tỷ lệ binh sĩ thuộc địa chết ở Đông Dương là 2% trong khi chỉ có 0.97% ở Algiers và 1.1% ở Tunis và 1.5% ở Oran (thuộc địa Bắc Phi của Pháp). Người Pháp có chiếm đóng các nước ở Phi-châu, ở vùng nhiệt-đới nhưng mình không có tài liệu về tử vong của người Pháp tại các thuộc địa này.

 

Hồi hương thì cũng có vấn đề vì có rất nhiều bệnh nhân chết trên đường về cố quận, phải được hải táng trên biển.

 

Năm 1853, những tài liệu thuộc địa cho biết; dạo ấy chỉ có 2 cách điều dưỡng người pháp tại Đông Dương: chở về nước điều trị bằng tàu thủy hay lên cao độ dưỡng thương tại địa phương, nói cách khác là tìm cao độ tại thuộc địa như người Anh Quốc và Hoà Lan đã thực hiện tại Mã-lai và Nam Dương. Các quốc gia này thành công trong việc điều trị binh lính và công chức của họ khi xây dựng các trung tâm điều dưỡng ở trên núi tại địa phương.

 

Năm 1885, Bá tước Albert d’Anthouard de Wasservas rời Sàigòn sau 3 năm nhiệm vụ, kể lại chuyến hải trình hồi hương, sau khi sụt mất 27 kí-lô vì bệnh tiêu chảy. Các hành khách trên chuyến tàu hồi hương gồm 250 bệnh nhân, nằm liệt giường và 150 tù nhân Việt Nam, chống lại chính quyền thực dân, bị đày biệt xứ đi đảo Guyana, lúc người Pháp chưa xây dựng nhà tù tại Côn Đảo để tiết kiệm chi phí. Nếu họ tiếp tục cho các người chống lại chính sách thực dân của họ sang nhà tù Guyane thì có lẻ không có Điện Biên Phủ, ngày nay họ vẫn chiếm đóng Đông Dương. Không có trò vượt Guyane như Côn Đảo.

 


Hình ảnh khi xưa, thực dân bắt người Việt chống lại họ vì thuế nặng. Mình nghe nói đeo gông vào cổ, nay mới hiểu cái gông là gì.


 Nhà tù Cayenne ở Guyane nổi tiếng, được kể qua cuốn truyện và phim mang tựa đề “papillon” do Steve McQueen và Dustin Hoffman đóng, mình xem phim này ở rạp Ngọc Lan.

 

Hình như vua Hàm Nghi hay Duy Tân bị đày đến đây hay Madagascar. Hình như ông vua Hàm Nghi, sau này bị đưa qua Algerie, lấy vợ bên đó rồi chết tại xứ này. Tây gọi “la bagne”, nơi họ đày các kẻ chống lại chính quyền cách mạng sau 1789 đến Guyane, khi cháu của Bonaparte lên ngôi Napoleon III thì cho đóng cửa, thả hết tù nhân chính trị. Năm 1852, người Pháp cho mở lại để nhốt các tù nhân từ các thuộc địa chống lại thực dân pháp. Tù nhân ở đây, ít ai sống sót lắm vì khí hậu, lao động khổ sai. Ai sống sót thì không biết đâu mà hồi hương, lấy vợ địa phương. Sau này, có dịp chắc mình cũng làm một chuyến sang đây để đi lại vết chân của người Việt xưa, bị thực dân đày biệt xứ.


Mình có gặp mấy phục vụ viên trên tàu đi Nam Cực, có 4 người gốc Madagascar, 2 người từ đảo Réunion, và Ma-rốc, thêm từ Nam Dương.

 

Chuyến tàu hồi hương rất dài, chạy qua kênh Suez, có một người chết được hải táng. Ông ta nhận thấy sức khoẻ được hồi phục khi đi ngang con kênh này nên kết luận là bệnh thuộc địa chỉ nguy hiểm tại địa phương còn khi thay đổi phong thổ, gần nơi họ sinh ra thì sức khoẻ cơ hồi bình phục lại.

 

Trên thực tế nhiều binh lính Tây hay công chức, chết khi đến quân cảng Toulon. Trung bình có từ 30-40 người chết trên các chuyến tàu hồi hương. 250 người thì chết 30-40 người. Xem như 20%.

 

Năm 1886, bác sĩ hải quân pháp Lazare-Gabriel-Marie Palud kể trên chiến tàu y tế hồi hương tên Vinh-Long: tàu chở theo 2 con bò để có sữa tươi. Bệnh nhân nào bị sốt rét thì được quấn cái mềm và cho uống thé punché , trà bỏ rượu rhum. Nặng hơn thì được chích quinine sulfate. Mình không biết từ Paludisme đến từ tên ông bác sĩ này? Ai biết cho em xin.


Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Việt Cộng yêu cầu Trung Cộng cung cấp loại thuốc qing hao su (青蒿素), được Tây phương gọi là artémisinine , dùng để trị các bệnh sốt rét cho bộ đội của họ.


Vào năm 1939, ông Paul Hermann Mueller, làm cho công ty dược phẩm Geigy ở Bâle, Thuỵ Sĩ nơi mình có làm việc một năm, khám phá ra DDT (dichloro diphényl trichloro-ethane) , một loại sát trùng, được sử dụng để giết các con muỗi mà chúng ta hay thấy chiếu trên xi-nê, họ xịt vào người tù nhân hay binh lính. Hồi bé, mình nhớ nhà có xịt ba loại này, thêm cái bình xịt dầu hôi, phung lửa để giết muỗi vào buổi chiều. Sau này chất sát trùng này bị cấm vì gây bệnh ung thư,...

 

Dạo mình ở Tây, mỗi lần bị cảm, mình hay ra quán cà-phê, kêu họ làm một ly grogue. Rượu rhum, bỏ đường với chanh và nước nóng. Nhắm mắt nhắm mũi, nốc một cái ực, leo lên 8 tầng lầu, đắp mềm ngủ tới sáng mai là hết bệnh. Tỷ lệ chết mùa hè năm 1885, có 33 người chết hay 6% hành khách nhưng đến chuyến đi thứ 3 của ông ta 1885-1886 thì chỉ 3 người chết hay 0.5% hành khách.

 

Chi phí hồi hương các binh sĩ hay công chức bảo vệ thuộc địa rất cao. 1894, 19.6% bộ binh và 37.6% pháo binh được hồi hương vì lý do sức khoẻ, chiếm 290 người trong các đội ngủ trên. 2 năm sau đó thì 19% bộ binh và 40% pháo binh được đưa về mẫu quốc (340 người). Dạo ấy chỉ có 2,000 lính tây đóng thường trực tại Việt Nam.

 

Dạo ấy có hai công ty hàng hải tư được mướn để đưa lính Tây hồi hương: Messageries maritimes và Compagnie nationale de navigation. Năm 1895, bộ thuộc địa tính thành lập một đường hàng hải Đông Dương, do chính phủ kiểm soát. Mỗi tàu cần 150 giường bệnh, chính quyền bảo-hộ tiên đoán sẽ cần hồi hương nhiều hơn trong tương lai. Không nhớ ông Nguyễn Tất Thành, qua pháp bằng cách làm thuê trên những loại tàu này hay không. Lâu quá rồi, không nhớ là tàu loại nào.

 

Sử gia Robert Aiken, nghiên cứu các trung tâm nghỉ dưỡng của Anh Quốc tại Mã-lai; cho thấy cách hữu hiệu, ít tốn kém, giảm thời gian hồi hương, là thành lập các trung tâm nghỉ dưỡng tại nước sở tại.

 

Dạo ấy có bác sĩ Louis Mècres, thành lập một khu điều dưỡng tại Yokohama, Nhật Bản, để chữa bệnh, cho các thương binh tại chiến trường Trung Hoa. Khu nghỉ dưỡng này được chính phủ Nam-kỳ đài thọ 15,000 quan pháp. Bác sĩ Danguy des Déserts than là không có một khu nghỉ dưỡng tại Nam kỳ. Cho thấy người Pháp đánh thuế người Việt mệt thở để thành hình chính sách cai trị của họ tại Việt Nam.


Tính xem trị giá hiện kim: 170 năm xem như 1,200 tháng, lạm phát trung bình 5%, số tiền 15,000 quan. Tính ra là 119,294,692.00. Dạo mình đi Tây 1 đôla ăn 7 quan cũ. Số tiền khá lớn, lấy từ mồ hôi nước mắt của người Việt.

 

Vấn đề là các đồi núi ở Nam Kỳ rất thấp như Ba-Dinh chỉ có 884 mét cao độ, Chua-Chang thì 600 mét. Người Pháp cần tìm các nơi có núi rừng như ở cao nguyên trung phần, thuộc dãy Trường Sơn. Do đó, họ cho người đi thám hiểm, quan sát các địa danh tại Cam-Bốt, Lào, Bắc-kỳ,...

 

Năm 1897, toàn quyền mới của Đông Dương Paul Doumer, không cho ký hợp đồng với bác sĩ Mècres nữa khiến các người ủng hộ ông này tức giận như thượng nghị sĩ Gauthier. (Chắc có ăn chia). Bộ thuộc địa, giải thích là một khu nghỉ dưỡng tại Việt Nam sẽ giúp chính phủ thuộc địa giảm bớt kinh phí hồi hương các bệnh nhân nhất là về tâm lý. Khi về nước nhiều thì người Pháp sẽ lo ngại, không muốn con cháu họ đi nghĩa vụ 4 năm tại rừng thiêng nước độc ở xứ Annam. Mình nghe kể là trong thời chiến, Hà Nội giết khá nhiều những bộ đội bị thương, mất tay mất chân để khỏi làm ngã lòng hậu phương tất cả cho tiền tuyến.


Mình về quê, gặp ông chú họ, bị thương tại chiến trường miền nam nhưng sơ sài nên còn sống sót, trở về quê cha.


 Chính phủ có trách nhiệm đối với công chức, binh sĩ và các sĩ quan như những gì mà Anh Quốc đã thực hiện thành công tại Ấn Độ cho quân đội của họ và nền hành chánh sở tại. Đàlạt sẽ đóng vai trò như thành phố Raj của đế quốc Anh Quốc. 

 

Dự định xây một trung tâm nghỉ dưỡng ở cao độ chưa được chính thức chọn. Họ có thành lập ở BÀ-ria nhưng không đủ độ cao.

 

Năm 1897, toàn quyền Paul Doumer ra lệnh cộng sự viên, phải tìm ra địa điểm ở trên cao nguyên, để thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng như Anh Quốc đã làm tại MÃ-lai hay Ấn Độ, hầu giúp công chức và lính thuộc địa có thể hồi phục sức khỏe mau thay vì phải về nước.

 

Các tổng đốc 3 kỳ đều phúc trình, đề nghị các vùng biển, như Đồ-Sơn, Cap Saint Jacques (Vũng Tàu),.. chỉ có các giới chức ở Annam là đọc kỷ và đề nghị thám hiểm trên cao nguyên, nơi mà người kinh không đặt chân đến. Đa phần bỏ hoang cho người thượng. Không có đường xá đến đây. Theo các tài liệu kể thì các người của triều đình Nguyễn, xin làm cu-li cho phái đoàn ông Yersin, rồi lên đây, bắt người thượng đóng thuế, đánh đập họ,... cho thấy triều đình Nguyễn làm chủ lãnh thổ này nhưng ít ai dám lên đây thu thuế người thượng. Nhờ vậy mà sau này, người Pháp mới sử dụng người thượng để làm giảm sức mạnh quân đội cũng như chính trị của triều đình Nguyễn.

 

Bác sĩ Alexandre Yersin nghe toàn quyền  Doumer tìm kiếm một địa điểm cho khu nghỉ dưỡng của binh sĩ Pháp, ông ta xin gặp mặt để trình bày vùng Dankia, nơi ông ta đã thám hiểm lên đó, nghiên cứu mấy lần.


Bác sĩ Yersin là người Thuỵ Sĩ, cộng sự viên của ông Louis Pasteur và Emile Roux. Ông nổi tiếng khi tìm ra bacillus bubonic plague năm 1894. Ông ta thành lập một phòng thí nghiệm tại Nha Trang, sau đó trở thành viện Pasteur vào năm 1905.

 

Trái với người ta thường ca tụng về ông bác sĩ này. Người ta tìm thấy trong các lá thư viết cho mẹ ông ta, kể tham gia các cuộc hành quyết các người Việt Nam chống lại chính quyền thực dân,…chê dân của đảo Réunion, dân da đen lười,… có lần búa cùn phải chém 5 nhát mới đứt đầu. Kinh


Trước đây, người Pháp dùng hình ảnh ông bác sĩ này để tuyên truyền cho lòng nhân-ái của họ, muốn mở-man các thuộc địa, đem văn minh, khoa học, tình yêu thiên chúa đến những nơi chậm tiến. Nay có nhiều người đọc các thư của ông ta viết cho gia đình, trong viện bảo-tàng của viện Pasteur ở Paris, nói lên tinh thần thực dân của người Âu châu khi xưa.


Tương tự ngày nay, chúng ta được biết những gì người Tây phương đã thực hiện tại Bắc và Nam Mỹ châu, diệt chủng tàn bạo các người dân sở tại.

 

Ông ta viết thư cho thân hữu, chê chính sách của toàn quyền de Lanessan là ngây thơ “annamitophilie”. Lần đầu tiên mình đọc được từ này, Annam là trung kỳ, philie do từ philo của Hy-lạp, tạm hiểu làm bạn, thân hữu với chính quyền Annam, triều đình Huế vì qua mấy vụ Cần Vương, làm tổn thất khá nhiều cho người Pháp. Có dịp mình sẽ viết về vị bác sĩ này mà ngày nay đa số người Việt ca tụng ông ta như thánh.

 

Ông ta không phải một nhà cấp tiến như được tô vẽ nhưng chúng ta không quên những thành quả nghiên cứu y-khoa của vị bác sĩ này. Chúng ta nên nhớ ông ta làm việc cho viện Pasteur Paris, và được công ty hàng-hải Messageries Maritimes trả lương, không phải yêu thương người Việt. Ông này ở Nhà Trang, không nghe nói đến lấy vợ. Nếu toàn quyền Doumer chọn Dankia thì công ty Messageries Maritimes sẽ được lợi nhiều hơn so với công ty do đại uý muốn chọn Bà Nà. Theo mình thì Bà Nà tốt hơn vì gần biển, đường xe lửa, quốc lộ 1 hơn Đà Lạt. Có thể công ty Messageries Maritimes đồng ý ủng hộ con đường chính trị của Paul Doumer, giúp đắc cử tổng thống pháp sau này. Mình đang đọc hai cuốn sách nghiên cứu về Doumer.

 

Ông bác sĩ này chú ý đến chương trình của Paul Doumer và diện kiến ông toàn quyền ngày 19 tháng 7, 1897. Ông ta trình bày các tài liệu mà ông ta ghi lại trong 3 cuộc thám hiểm tại cao nguyên 1892, 1893, 1894. Các ghi nhận cho thấy là một địa điểm tốt cho khu nghỉ dưỡng của Paul Doumer.

 

Đây là sổ tay của bác-sĩ Yersin, ghi lại những gì đã làm khi thám hiểm, tìm ra Lâm-Viên (LangBian). Ông ta đề “voyage chez les Mois”, 24 tháng 2 đến 26 tháng 9, năm 1893 có đóng mộc viện Pasteur tại Paris.


Điểm chú ý là các cuộc thám hiểm của bác sĩ Yersin, không vì mục đích tìm ra địa điểm để xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng mà để tìm kiếm các hầm mỏ, tài nguyên của lâm nguyên. Ông ta đã tìm ra vùng Dankia do công ty pháp Messageries Maritimes trả lương, trước khi diện kiến Paul Doumer.


Người Pháp đến Đông dương, đều cho người của họ đi săn lùng các hầm mỏ, điều nghiên phong thổ,...như trường hợp bác sĩ Yersin là người đem các giống cây cao-su sang Việt Nam để trồng, làm nhựa cho kinh tế xe hơi của họ. Ông ta được công ty hàng hải pháp trả lương.

 

Ông ta ghi rõ như ngày 21 tháng 6 năm 1893, khi ông ta khám phá cao nguyên Lâm Viên (Langbian), đứng trên đỉnh, ông ta thấy vùng Đàlạt ngày nay. Có nói đến rượu cần của người dân địa phương (Mọi)

 

Khi ông ta trở lại vào tháng 2 năm 1894, ông ta ghi lại những chi tiết cần thiết khác. 2 ngày đi bộ từ Langbian, ông ta ghi thời tiết 2 độ celcius. Ông ta thấy nai và có kể cho bà mẹ, không khí khô như vùng đồi núi Thuỵ Sĩ của ông ta.

 

Ông ta hy vọng trong tương lai sẽ có một con đường và xe hoả từ Nha Trang, nơi ông ta làm việc đến vùng cao nguyên, sẽ giúp thành phố Nha Trang trở thành quan trọng.

 

Bác sĩ Yersin xem như cố vấn y tế quan trọng cho Paul Doumer nhưng chuyên gia về khu nghỉ dưỡng vẫn là bác sĩ Alexandre Kermorgant. Năm 1898, ông ta được chỉ thị, nghiên cứu chương trình của ông Yersin và Doumer. Ông ta rên là chúng ta không có các địa danh như Simla hay Darjeeling, nổi tiếng của Ấn Độ của đế quốc Anh. Có lần mình xem phim ấn độ về vùng này. Quá đẹp.

 

Dạo ấy, các tay giàu có người Tây ghé lại Tân Gia Ba của Anh Quốc để nghỉ dưỡng. Bác sĩ Kermorgant ghi: “vấn đề nghỉ dưỡng cho binh lính tại á châu đã được giải quyết với cao nguyên Lâm viên, giúp giảm bớt chi phí cho chính phủ”.

 

Tuy vậy, Paul Doumer vẫn ra lệnh xem-xét các địa điểm khác như núi Ba-Vì, gần Hà Nội. Ông ta nghĩ vấn đề nghỉ dưỡng ở BẮc Kỳ (Tonkin) có thể giải quyết với các khu nghỉ dưỡng tại Trung Hoa, nhưng lại ở ngoài biên giới của đế quốc Pháp. Người pháp chiếm Vân NAm của Trung-hoa để bảo vệ đầu nguồn của con sông Mekông, huyết mạch của Đông Dương.

 

Do đó ông ta chú tâm ở Trung Kỳ (Annam) vì Nam kỳ đất thấp. Langbian có đủ các yếu tố: độ cao, nước dùng, khí hậu tốt. Ngoài ra tại Annam có những địa danh khác như nội địa của Tourane (đà Nẵng) mà người pháp đang bắt đầu xây dựng khu BÀ-nà.

 

Ông ta tìm các ý-kiến ngoài bộ thuộc địa như thanh tra canh nông Đông Dương, Jacquet, được phái lên Langbian để khảo sát khả năng cung cấp trái cây và rau cải âu châu. Ông này rất vui mừng về khí hậu và người dân sở tại (người thượng), rất khoẻ mạnh để làm rãy.

 

Ông Jacques de Montfort, một người du lịch khắp thế giới cho biết là thời tiết của cao nguyên quá tuyệt vời, không khí trong lành và khô khác với sự ẩm ướt của miền đồng bằng Việt Nam.

 

Ông Doumer đề nghị ngoài thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng, có thể trong tương lai sẽ làm thủ đô hành chính cho chính quyền Đông Dương. Gần biên giới Lào và Cao Miên. Đặt cái tên là Lang-Sa, vì dân an nam gọi Pháp quốc là Phú Lãng Sa, tầu gọi là Pháp Lan Tây gọi tắt là Pháp. 

 

Năm 1897, một năm định mệnh cho thuộc địa, đúng hơn là cho Liên Hiệp Đông Dương. Paul Doumer được bổ nhiệm làm toàn quyền, thay thế ông tiền nhiệm de Lannessan, người chủ trương tôn trọng các văn hoá địa phương, muốn trả Bắc Kỳ lại cho triều đình Huế, cai trị gián tiếp. Kiểu ngày nay, chính phủ pháp muốn tôn trọng giữ gìn các nền văn hoá của các người di dân từ thuộc địa họ.

 

Paul Doumer thì chủ trương một chính quyền trung ương mạnh. Ông ta thành lập các văn phòng tài chánh tại Đông Dương và các công ty tư nhân hay do chính phủ độc quyền. Ông ta gia tăng dân sự ngành hành chính thuộc địa. Năm 1900, tổng số công chức của thuộc địa nhiều hơn Ấn Độ to lớn, đông dân hơn Việt Nam của Anh Quốc và Tây Ấn của Hoà Lan. Từ 2,860 công chức lên 5,683 vào năm 1911. 

 

Người pháp bị bệnh tại Việt Nam quá nhiều nên ông Doumer hy vọng sự thành lập khu nghỉ dưỡng trên Cao Nguyên sẽ giải quyết vấn nạn này. Dưới thời toàn quyền de Lanessan, chỉ có Nam Kỳ (cochinchine) là thuộc địa của Pháp quốc, ông ta nghĩ giải pháp sử dụng khu nghỉ dưỡng tại Yokohama bên Nhật Bản tốt hơn, thêm được điểm để giao thương với Nhật Bản.

 

Chương trình này, bắt các y-sĩ làm việc tại Đông Dương lâu hơn trước đây. Ai cũng biết là bệnh ở Đông Dương rất nguy hiểm mà các bác sĩ không dám viết khảo cứu để đời cho họ. Thậm chí, họ phải báo cáo sai, để thực hiện chương trình không tưởng khu nghỉ dưỡng trên cao nguyên Lâm Viên.

 

Với ý định thực thi chương trình này, ngoài ông Yersin ra, còn có những người khác được gửi đi tìm kiếm các nơi khác như Victor Adrien Debay ở Bà-Nà….

 

Paul Doumer muốn thành lập một khu nghỉ dưỡng tại một địa điểm tốt nhất. Dù đã được ông Yersin đệ trình các tài liệu mà ông ta ghi lại khi thám hiểm vùng Langbian. Paul Doumer gửi thêm một đại uý quân đội tên Victor Adrian Debay đi khảo sát vùng gần Huế và Tourane.  

 

Tháng 2 năm 1900, vị đại uý này khởi đầu cuộc tìm kiếm với những binh sĩ khác, để tìm ra trong vòng chu vi 150 cây số cách Tourane, với cao độ 1,200 mét, khô ráo, hướng phía Tây nam. Có dịp mình sẽ kể sau vụ tranh nhau giữa ông Yersin và tên đại uý Debay, để được Doumer chấp thuận đề nghị của mình.

 

Vấn đề là tên đại uý Debay này có nhiều hành động dã man, đánh người cu-li, đi theo khiêng đồ cho đoàn thám hiểm Tây. Ông ta đánh chết Nguyễn văn Niêu, Nguyễn Văn Thiêu, Lê Văn Sĩ ,…. Về Sàigòn thấy đường Lê Văn Duyệt đổi tên thành Lê Văn Sĩ, không biết có phải là ông nông dân bị tên đại uý Debay đánh chết năm 1904, khi đi tìm địa danh BA-nà.

 

Nhiều người tố cáo tội ác ông ta, bị đưa ra toà án quân sự về tội giết người nhưng rồi được tha bổng, cho trở lại chức vụ cũ, sau này được tuyên dương Legion d’honneur, huy chương cao quý nhất do chế độ Napoleon thành lập. Đó là hình ảnh của sự tàn bạo của quân đội Pháp. Chả thấy liberté, fraternité , égalité gì cả. Tự do, bác-ái, bình đẳng là chiêu bài để huyển hoặc thiên hạ.



Lính Tây trả tiền cước xe-kéo, đăng trên tờ “la vie large des Colonies, năm 1912.”


Nếu Doumer vẫn tiếp tục chính sách của de Lanessan, có thể người Việt nhất là trí thức Việt Nam, có thể cộng tác với người Pháp trong tinh thần tương trợ để phát triển Việt Nam. Mình mua hai ổ cuốn sách tây viết về ông Doumer, làm tổng thống pháp, bị ám sát. Lần mò về chính trị của ông ta và người tiền nhiệm.


Theo ông Vũ Quốc Thúc kể thì đồng môn của ông ta là ông Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp học rất giỏi nhưng bị đánh rớt, không được cấp học bổng đi du học ở pháp về luật như ông ta và ông Nguyễn Mạnh Tường. Tương tự ông Nguyễn Tất Thành cũng viết thư xin học bổng học trường bảo hộ như ông Trần Trọng Kim nhưng đơn bị bác. Nếu người pháp không thay đổi chính sách của toàn quyền De Lenassan thì có thể lịch sử Việt Nam và Đông đương có thể có một kết cục khác, tươi đẹp hơn.

 

Chương trình này bị gián đoạn khi Paul Doumer được triều về pháp, sau này làm chính trị được bầu làm tổng thống Pháp quốc và toàn quyền Albert Sarault thay thế. Ông ta chọn Đàlạt thay vì Bà-na được đại uý Debay đệ trình. Ngoài ra còn có những địa danh khác được thành lập những khu nghỉ dưỡng nhưng không quy mô như Đàlạt : Sapa, Tam Đảo, Mau-Sơn ở Bắc kỳ, Bokor ở Campuchia, Tranninh ở Lào. (Còn tiếp)


Mình sẽ kể từ từ rồi sẽ ghép lại một bài tổng thể.

Nhs

 

Bột ngọt, mì chính độc hay hại?

  Nhớ dạo về Hà Nội lần đầu tiên, mình ghé quán phở để thưởng thức món phở Bắc ra sao. Có như ông Nguyễn Tuân tả ngon hơn tên đao phủ thủ mài dao chém đầu tử tù. Mình thấy bà bán phở, bỏ thịt, bánh phở rồi một thìa bột trắng trắng vào tô, rồi chang nước dùng phở lên. Mình hỏi anh chàng đi cùng, dân Sàigòn thì mới biết họ bỏ mì-chính khiến mình như ngỗng ị. Sau này được giải thích là bột ngọt. Ngoài Bắc họ dùng khẩu ngữ của người Tàu trong khi ở miền nam trước 75, gọi là bột ngọt.

 

Lần đầu tiên sang Hoa Kỳ chơi, có anh bạn học cũ Đàlạt, chở đi ăn mì. Ngon nức nở. Khi về, anh ta kêu vợ anh, bị dị ứng bột ngọt nên hơi mệt. Nghiệm lại đúng vì mỗi lần đi ăn cơm tàu, trong người bồn chồn, khó chịu do họ bỏ bột ngọt quá nhiều.

 

Có lần mình đi ăn mì ở một tiệm ngay bôn sa, khá nổi tiếng từ Sàigòn. Khi đi nhà vệ sinh, mình thất kinh, thấy một núi bao bột ngọt, chất tới trần nhà, bao nào ba nấy to như mấy bao gạo nên từ đó hết dám ăn mì ở đây. 

 

Mình có kể trong bài nước mắm làm tại Cali, hoàn toàn không có chất bảo quản hay muối giả như ở Thái Lan, Việt Nam,.. Có hai giáo sư Nhật Bản tìm ra umami rồi sáng chế bột ngọt, trong thế chiến đã tạo ra mì ramen khô để binh lính ăn. Ai thích thì đọc trên blog này.

 

Trong các đồ hộp, đồ khô, có nhiều chất bảo quản và gia vị. Trong số đó chất Monosodium glytamate thường được viết tắt là MSG, người Việt gọi bột ngọt, rất độc hại, mà ngày nay người ta khám phá nó mang lại ung thư. Giết hại các tế bào não bộ, phá hại thận, đưa đến bệnh Alzheimer, Parkingson,…

 

MSG, bột ngọt là một gia vị, đa số là Glutamic acid và Sodium. Ở á châu được sử dụng trong thực phẩm rất nhiều. Ngoài ra còn được bỏ trong các lon đồ hộp, bánh khô, thực phẩm thiếu nhi, sữa trẻ em hay thức ăn nhanh.

 

Nếu chúng ta múc một muỗng ăn thì không thấy gì, ngược lại khi chúng ta trộn với thức ăn thì bột ngọt, chạm vừa lưỡi, sẽ giúp đồ ăn ngon hơn vì đánh thức được giác quan thứ 5, thường được gọi là umami.


Các đầu bếp tây phương trứ danh, nay không sử dụng bột ngọt nữa, thay vào đó họ dùng nước mắm nhỉ để tạo ra umami. Nước mắm nhỉ có amino acid, chất đạm do cá tạo ra, giúp tạo umami.

 

Bột ngọt kích thích não bộ muốn ăn thêm, do đó các tiệm ăn bỏ vào thực phẩm để khuyến khích chúng ta trở lại. Mấy loại khoai Tây chiên đều có bột ngọt hay các loại tương tự hết.

 

Công ty Ajinomoto của Nhật Bản là công ty sản xuất bột ngọt lớn nhất thế giới, cũng là một công ty dược phẩm. Bột ngọt được ưa chuộng sau đệ nhị thế chiến, khi các binh sĩ Hoa Kỳ khám phá ra các lương khô Nhật Bản có mùi vị ngon hơn lương khô của Hoa Kỳ sản xuất. Do đó các nhà sản xuất thực phẩm, bỏ bột ngọt giúp tăng thêm hương vị. Tương tự, họ đem về các món ăn khi họ đóng quân ở âu châu như món Pizza.


Pizza là món ăn nhà nghèo, chỉ có miền nam nước ý như Napoli mới ăn. Khi quân đội mỹ đổ bộ lên nước ý, đóng tại vùng này thì được ăn món ăn nhà nghèo nhưng nhanh, hợp với quân lính không có thì giờ ăn tiệm hay tiền. Khi lính Mỹ về lại nước, đi vào các quán ăn gốc ý, hỏi Pizza khiến chủ tiệm ngọng. Từ đó họ làm thêm Pizza để bán cho người Mỹ. Văn hoá mỹ truyền bá khắp nơi, lại đem Pizza về lại xứ Ý. Mình nghe tên bạn ý ở miền Bắc Ý Đại Lợi kể. Từ đó mới có những quán Pizzeria xuất hiện ở Ý Đại Lợi.

 

Năm 1959, FDA của Hoa Kỳ tuyên bố bột ngọt; được xem là an toàn trong khi các nước khác cấm sử dụng loại này. Bột ngọt (MSG) có hệ ứng ngầm người Mỹ gọi là “chinese restaurant syndrome” , hội chứng tiệm ăn tàu như vợ anh bạn, bị sau khi làm một tô mì ở bôn-sa. Do đó đi ăn tiệm Việt Nam, xa Bolsa thì đa số thực khách là người Mỹ nên họ không bỏ bột ngọt, lại thấy không ngon như tiệm ăn ở vùng bôn-sa, dành riêng cho thực khách gốc việt. Chán Mớ Đời 

 

FDA đổi tên hội chứng này thành “MSG Symptom Complex), có lẻ sợ Trung Cộng chửi, xem như một phản ứng ngắn hạn, và cơ thể chúng ta báo động, không nên bồi dưỡng bột ngọt.

 

Trong cuốn “Exitotoxins: The Taste that kills”. Bác sĩ Russell Blavlock, giải thích MSG là một exitotoxin, kích thích quá độ các tế bào não-bộ, huỷ-hoại não bộ, và đưa đến các bệnh não bộ như MS, Parkinsons và Alzheimer.


Có dạo mẹ mình sang Hoa Kỳ chơi, đi chợ khu Việt Nam cho bà cụ vui, thấy bà cụ bỏ một gói bột ngọt to đùng vào xe, kêu có cái này nấu mới đậm đà khiến mình thất kinh, phải giải thích cho bà cụ nhưng chắc về Việt Nam, lại nấu nướng với bột ngọt.

 

Vấn đề là MSG có độ 78% “Free glutamic acid”, một loại có chức năng, dẫn truyền thần kinh mà hệ thống não bộ, thần kinh, tuyến tuỵ, mắt,…sử dụng. FDA đồng ý là nghiên cứu cho thấy cơ thể dùng glutamate, một loại amino acid, như một chất dẫn truyền thần kinh trong não và các mô phản ứng với glutamate ở các bộ phận khác của cơ thể.

 

 Chức năng bất thường của các thụ thể glutamate có liên quan đến một số bệnh thần kinh, chẳng hạn như bệnh Alzheimer và Huntington. Người ta thí nghiệm bằng cách tiêm glutamate vào động vật trong phòng thí nghiệm, kết quả cho thấy làm tổn thương các tế bào thần kinh trong não. Kinh

 

FDA cho rằng bồi dưỡng bột ngọt là an toàn nhưng lại cảnh báo các hệ ứng như sau: đau đầu, buồn nôn, tim đạp nhanh, chóng mặt, … nên nhớ là FDA có rất nhiều giám đốc các công ty dược phẩm và thực phẩm làm thành viên. Gần đây, ông Joe Biden bổ nhiệm tân bộ trưởng canh nông là một cựu giám đốc của công ty Monsanto. Kinh

 

Ngày nay, người ta bắt đầu cẩn thận, tìm cách tránh tiêu dùng MSG, khi đi ăn tiệm, hay thấy đề trong thực đơn là họ không sử dụng bột ngọt. Các công ty thực phẩm, bỏ sử dụng từ MSG thay vào đó các tên mới vì FDA, bắt buộc các công ty thực phẩm phải ghi tên “monosodium glutomate” trên nhãn hiệu nhưng không bắt buộc phải ghi trên nhãn hiệu những hoá chất “free glutamic acid” cho dù nguyên liệu là MSG. Có trên 40 danh xưng có chứa Glutamic Acic. Xem bản sau đây:




 Chúc các bác một ngày vui vẻ. Chán Mớ Đời 


Nhs

Vallée d’amour “Thung lũng Tình-Yêu”

 Hôm trước, đọc trên mạng có ai nhắc đến Thung-lũng Tình-yêu khiến nhớ lại vài kỷ-niệm của thời mới lớn ở Đàlạt. Thời sơ khai, không phải trả tiền để vào. Chỉ có mình và vài người bạn giữa thiên nhiên bát ngát của một Đà Lạt thơ mộng.

Đàlạt có nhiều địa danh với những cái tên rất thơ mộng do người Pháp đặt như “lac des soupirs” sau này được người Việt đặt lại “hồ Than Thở”, Vallée d’ amour sau được đặt tên lại “Thung Lũng Tình Yêu”. Nghe nói thời Bảo Đại, họ đặt tên là Thung Lũng Hoà Bình. Có lần, đọc được một bài của một ông thần nào học Yersin trước mình, kêu chính ông ta và bạn bè đặt tên tây cho thung lũng này. Không kiểm chứng được. Hôm nào về Đà Lạt, mình đến kho lưu trữ giấy tờ Đà Lạt xem có vào được không.

Hỏi người lớn thì họ trả lời không chí lý lắm như hồ Than Thở; các cặp tình nhân ra đó than thở vì cha mẹ cấm đoán hay là tiếng rì-rào của lá thông như lời than thở, cộng thêm đồi thông hai mộ. Người Đàlạt có óc thần tượng hoá, sáng tác các huyền thoại để hấp dẫn du khách.

Mình không hiểu tại sao họ đặt tên hồ Than Thở. Có lẻ người Pháp, xa quê hương như người Việt hải ngoại ngày nay, muốn tạo lại những hình ảnh của quê nhà nên đặt tên các địa danh của xứ họ như nhà hàng Thuỷ tạ là “la grenouillère “, một câu lạc bộ nhà hàng nổi tiếng ở ngoại ô Paris... mình đang gom tài liệu để kể về Thuỷ Tạ, điểm đặc trưng của Đàlạt. Được người Pháp xây dựng 95 năm qua, vẫn còn nguyên. Có lẻ một ngày nào đó, họ sẽ phá bỏ Thuỷ Tạ, một sản phẩm của chế độ cũ, để thay vào đó một tượng đài Lê Văn 8.

Bên tây, có một cái hồ mang tên “lac des soupirs” khá nổi tiếng ở gần tỉnh Pas de Calais, nơi mà Hitler nghĩ quân đội đồng minh sẽ đổ bộ. Thiên hạ đến đây dã ngoại, câu cá, có phong cảnh khá tương tự hồ Than Thở. Cũng có thể họ lấy tựa của một tác phẩm khá nổi tiếng của Leigh Roberts mang tựa đề này. Bên Pháp có một địa điểm khá đẹp ở gần Besançon, vùng Jura, có tên là Val d’amour

Không biết quê quán của mấy người thiết kế đô thị thành phố Đàlạt xưa ở đâu bên pháp. Có thể là những địa danh này. Bên tây có một ông ca nhạc sĩ, tên Paul Brunelle, sáng tác bản nhạc « vallée d’amour », khá lâu rồi. Không biết đó là cảm hứng để cho mấy ông tây thiết kế Đà Lạt, lấy tên để đặt hay không vì đến thời Bảo Đại thì đã đổi tên thành thung lũng Hoà Bình.

J'ai bien voyagé à-travers, le monde
L'hiver et l'été sur terre et sur l'onde
Mais le souvenir ne m'a jamais quitté
De mon beau pays et ma belle vallée

Vallée d'amour tu m'as vu naître
Vallée d'amour tu m'es ai chère
Et chaque soir je te revois lorsque je rêve
De tous les pays c'est toi qui est la plus belle
Et pour toujours je suis fidèle
À toi belle vallée d'amour


Souvent j'ai promis dans mes longs voyages
De te revenir un jour et me voilà
Car je resterai près de toi toujours
Et je vieillirai dans ma vallée d'amour

Vallée d'amour tu m'as vu naître
Vallée d'amour tu m'es si chère
Et chaque soir je te revois lorsque je rêve
De tous les pays c'est toi qui est la plus belle
Et pour toujours je suis fidèle
À toi belle vallée d'amour

Mình nghe thiên hạ nói đến Vallée d’amour, Thung Lũng Tình Yêu thời bé nhưng chỉ bò vào thung lũng tình yêu này khi học lớp 11-12 trường Văn Học. Mình quen 2 tên Phạm Thành Nguyên và Trần Văn Tiến, cựu học sinh La san Kỹ Thuật. Hai tên này bơi rất giỏi, chúng hay rủ mình vào đập Đa Thiện để dạy bơi. Lý do là mình có xe gắn máy, chúng chán bơi ở hồ Xuân Hương. Chúng chỉ mình quơ tay quơ chân rồi bỏ mình gần bờ, chúng bơi qua bên kia hồ rồi la hét nhảy múa cho mình xem, kêu gọi mình phấn đấu tập bơi như chúng.


Nếu mình không lầm thì trong vùng này có một đồn địa phương quân, phía tay trái từ ngoài chạy vào, nơi ông trung tá Tốn, đi tuần buổi sáng sớm bị mìn nổ chết. Nhà ông này ở đường Thi Sách, dưới chân đồi Domaine de Marie, to như cái đình, đối diện là nhà của ông bà Lê Công Oai. Nay thấy họ làm văn phòng của phường gì đó.

 

Ông Marcel, bố Dương Quang Trí, ở Phan Đình Phùng, có đất vườn ở đây nên anh chàng Trí hay vào đây, cày đất làm vườn cho ông bố. Lâu lâu nhà vườn hàng xóm, nhờ hắn đem xe máy cày thuê, khi ông bố không có mặt, kiếm được tiền, dẫn bạn đi ăn chè Vọng Nguyệt Lầu. Lâu lâu, Trí chạy chiếc xe Vespa Sprint, màu bạc, đến nhà, cười tài là biết mới đi cày, lao động vinh quang về. Sau này, về Đàlạt mình có ghé thăm, trước khi Trí qua đời. Mẹ của anh chàng này, rất giỏi, lái xe hàng, chạy đi mua non rau cải của dân làm vườn, nên khá giàu vào dạo ấy. Bà này là một trong những phụ nữ mà mẹ mình nể phục tại Đà Lạt.

 

Ăn cơm trưa xong, ra chợ xem bà cụ có cần chở hàng giao đến nhà ai. Sau khi chở hàng đi giao cho khách hàng, mình ghé nhà Nguyên, ở đường Tăng VĂn Danh, rồi hai thằng, bò vào đập Đa Thiện để bơi. 


Từ đường Võ Tánh, chạy lên ngã năm đai học, rẽ trái qua Phù Đổng Thiên Vương, chạy như gần hết đường này thì bên tay phải có một con đường đất mới được cày, chắc do dân làm vườn thực hiện. Vườn bà cụ trong Suối Tía, cũng phải thuê máy cày đến, cày từ đường chính vào vườn nhà mình theo chính sách tự túc tự cường. 1 tấc đất 1 tấc vàng. Mình không nhớ tên anh bạn quen, học Văn Học, ở đường Phù Đổng Thiên Vương này, vì hay ghé lại chơi, sau khi đi bơi về. Con đường này, khá đẹp, chỉ có nhà do người Việt xây sau này nên không đẹp như các biệt thự được xây cất thời tây.


Từ đường đất đỏ này chạy độ một cây số thì đến con đường nhỏ, rẽ trái xuống cái dốc rất cao. Đi xuống thì dễ nhưng khi đi lên thì châm, tên phía sau, đẫy xe lên vì chở nặng không lên được nhất là vào mùa mưa, xình đất đỏ bắn đầy người. Cái dốc này khá dài và cao như cái dốc xuống vườn nhà mình ở Suối Tía nhưng không dốc nào ở Đà Lạt cao bằng dốc Sòng Sơn. Dạo ấy xe gắn máy đa số là 50 phân khối nên lên dốc yếu, không như ngày nay.

 

Đứng đầu dốc nhìn xuống thung lũng, thấy cái hồ, được chia hai nhánh, có mấy cây thông còn đứng sừng sửng trong hồ vì họ mới xây cái đập mà thị dân Đàlạt gọi là đập Đa-thiện, vì thuộc ấp Đa-Thiện, chận nước lại, tạo nên cái hồ mới. Mình không hiểu lý do vì các nhà vườn đều nằm trên đồi, bơm nước lên khá châm. Nghe nói khu vực này có rất nhiều Việt Cộng nằm vùng nên hơi ớn khi vào đây, ráng về nhà sớm trước 3 giờ chiều. Hôm nào mình rảnh sẽ kể về sự thành lập ở ấp Hà Đông, Nghệ Tỉnh.


Không biết Việt Nam Cộng Hoà có chương trình khai thác khu vực ra sao, chỉ biết Việt Cộng nằm vùng có lần tính đặt chất nổ cái đập nhưng không bị hư hại. Ai nhớ thì cho mình biết để bổ túc. Mấy ông kẹ chỉ có giỏi về phá hoại, chớ không xây dựng được cái gì cả. Nay căn biệt thư Trang Hai, không ở nhà của ngụy được nên đập phá. Rồi sẽ đến Thuỷ Tạ bị dẹp bỏ. Tất cả các di tích của chế cũ phải được san bằng.

 

Từ trên đồi, nhìn xung quanh có mấy cái đồi khác, phía dưới là cái hồ nhân tạo, có lẻ khi cái đập Đa Thiện chưa xây, người ta gọi là Thung Lũng Tình Yêu, còn sau này dân thị xã hay gọi đập Đa Thiện vì hồ nhân tạo đã giảm bớt độ cao của đồi núi xung quanh. Tiếc là mình chưa bao giờ thấy Thung Lũng Tình Yêu, lúc sơ khai, chưa có cái hồ nhân tạo vì chắc chắn có con suối tương tự vườn nhà mình ở trong Suối Tía, chảy ra hồ Tuyền Lâm. Cũng đồi núi xung quanh với rừng thông và con suối. Nay về thì chúng phá tan hết. Kinh

 

Hình này do Kính Nguyễn gửi, theo mình đoán là khi chưa xây đập, thấy chiếc xe gắn máy kiểu trước Mậu Thân. Chỗ cặp tình nhân ngồi, mình và bạn hay lại đó ăn picnic, dưới các cây thông, đối diện cái đập. Trước khi đi Tây, gia đình mình có đến đây làm picnic. Khi họ làm cái đập, chận nước thì mấy cây thông chỗ chiếc xe Jeep bị ngập và chết. Thấy 1 phần con suối chỗ chiếc xe Jeep.


Rẽ trái chạy xuống con đường đất đỏ thì sau đó rẽ phải, chạy qua chiếc cầu nhỏ tương tự họ làm khi xây cái đập đầu tiên của hồ Xuân Hương. Nước nhiều sẽ trào qua cái đập, chảy xuống con suối, chảy về đâu mình không biết vì thời đó còn bé chỉ thích nhìn con gái Đàlạt, má hồng. Mùa mưa thì thấy nước chảy qua đập nhiều còn mùa nắng thì le te.

 

Nói đến con gái Đàlạt má hồng khiến mình nhớ đến vợ tên bạn học chung khi xưa. Cô này học trường Couvent des oiseaux , kể là đi học bị mấy bà sơ la tại sao đánh phấn. Cô nàng kêu con đâu có đánh phấn, bị phạt oan ức. Không biết con gái Đàlạt nay, có còn má hồng hay không nhờ ở cao độ, tạo Hồng huyết cầu. Buồn cười là vợ tên này la mình, bảo sao khi xưa không biết cô nàng vì cô nàng rất đẹp. Chỉ biết xin lỗi là không biết hết người đẹp Đàlạt khi xưa.

 

Chạy qua chiếc cầu thì đến cái đập, phải đậu xe ở dưới để leo lên cái đập làm bằng đá ong và xi-măng. Thường chỉ có hai thằng mình đến đây vào buổi chiều để bơi. Đa số đến vào cuối tuần. Nhiều khi nghĩ lại, cả một thung lũng, cái hồ, thiên nhiên bát ngát, chỉ dành riêng cho hai thằng, ngồi mơ mộng ngày nào đi du học. Thằng thì mong đi Gia-nã-đại, có anh du học bên ấy, thằng thì đi tây.

 

Hình này do Tuấn Lê cung cấp, chụp sau 75. Dạo ấy chưa te tua như hôm nay. Đứng trên đồi Đa Thiện nhìn xuống. Thấy cái đập, trên đó xe chạy được, sau đó chạy xuống con dốc, băng qua cái cầu nhỏ. Đồi bên tay trái là nơi mình hay đến đó với bạn và gia đình picnic. Thấy bên tay trái, có ngọn đồi bị chặt bớt những cây thông. Trong thời chiến mà Việt Nam Cộng Hoà vẫn cố gắng xây dựng, phát triển thành phố dù bị Việt Cộng nằm vùng phá hoại.


Thằng Nguyên bơi giỏi nên bơi qua phía bên kia hồ hay ra giữa hồ nơi mấy cây thông còn mình thì cứ loay hoay gần bờ cho an toàn xa lộ.

 

Lâu lâu gặp người quen vào đây chơi. Nhớ có lần gặp Mai Thế Lương, nhà ở Thi Sách gần nhà mình, khi xưa, học trường Thanh Ngọc ở đường Huyền Trân Công Chúa với mình vào mùa hè. Bố hắn là sĩ quan cấp uý tử trận, được trao tặng bảo quốc Huân chương, để trên bàn thờ. Sau này, gia đình nó dọn đi đâu, nghe nói mẹ nó thầu nấu cơm cho lữ quán thanh niên thì phải. Hết năm 9 ème, gia đình nó dọn đi, mấy năm sau tình cờ gặp lại nó với ông chú tên Khôi thì phải. Nếu mình không lầm thì nó có hai cô em gái, tên Mai Thế Lan và Mai Thế Liên. Nó cởi trần, phơi chim, ở truồng nhảy xuống hồ bơi, tự nhiên như Tây. Kinh


Hôm trước, nói chuyện với Phú ở Montreal, khi xưa ở cạnh nhà Mai Thế Lương, đường Thi Sách. Anh chàng kêu biết Nguyễn Thị Ri, nhà Phan Rang lên Đàlạt học Văn Học mà mình có kể, ông thần kêu biết Ngọc Tịnh, con ông Châu, nha địa dư. Mình hỏi bà Ngọc Tịnh thì bà này chả nhớ. Mình cũng không biết chị NGọc Tịnh dù ở cách nhà mình đâu 100 mét. Đi học chung với Tâm, con bà Tô ở Bùi Thị Xuân. Có thể cô nàng ít khi ở với ông bố nên mình không biết.


Hôm nay, lại có ông kêu ở 49C Hai Bà Trưng, khiến mình thắc mắc vì cư xá Công Chánh ngưng ở số 49B, nhà ông Robert Ngọc, nay ở Úc Đại Lợi mà tình cờ trên mạng có nhận ra mấy cô con gái của bác. Ông thần nói đến căn nhà gỗ 2 tầng ở đầu đường thì chỉ nhớ mại mại ngay cái dốc trước nhà Thằng Hải, phía sau là vườn rau, bên cạnh có đường mòn đi lên đường Thi Sách. Từ từ mình mới nhận ra, sau Mậu thân, có một căn nhà gỗ hai tầng, mọc lên gần con đường mòn đi vào đường Thi sách, chỗ nhà CÒ Đào.


Mình chỉ nhớ ông Tôn Thất Trai, dạy toán ở trường Trần Hưng đạo, lấy con gái ông Hân, rồi cắm dùi bãi đất trước nhà của cư xá, làm căn nhà ở rồi gia đình ông Hân dọn về Sàigòn, trả nhà lại cho chính phủ. Nhà mình cũng chiếm đất bên cạnh, xây căn nhà. Cho nên khó mà nhớ các căn nhà xây bú xua la mua sau Mậu thân, khi dân từ thôn quê chạy vào Đàlạt, tránh nạn, sinh sống. Thêm nạn thương phế binh cắm dùi, chiếm đất thiên hạ làm nhà, như báo trước điềm là ai có nhà đất sẽ bị cướp sau 75.


Có anh bạn kể là sau hiệp định Paris được ký kết, ông bố mua mấy chục mẫu đất trong Cam Ly, để chuẩn bị cho hoà bình. Đến khi Việt Cộng vô thì không dám nhận mình là chủ. Chán Mớ Đời 


Nói chung hồi nhỏ, chơi quanh trong xóm hay gần đó như cư xá địa dư, kiến thiết, bưu điện, xa lắm là lên đến trường Đa-Nghĩa. Lên trung học thì bắt đầu chơi với đám bạn ở xa hơn nên ít để ý dân gần nhà.


Có lần mình đang ngồi trên đập Đa Thiện phơi nắng cho khô quần. Khi xưa, đâu có màn đi bơi đem theo khăn tắm như Tây nên bơi xong, lên bờ ngồi phơi nắng dù lạnh. Khi quần lót khô thì về. Xong om.

 

Hình này, chụp từ trên đồi trước khi đi xuống cái dốc. Không biết chụp từ năm nào. Đoán là sau 1972, khi Việt Nam Cộng Hoà xây cái đập Đa Thiện để chận nước từ các đồi núi chảy về đây. Thấy các cô gái đi chơi, bận áo dài. Cái đập bị che khuất phía bên trái.

Hai thằng đang ngồi bên hồ, phơi khô quần lót thì có ông Tây đi ngang, chào rồi ông ta nhảy xuống bơi ra ngoài hồ rồi cứ đứng dơ tay như Chúa bị đóng đanh trên thánh giá ngoài hồ. Mình bơi dỡ mà gặp ông Tây đứng, nằm bất động, lại không chìm khiến mình tò mò, đợi ông ta vào bờ, phải hỏi cho ra lẻ. Dạo đó, học được đến cuốn 3 English For Today nên cũng bạo mồm hỏi ông tây.

 

Khi nói chuyện với ông ta thì khám phá ra là người gia nã đại, linh mục, dạy ở Giáo Hoàng học Viện. Ông ta giải thích ra sao mà đến nay mình vẫn chưa nằm bất động trên nước được. Tên ông là Louis Leahy. 

 

Ông ta rủ mình đi picnic đâu trên cây số 6. Tây biết rành hơn mình về Đàlạt vì chỗ này mình chưa bao giờ đặt chân đến nơi, phải để ông ta dẫn đường. Dạo ấy, sợ đi xa ngoài Đàlạt vì Việt Cộng nằm vùng, mà ông tây không sợ nên mình nể lắm, chạy theo. Đến nơi thì mình lấy bánh mì thịt mua ở cạnh Rạp Ngọc Hiệp ra ăn còn ông ta thì mở gói sandwich rồi đùi gà, trái cây đủ trò khiến mình thèm nhỏ dãi. Sau đó, ông ta đề nghị gặp nhau vào mỗi chiều thứ 4 ở giáo hoàng học viện để đàm thoại anh ngữ và việt ngữ. 30 phút đầu anh ngữ, 30 phút sau thì việt-ngữ. Ông ta dạy mình cách đọc sách nhanh,…

 

Dần dần, mình rủ mấy tên bạn đến chơi, làm quen với ông ta để đàm thoại thêm anh ngữ. Không biết chúng có tiếp tục sau khi mình đi Tây hay không. Đa số lười. Năm 75, khi Việt Cộng vào, đuổi mấy ông cha này về nước. Ông cha dòng tên này sang Nam Dương dạy học và chết tại đây.

 

Sau này, Dương Quang Trí, Võ Hoàng Đa, Trần Thiện Tân hay đi chung với tụi này vào đập Đa Thiện. Trí có cái phao cấp cứu của phi công màu vàng cam, đeo ở cổ khi rớt xuống nước để khỏi bị chìm nên hắn đem theo cho bà con mượn để tập bơi.

 

Một hôm, có chiếc xe Honda của 3 ông thần gốc tàu, học Tân Sanh chạy lại. Một tên ở cạnh rạp Ngoc Hiệp vì mình có mua đồ ở tiệm hắn, cạnh tiệm ông thầy mằng. Có lẻ chúng thấy mình bơi dỡ nên muốn chứng tỏ chúng bơi giỏi, đẳng cấp hơn sơn đen nên bơi ra ngoài hồ. Bổng nhiên thằng Nguyên kêu có thằng bơi đuối rồi, nhìn ra thì thấy một tên cứ bơi ngửa, quay xà vầng. Nay nghĩ lại chắc anh ta hoảng nếu không thì cứ bơi lại gần mấy cây thông chết giữa hồ rồi bám vào như hình dưới đây.

 

Cây thông nằm ngoài hồ mà mình kể do Tuấn Lê cung cấp. Bên tay trái là cái đập. Chỗ cái vòng xoáy nước là nơi anh chàng tàu bị chết chìm.


Rồi hai tên tàu bơi vô bờ, ú ớ đứng nhìn tên bạn khốn khổ, đang uống nước, ngáp ngáp “đừng bỏ tao một mình, trời lạnh lắm..”. Mình nói Nguyên, bơi giỏi nhất đám ra xem. Cái khổ là hôm ấy Trí, chắc mới lái xe máy cày xong ở vườn gần đó nên chạy vào luôn cho tiện, không về nhà lấy cái phao. Nguyên bơi ra hồ rồi vô lại, kêu tên này uống nước khá nhiều, thở khè khè ghê quá, không dám cứu nó sợ kéo theo. 

 

Thế là các đám đứng, mặt xanh như đít nhái, nhìn tên học sinh trường tàu từ từ chìm như mặt trời lặn giữa hồ. 3 ngày sau, người ta vớt xác lên, đám ma trước tiệm nhà tên này. Dạo đó còn bé, không có thằng nào nghĩ chạy ra đầu đường Phù Đổng Thiên Vương, mượn tên thợ vá xe, cái phao hay chạy về nhà lấy phao. Hình ảnh này cứ ám ảnh mình đến nay, không cứu người được. Cứ đứng nhìn một người chết mà không cứu. 


Sau vụ này, thằng Tân, cứ kể cho cả đám, có lần nó cứu một tên suýt bị chết đuối, hắn bơi ra, đập đầu thằng đó bất tỉnh, sợ tên này hốt hoảng, kéo dìm nó xuống nước, rồi kéo vào. Kinh. Hôm đó, có hắn ở đó, đứng nhìn tên tàu từ từ theo hà-bá, mặt nó xanh như đít nhái, bơi thì cũng ọp ẹp như mình. Từ đó mình hết tin thằng này, chúa tự anh hùng hoá như ngọn đuốc cách mạng Lê Văn Tám.


Một lần khác ở hồ Xuân Hương, ngay chỗ quán sinh hoạt của  hướng đạo Lâm Viên, mình thấy ông Phác, am Sohier, tu chai nước mắm, nhảy xuống hồ, vớt một thằng bé độ 10, 12 tuổi lên, cổng chạy vòng vòng, chân vắt qua vai ông ta, còn đầu lộn ngược xuống đất, nước ọc ọc trào ra từ miệng nhưng không cứu sống được. Chán Mớ Đời 

 

Có lần, một cặp vợ chồng ở Sàigòn lên, ghé lại đây thăm viếng. Bà vợ nói chỗ này giống ở vùng nào bên Mỹ, chắc dân du học về nhưng bà ta lại bồi thêm; nhỏ hơn và không đẹp bằng khiến mình tự ái dân tộc, tức giận. Sau này ra hải ngoại thì mới hiểu là so sánh với những phong cảnh thiên nhiên ở hải ngoại thì thung lũng tình yêu chỉ đẹp, thơ mộng nhẹ nhàng cho thị xã Đàlạt, nhỏ bé.

 

Hình này do Tuấn Lê gửi. Mình đoán là một tấm bưu thiếp nhưng không mường tượng được địa thế vì được chụp trước khi có cái hồ của đập Đa Thiện. Có thể phần này đã bị chìm dưới nước. Thấy con đường mòn và đường chạy vòng vòng lên đồi. Ai nhớ, có thể định vị được thì cho em biết để khỏi thắc mắc trong đầu. Cảm ơn trước.


 Năm 12B, mình có tổ chức picnic với nhóm bạn, có mời mấy cô vào đây. Hai chị em Mai Thanh và Phi Nga, và Bích Thuỷ, còn mấy cô kia thì không dám kể vì không chắc. Mình mượn xe jeep của ông cụ để chở mấy cô, mấy cậu ở tuổi dậy thì. Mấy cô mấy cậu dẫn nhau đi đâu, gặp bộ da rắn lột xác để lại, teo bu-ri. Thằng Đa xớn xác sao đạp bể cái kính của mình, để trên bờ khi xuống tắm. Phải tốn tiền ra tiệm Anh Lân. Sau này, con gái tiệm Anh Lân có mời mình và bà cụ ghé nhà chơi ít ngày. Không biết chúng bạn tìm đâu ra cái bè, chèo ra ngoài hồ chơi. Chắc của hướng đạo làm rồi về để lại.  

 

Ngày cuối cùng học 12, từ giả đời học sinh, mình và thằng Nguyên đi bộ vòng vòng khu Hoà bÌnh, ghé tiệm Vĩnh Chấn, mua ổ bánh mì, vừa đứng trú mưa ở rạp Hoà BÌnh vừa gặm ổ bánh mì. Ai ngờ sau đó hai thằng bị đau một trận, chả học thi Tú tài gì cả. Một hôm, mình bò lại nhà nó kêu vào đập Đa Thiện bơi. Nói đau cho đau luôn. Ai ngờ tắm xong thì về nhà khoẻ hẳn lại nên từ đó mỗi ngày, hai thằng bò vào đập Đa Thiện tắm. Khi đi thi Tú tài, mình gặp đám bạn học cùng lớp, mặt tên nào tên nấy như thịt bò tái chanh, thiếu nắng trong khi mình thì đen như cột nhà cháy. Không hiểu sao lại đậu rồi được đi du học. Cuộc đời lạ thật!

 

Lần cuối mình vào đập Đa Thiện, trước khi đi du học, ông cụ đưa bà cụ và mấy đứa em vào đập, lên phía đồi thông, trải chiếu ra, ăn xôi, đủ trò. Đó là lần cuối gia đình mình họp mặt đông đủ trước đại nạn dân tộc. Sau này, anh em người mất người còn phân tán khắp nơi trên thế giới.

 

Về Đàlạt, mình có dẫn vợ đến thung lũng này nhưng chán vì được thương mại hoá quá, mất vẽ đẹp thiên nhiên của thời mình mới lớn. Nghe nói năm 1972, họ mới xây cái đập nên mình còn thấy mấy cây thông bị ngập nước. Nay thì không còn thấy nữa.

 

Khi xưa, mình đến đập Đa Thiện, nhìn lên các đồi thông vây quanh, tạo ra thung lũng đồi núi đẹp. Vắng vẻ, ít ai vào đây trong tuần, mình như đơn côi, hoà tan vào trong thiên nhiên, nay thì toàn là du khách đứng chụp hình, tạo dáng, ngoài hồ thì có xe đạp nước, hình mấy con thiên nga xấu xí. Nghĩ lại mình quá may mắn đã trải qua một thời, hưởng được cái không khí trong lành, một mình một cỏi trong thung lũng vắng vẻ này. Đó là một diễm phúc trời đã ban cho. Chán Mớ Đời 


Nhs

Chích ngừa 2021

 Dạo này thiên hạ hồ hởi khi nghe nói các công ty dược phẩm đã tìm ra thuốc chích ngừa covid-19, tình nguyện chích ngừa, thấy phó tổng thống xung phong đủ trò nhưng không biết có phải là thuốc chích ngừa thiệt hay chỉ là đòn chính trị.

 

Tin tức về thuốc chích ngừa mới ra lò, được thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn, được FDA chấp thuận quá nhanh khiến mình nhớ đến trẻ em bị bệnh tự kỷ vì thuốc chích ngừa có chất mercury mà tỷ lệ trẻ em Hoa Kỳ bị bệnh này lên đến 10%.

 

Cách đây 60 năm có vụ tai tiếng về thuốc thalidomide, đã khiến mấy chục ngàn trẻ em trên thế giới bị khuyết tật khi ra đời. Có người không tay không chân mà người ta gọi Thalidomide Children.

 

Vụ này khiến tổng thống Kennedy, phải lên đài truyền hình kêu gọi người Mỹ phải lục xét tủ thuốc nhà họ và quăn đi loại thuốc này, được xem là thuốc an thần. Bà tiến sĩ của FDA đã bác bỏ, không cho sử dụng thuốc này được tổng thống Kennedy vinh danh huy chương lớn nhất trong ngành y-khoa.

 

Gần đây mình có kể vụ OxyContin đã khiến biết bao nhiêu người Mỹ bị nghiện thuốc giảm đau và nghèo vì mỗi tháng phải tốn đến $600 tiền mua thuốc.

 

Vụ thuốc Thalidomide do một công ty dược phẩm đức bào chế, ngày nay người ta khám phá ra đã được thí nghiệm dưới thời đức quốc xã, trong các trại tập trung và các khoa học gia người đức này không bị kết án tù về tội ác chiến tranh, và được tiếp tục làm việc lại.

 

Người ta ước đoán có trên 10,000 trẻ em bị khuyết tật vì bác sĩ cho mẹ của họ, uống thuốc này trong thời gian mang thai. Phụ nữ hay chóng mặt vào buổi sáng khi có bầu nên bác sĩ cho họ uống loại thuốc này và hệ quả, sinh con bị khuyết tật. Với đầu óc con chiên ngoan cường, gọi đó là thử thách của Chúa. Chúa tạo ra con mình như vậy hay nói theo nhà Phật là cái nghiệp kiếp trước nên kiếp này, gặp ông bác sĩ kê toa loại thuốc mới ra lò, chưa biết ảnh hưởng phụ ra sao.

 

Thường thường trước khi ra thị trường, các công ty dược phẩm, phải thử lâm sàng. Ở Hoa Kỳ, họ nói bác sĩ kê toa này để bệnh nhân uống rồi theo dõi nhưng rất sơ sài, không kiểm soát cẩn thận như ngày nay.

 

Nghe kể ở Hoa Kỳ, họ cho đâu 20,000 người thử loại thuốc này. Họ nói với mấy bà mang thai như Alka-Seltzer. Có bà kể uống đâu có vài viên mà khi sinh con ra thì cụt ngón tay, tay ngắn,… huống chi uống mỗi ngày trong 9 tháng.

 

Năm 1957, thalidomide được bán trong các tiệm dược phẩm như một loại thuốc an thần, bào chế bởi công ty đức Chemie Grünenthal, và người đứng đầu toán nghiên cứu là tiến sĩ Heinrich Mückter, được xem là tội phạm chiến tranh của chế độ Đức Quốc Xã, thử nghiệm thuốc trong các trại tập trung.

 

Thuốc được chấp thuận không cần thử nghiệm với phụ nữ và dần dần họ bán theo danh nghĩa thuốc an thần. 2 công ty dược phẩm Hoa Kỳ; Smith, Kline & French giao cho một số bác sĩ để cho bệnh nhân uống thử và không cho biết là thalidomide, và được gọi SK&F #5627. Cuối cùng các thí nghiệm dược phẩm không thấy hiệu nghiệm nên bỏ chương trình này.

 

Trong khi đó một công ty dược phẩm khác ở Cincinnati tên Richardson-Merrell, bán thalodomide ở Gia nã Đại dưới tên Kevadon, bắt đầu tiếp thị trên thị trường Hoa Kỳ trong khi chờ đợi FDA chấp thuận. FDA không chấp thuận thương mãi hoá thuốc này vì kết quả thử nghiệm của một nữ tiến sĩ cho thấy không khả quan lắm. Cuối cùng công ty dược ở đức rút thuốc này ra khỏi thị trường vì ngại có những di hại cho trẻ em.

 

Chỉ có ở Anh Quốc thì thuốc này vẫn được bán tiếp tục bởi công ty dược phẩm Distillers Company, nổi tiếng với các loại rượu mạnh như Johnny Walker từ năm 1958 đến năm 1961 thì được rút khỏi thị trường.

 

Thuốc này gây hơn 10,000 vụ hư thai và có trên 2,000 trẻ em khuyết tật, một số chết sau vài tháng chỉ còn lại đâu 466 người tại Anh Quốc. Có một bà kể là ông chồng muốn giết đứa con tật nguyền nhưng bà ta không chịu nên ông ta chạy đi kiếm chân dài khác.

 

Còn lại các quốc gia khác như Đức quốc, Tây Ban Nha, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Gia NÃ Đại, Áo quốc,…cũng bị dính vào vụ thuốc này. Mình chỉ lướt sơ sơ không nặng như ở Anh Quốc.

 

Nguy hiểm nhất là các công ty dược phẩm đóng góp tiền tranh cử cho các đại biểu quốc hội hay cho người của họ vào các chức vụ của chính quyền như ông Biden mới bổ nhiệm bộ trưởng canh nông là cựu tổng giám đốc của công ty Monsanto, một công ty thực phẩm và nông sản, chuyên bán hạt giống GMO, và đang bị kiện đền mấy trăm triệu cho ông nào bị bệnh ung thư vì sử dụng Roundup,…nay được công ty dược phẩm nổi tiếng Đức Bayer mua lại. Công ty dược phẩm mua công ty thực phẩm là dân tình ngọng nữa. Bán thức ăn độc hại rồi cho uống thuốc để trị bệnh. Kinh

 

Báo chí tránh nói đến hay quốc hội không muốn điều tra vụ này. ở Anh Quốc, có một phóng viên bền chí của tờ Sunday Times, điều tra và làm áp lực để 50 năm sau, chính phủ Anh Quốc phải lên tiếng xin lỗi người dân Anh Quốc vì muốn dấu nhẹm vụ này.

 

Ông phóng viên này kể là khi đăng những tấm ảnh trẻ em thiếu tay thiếu chân thì đọc giả than phiền nhưng tờ báo vẫn tiếp tục đăng. Có lẻ nhờ vậy mà ngày nay, chúng ta thấy bình thường khi gặp một người khuyết tật đi ngoài đường.

 

Công ty dược phẩm bị thưa ra toà, cấm không được đăng các bài phỏng vấn các nạn nhân và tìm cách đền cho họ, mỗi gia đình 2,000 bản anh nhưng cuối cùng thì vụ kiện này thắng và công ty này phải trả 20 triệu bản anh 50 năm về trước, có thể xem mấy trăm triệu ngày nay.


Khi sự việc xảy ra thì công ty Distillers tìm cách hạn chế số tiền đền bù nhưng đến khi các người dân Anh Quốc, bắt đầu tẩy chay sản phẩm của họ thì họ phải xuống nước, đền với đúng giá chăm nuôi con mấy chục năm đến khi cha mẹ chết.

 

Mình có quen một vị bác sĩ gốc việt, sau này ông ta mở một văn phòng để thử nghiệm thuốc mới của các công ty dược phẩm và có đem thuốc về Việt Nam để thử nghiệm. Nếu dân ở Việt Nam bị lộn xộn thì chả có ai thưa kiện dùm họ.


Trong thời kỳ bao cấp. Mình ở Ý Đại Lợi, có quen tên dược sĩ người ý. Hắn cứ đem cho mình thuốc mới mà các công ty dược phẩm mới cho ra lò để bác sĩ kê toa uống thử. Mình gửi về Việt Nam để bà cụ mình bán kiếm tiền nuôi mấy người em và ông cụ ở trại cải-tạo. Ai lỡ uống thuốc mình gửi thì xin nhận đây lời xin lỗi vì mình đã tạo nghiệp xấu. Sinh viên nghèo nên kiếm được gì gửi về Việt Nam là mừng rồi.

 

Đại dịch đang làm thiên hạ chết nhiều, nghe nói trên 330,000 người tại Hoa Kỳ trong năm nay. Bệnh ung thư giết trên 500,000 người mỗi năm tương tự bệnh viêm phổi cũng sát hại gần nữa triệu người Mỹ mỗi năm.

 

Chúng ta cần bình tỉnh đợi, kết quả lâm sàng ra sao vì mới có mấy tháng mà đã cho sử dụng thuốc này ngay. Được biết là các người có hệ miễn nhiễm tốt thì không bị lây lan. Họ khám phá trên 5,000 người nuôi ong ở vùng nuôi ong lớn nhất thế giới là Vũ Hán bên Trung Cộng, không bị ảnh hưởng gì cả. Lý do là họ có hệ miễn dịch tốt nhất vì bị ong chích hoài giúp hệ  miễn dịch mạnh thêm.


Xem như 90% mật ong được bán trên thị trường thế giới đều được sản xuất từ Trung Cộng. Họ pha chế với đường của gạo để qua mặt các phòng giảm định. Họ đưa cho các nước lân cận, dán nhãn hiệu để bán. Mình xem phim tài liệu về vụ này thì thấy một bà người Đức, chỉ trên mấy điện toán. Mật ong dán nhãn hiệu madze in Việt Nam mà các phấn hoa đều từ Trung Cộng. Chán Mớ Đời 


Tốt nhất là mua mật ong trong vùng mình đang sinh sống. Ong trong vùng hút nhuỵ hoa trong vùng để tạo ra mật ong. Mua mật ong Madze Trung Cộng thì ngọng cho dù là mật ong thật 100% vì phấn hoa khác nhau. Các phấn hoa lạ sẽ xâm nhập vào đường ruột của mình và làm khó dễ hệ miễn nhiễm.


Ai muốn mật ong thì mình sẽ đặt hộ với ông Mỹ nuôi ong trong vườn mình, không pha chế. Hôm qua, có chị quen nhờ mua mật ong. Chị ta kể là bị dính co-vi mấy tháng trước, này đỡ rồi, chị uống mật ong nên thấy khoẻ hơn.

 

Cách tốt nhất là tự giúp hệ miễn nhiễm của chúng ta mạnh thêm bằng cách tập thể dục, ăn uống dinh dưỡng tốt lành, không phá hoại đường ruột, nơi tuyến đầu chống trả các vi khuẩn lạ xâm nhập cơ thể.


Ông anh vợ mình nghe  nói cứ nằm ngủ li-bì, không ăn nên chị dâu kêu đồng chí gái sang động viên. Cuối cùng chở vào bệnh viện thì kêu ông anh vợ bị cô-vi nhẹ nên 2 mẹ con đi thử nghiệm. Có cô y tá đến nhà lấy nước dãi nơi cổ họng khỏi mất công đi đâu cho xa, phải đợi chờ.


Đùng cái, kết quả về thì thằng con bị dương tính còn đồng chí gái thì âm tính khiến mình đi đến chùa ở Bolsa thử nghiệm. Mấy tuần nay, không thấy gửi kết quả gì cả. Mình đoán nếu âm tính thì họ không gửi.


1 tuần lễ sau, thằng con thử nghiệm lại, sau 1 tuần cách ly, ăn ngoài phòng khách thay vì ở bếp với bố mẹ. Kết quả lại âm tính, mình và đồng chí gái đều âm tính. Con gái mới từ pháp về thì tước khi lên máy bay đều phải thử là âm tính thì họ mới cho lên máy bay.


Mình chả hiểu, thằng con nói chắc bị dính khi đi DMV để làm bằng lái xe lại, nó làm việc tại nhà có tiếp xúc ai đâu. Chán Mớ Đời 


Cuối cùng thì mình nhận được bản kết quả của hôm đi thử ở chùa. Âm Tính. Hú vía

 


Nhs

 

 

 

 

 

Ăn đậu ngừa bệnh ung thư

 Mình có kể là phân tử của đường được gọi là Neu5Ac niêm-mạc mạch máu và đường ruột trong khi thịt các thú vật chúng ta ăn, có phân tử tương tự là Neu5Gc, kích thích sự tấn công vào các niêm mạc của mạch máu chảy về tim. Chỉ khác nhau ở “A” và “G”.

Phản ứng miễn dịch này đưa đến bệnh tim mạch đồng thời giúp cho ung thư tăng trưởng. Khi tấn công này xẩy ra, sẽ tạo ra các hormone được gọi “Vascular endothelial growth Factor (VEGF), khuyến khích tạo dựng các tế bào ung thư.

 

Các thử nghiệm cho thấy các cục bướu ung thư trong cơ thể con người chứa rất nhiều Neu5Gc, mặc dù cơ thể của chúng ta không thể tự cấu tạo chúng, người ta cho rằng do sự ảnh hưởng của sự tiêu thụ chất đạm thú vật giúp tăng trưởng các bướu ung thư.

 

Có một thử nghiệm của đại học Leeds, Anh Quốc; người ta xét trên 32,000 phụ nữ suốt trên 17 năm, người ta nhận thấy các người ăn nhiều  thịt có tỷ lệ ung thư đường ruột rất nhiều so với người không tiêu thụ các loại đường.

 

Ty-thể trong các tế bào ung thư không thể sử dụng các Ketones để tạo năng lượng như các tế bào khoẻ mạnh bình thường. Khi lượng insulin thấp và lượng đường và chất đạm ít thì cơ thể tạo ra các Ketones. Do đó trường phái dinh dưỡng Keto, khuyến khích không ăn tinh bột để tránh có đường và ăn chất đạm để cơ thể tạo ra các Ketones tạo năng lượng cho cơ thể và giảm chất béo.

 

Các tế bào ung thư rất cần nhiều chất đường, hơn tới 18 lần các tế bào bình thường. Do đó muốn diệt tế bào ung thư thì không nên bồi dưỡng chất đường. Mình đọc trên trang nhà nổi tiếng về ung thư thì đa phần thấy họ quảng cáo các công thức làm bánh ngọt, quảng cáo các công ty thực phẩm chế tạo toàn đường, đem đến bệnh ung thư. Lý do họ được bảo trợ bởi các công ty này, để tránh bị mang tiếng xấu, khiến người tiêu dùng bị ung thư. Họ có thể khoe là đóng góp rất nhiều trong các nghiên cứu ung thư.

 

Năm 1920, bác sĩ người đức, Otto Warburg đoạt giải Nobel sau khi khám phá ra tế bào ung thư ưa chuộng và được nuôi sống nhờ đường. Ngày nay, người ta khám phá thêm là các tế bào miễn dịch, không tạo ra năng lượng tương tự tế bào ung thư khi lượng insulin thấp.

 

Do đó người ta cho rằng nếu chúng ta cản trở sự tiếp thu chất đường và chất đạm của thú vật, chúng ta có thể giảm cơ nguy bị bệnh ung thư.

 

Dinh dưỡng phương tây lại khuyến khích tiêu thụ đường và thịt. Khi xưa, ở nhà nấu nồi thịt kho, ăn cả nhà 12 mạng. 18 năm trời ở Đàlạt, mình ăn beefsteak một lần trước khi đi tây. Qua tây năm khi 10 hoạ mới ăn Steak vì khá đắt, còn ở mỹ ăn Hamburger, steak mệt thở.


Các tế bào ung thư rất ưa chuộng các fructose trong trái cây, do đó chúng ta tiêu thụ trái cây có chừng mực trong giai đoạn nhất định trong năm.

 

Các nghiên cứu gia của đại học Duke, cho thấy các tế bào ung thư ruột tăng trưởng cao khi lượng fructose cao và có thể di căn đến lá gan. Cứ 5 năm mình đi soi ruột. Lần đầu tiên thì bác sĩ lấy ra 5 cục thịt sư, lần thứ 2 thì chỉ còn 3 do mình ăn uống cẩn thận lại. Hy vọng lần sau sẽ không thấy nữa, đỡ tiền bác sĩ, vì công lấy mấy cục thịt dư là tính tiền mệ thở.

 

Mình theo phương pháp keto mấy tháng thì thấy cơ thể không ổn, bị nóng nảy (cơ thể bị nhiệt), nên chấm dứt và ăn rau cải nhiều hơn để giúp các mạch máu tái tạo lại tốt hơn.

 

Mình có xem phim tại liệu bên Úc đại lợi, một ông bác sĩ bị bệnh tim mạch và đã lành bệnh sau 5 năm ăn uống rau cải, không tiêu thụ thịt.

 

Bác sĩ khuyên ăn các thứ sau đây để tránh bị ung thư:

 

Đậu: đại học Yale nghiên cứu về sự liên đới cái chết và bệnh ung thư đường ruột vào giai đoạn 3. Họ nhận thấy nếu người ta tiêu thụ 2 phần tiêu chuẩn đậu hay nhiều hơn trong tuần thì có đến 425 giảm bệnh ung thư tái phát và 57% giảm tỷ lệ tử vong. Họ kêu ăn đậu là cách chữa bệnh ung thư hữu hiệu nhất.

 

Khi mình ăn đậu thì thấy không đói nên tò mò. Hoá ra, đậu có rất ít Methionine, loại amino acid mà mTOR tìm kiếm để tìm năng lượng. Khi methionine hiện diện thì cơ thể đang thời kỳ tăng trưởng. Khi ăn đậu thì lượng methionine thấp nên gửi tín hiệu cho cơ thể là chúng ta đang giảm, giúp chống lại các tế bào ung thư sinh trưởng.

 


Viện quốc gia y tế (national institutes of Health) ở Maryland cho rằng ai mà ăn các loại đậu cao cấp như hạt điều, hạnh nhân, pistachios, óc heo,.. sẽ có 26% tỷ lệ thấp hơn bị bênh ung thư phổi hơn người không ăn đậu.


Chúc các bác một ngày vui vẻ bên gia đình.

 

Nhs