Giáng sinh cuối cùng tại Đàlạt

 Gần đến giáng sinh lại nhớ vài kỷ niệm về Đàlạt xưa khi thế giới chào đón ngày chúa Giê-su ra đời. Nếu mình không lầm thì gần đến giáng sinh, trời Đàlạt rất lạnh, gió thổi mạnh, ai nấy ra đường đều phải bận áo len hay áo manteau. 

Tối ngủ, nghe tiếng gió rít lên trong không gian, thổi qua dàn hoa dã-quỳ sau nhà rồi thông qua các cục gạch lỗ thông hơi, thường được xây trên các cửa sổ và cửa. Trời lạnh mà gió lại thổi vào phòng, cái mền nhà binh mà ông cụ đem về khi giải ngủ, không chống được cái lạnh thời ấy.

 

Khí hậu tại Việt Nam ẩm ướt nên người ta hay xây các cục gạch thông hơi trên các cửa sổ, cửa ra vào để bớt độ ẩm. Cô em mình mới cho thợ làm nhà lại, thêm phần chống độ ẩm sau 50 năm. Mình là trưởng nam nhưng chả làm gì cả, cô em út một tay lo hết. Cho nên sinh con gái thì nhờ. Con trai thì bên vợ nhờ. Ngày nay người ta nói con trai là con người ta, con rể mới là con nhà mình. Người Việt muốn sinh con trai để tặng không cho thiên hạ, đã nói lên lòng tốt của người Việt từ mấy ngàn năm qua.

 

Ông cụ giải ngủ, nhờ tướng Nguyễn Chánh Thi, anh chú bác của ông ngoại mình can thiệp, đem về gia tài của mấy năm đi lính từ 18 tuổi, khi bị du-kích ở làng, tìm cách giết, chạy trốn vào Nam. Gia tài gồm 1 hộp cứu thương y-tá, mấy ống kim chích, kéo để cắt các băng-bó, cái mũ cối bằng sắt, được bà cụ sử dụng làm cái cối để quết thịt với cái chày và cái mền nhà binh, màu cứt ngựa. Ngoài ra có cái huy chương anh dũng bội-tinh, tuyên dương công trạng, chạy dưới mưa đạn của Việt Cộng để băng-bó cho đồng-đội bị thương. Mình không nhớ trận nào, Đồng Xoài hay Pleime. Lâu quá, chắc sau 75 thì đã phi tang dấu tích của chế độ cũ.


Dạo ông cụ mới giải ngủ, chưa có công ăn việc làm thì đi chích dạo vì từng làm y-tá trưởng trong quân đội. Khi ông Bảo Đại thoái vị, ông cụ từ Ngự Lâm Quân, được chuyển qua quân đội mới thành lập của ông Diệm nên được cử đi học y-tá hay tham mưu để lên sĩ-quan. Bà cụ nói học y-tá để sau này có cái nghề, bạn quân ngủ của ông cụ sau này đều là tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Sau này, giải ngủ học thêm ban đêm ở trường Thăng Long (Hiếu Học), thi đậu vào ty Công Chánh cùng thời với ông Đượm nên ngưng nghề chích dạo.


Sau này đi tù cộng-sản, nhờ kinh-nghiệm y-tá chiến trưởng nên đã cứu vài người bạn tù sống sót. Có một anh bị tù chung với ông cụ, kể là nếu không có ông cụ cứu trong tù thì đã chết. Sau này, anh ta hay đến nhà thăm bố mình. Mình có ghi-âm vụ ông cụ kể vị bác sĩ quân-y Việt Nam Cộng Hoà, chỉ cách cứu chữa bệnh cho lính ngoài mặt trận nên khi đi tù, cứu được khá nhiều người.

 

Thời còn bé, mỗi lần giáng sinh thì sáng hôm sau, mình bị ăn đòn. Ông cụ hay đi nhảy đầm vào đêm giáng sinh hay Tết tây với bạn bè. Khi tan tiệc, Ông cụ hay đem 1 hay 2 cái bong bóng dùng để trang hoàng về cho con. Ông cụ để bong bóng bay ngoài phòng khách rồi đi ngủ.

 

Sáng mình dậy sớm với cô em kế, thấy bong bóng lơ lững đụng trần nhà thì cứ nhảy lên để chụp sợi dây buột cái bong-bóng nhưng không được vì cao quá nên hai anh em bàn tính làm sao để lấy, bắt ghế thì nặng nên phải kéo lê dưới sàn nhà, gây tiếng động, làm ồn khiến ông cụ ngủ không được nên khi dậy, ông đem cái chổi lông gà ra quất mình một trận.


 Một sáng, sau đêm Noel thì mình thấy một chiếc xe 2 CV đậu ngoài sân, họ lấy cục gạch chắn cửa của nhà mình để chận cái bánh xe đàng sau. Mình tức vì thấy họ lấy cục gạch mà không xin phép nên rủ cô em kế, tìm cách lấy cục gạch lại.

 

Khi cục gạch được lấy ra thì mặt cô em xanh như đít nhái, miệng ú ớ chỉ chiếc xe, không người lái từ từ chạy lui về sau theo con dốc. Mình thất kinh, ú ớ, đứng một chỗ rồi không biết làm gì đến khi chiếc xe từ từ như cuốn phim quay chậm, chạy thụt lùi, từ-từ đụng cây Mái, rớt xuống cái đường mương, nghe cái Rầm nghiên qua bên phải.

 

Hai anh em sợ quá chạy vào nhà, trốn dưới giường cả buổi sáng. Bà Hai, hàng xóm, la hét, kêu thằng Sơn đâu rồi. Mình không hiểu lý-do, cứ trong xóm có chuyện gì lạ lạ, bất thường, thiên hạ cứ định hướng về mình như truy tìm thủ phạm. Chán Mớ Đời 


Cạnh nhà mình có gia đình ông Khoa, bố của anh Bình, dạy con nít trong xóm. Anh Bình, đi theo cách mạng rồi bị bắt, đày ra Côn-đảo, sau được tha, đổi tên, làm thầy giáo gõ đầu trẻ trong xóm. Chỉ tội là học trò, không đứa nào thi đậu vào trường Trần Hưng Đạo và Bùi Thị Xuân. Mình gặp lại chúng ở trường Văn Học như Huỳnh Kim Sang, Phạm Văn Bình. Mình nhớ thằng Dư và thằng Sửu, được xem là học trò cưng của anh Bình, cũng thi rớt.

 

Anh Bình có một cô em gái chưa chồng, tên C, hay ăn diện, không biết làm nghề gì. Giáng sinh cô đi ăn tiệc, nhảy đầm rồi ông tây nhà đèn, chủ nhân chiếc 2CV chở về rồi ngủ lại nhà đêm đó nên đậu xe trước sân. Chiếc xe cũ, không có thắng tay nên ông Tây nhà đèn, lấy cục gạch mà gia đình mình dùng để chắn cửa khi mở ra để khiên đồ vào. Khiến mình bị la oan ức hôm sau.


Có một giáng sinh khá đặc biệt, khi mình chơi với thằng Hùng, con bác Lê Công Oai, làm trên Trung Tâm Thẩm Vấn. Nghe nói bác chuyên bắt nằm vùng Đàlạt, thằng Hùng kể bác ấy phải đi moi thùng rác, kiếm các hòm thư của dân nằm vùng. Nếu mình không lầm thì thằng Vui, ở xóm mình, bị bác theo dõi bắt. Có lần bác chở hai thằng đi tập võ ở Adran. Chưa tới giờ tập nên lên trung tâm thẩm vấn chơi, bác dắt đi, mở một xà-lim rồi kêu tên nào trong ấy, khai đi rồi được thả về.

 

Mình thất kinh khi thấy thằng Vui ngồi trong xà-lim vì khi xưa hắn hay chơi bắn bi với mình trong xóm. Hắn hơn mình độ 3, 4 tuổi, học trường Trần Hưng Đạo. Bổng nhiên thấy hắn mất tích nay mới biết là nằm vùng. Sau đó mình có cái nhìn nghi ngờ về đám bạn học, tự hỏi thằng nào nằm vùng. Trong lớp có vài tên mình nghi, vì ăn nói rất chống ông Thiệu, sau này về Đàlạt thì bạn bè mới xác-nhận. 

 

Một hôm, ông Ưng Quyền, bác của chú Bửu Ngự, hỏi mình có muốn con chó cái không. Chó nhà mới sinh, ông ta lựa hai con để nuôi, cho con chó mẹ và mấy con chó con khác. Mình nói nhà đã có chó rồi, để cháu hỏi bạn cháu. Mình thấy thằng Hùng hay đi xin chó thiên hạ nên hỏi thì nó cười như thằng Bờm được Phú ông tặng nắm xôi. Mình dẫn nó đến nhà ông Ưng Quyền để hắn xin chó.

 

Con chó cái nhà ông Quyền rất dữ, mình ít khi dám vào nhà này vì nó. Thằng Hùng thì không sợ chó, nó đem theo sợi dây với cái mõm chó. Hình như nó có uy lực với chó. Nó quơ tay làm sao mà cái đồ buột mõm chó dính vào rồi thò tay quấn qua cổ con chó cái sợi dây xích rồi kéo con chó đi về, trên đường Hai Bà Trưng, rẽ vào hẻm khu nhà Cò Đào, hai ông thần thợ may Sơn và Tánh. Con chó cứ rị lại, thằng Hùng thì kéo sợi dây. Mình rất phục tài bắt chó của tên bạn một thời.

 

Nó kêu mình ghé lại nhà nó, trước nhà trung-tá Tốn, ăn réveillon khiến mình mừng mệt thở vì cứ nghe thầy cô nói về réveillon mà chưa bao giờ thưởng thức. Đúng ngày giờ, gia đình nó đi lễ ở nhà thờ cạnh Nhà Xác về thì nó chạy xe Honda của bố nó, chở lên ăn réveillon. Bố nó người gốc Thừa Thiên, còn mẹ gốc Quảng,

 

Thằng này to xác nhưng thấp người, ăn rất khoẻ. Mỗi lần đến nhà mình ăn cơm là nó quơ cái rẹt 4 chén mới ngưng. Dì Nhơn phải nấu cơm thêm. Lâu lâu mình cũng được mẹ nó kêu ở lại ăn cơm. Cơm nhà nó chỉ có cơm với rau luộc của Đàlạt, chấm nước mắm thêm cái hột vịt luộc dầm ớt ở trong cái chén.


Khi xưa, cả nhà ăn một cái hột vịt trong chén nước mắm, nay ở mỹ thì vào tiệm ăn sáng, họ làm cho omelette đến 3 quả trứng. Kinh

 

Hôm đó, không biết sao nhà nó làm cơm rất thịnh soạn, thịt nướng, dồi trường,….Dọn đầy mâm, chắc để mừng chúa cứu thế, mình ước thầm ngày nào cũng có chúa ra đời. Nếu mình không lầm thì nhà nó có cái bàn ăn thấp, rồi mỗi người có cái đòn để ăn. Không có bàn cao như ở nhà mình với ghế đẩu. Bác Oai lo bắt nằm vùng nên không có thì giờ kiếm tiền thêm cho vợ con. Nhà có cuộn dây kẽm gai tròn để kéo ra khi đóng cổng khi trời tối, sợ nằm vùng đột nhập. Có lần cạnh nhà mình trên đường Thi Sách, nhà ông Đề, giám đốc trung tâm thẩm vấn, có nằm vùng tìm cách đột nhập vào nhưng bị mấy cái lon bia, coca gắn nơi cuộn hàng rào kèm gai, báo động. Mình nghe tiếng súng đủ trò. Phòng mình nằm ngay đường Thì Sách và các dốc từ Hai BÀ Trưng lên Thi Sách.

 

Hôm đó mình ăn rất nhiều, bác Oai gái rất ân cần, thân tình như người trong nhà, kêu mình ăn thêm món dồi, gắp cho mình món thịt luộc chấm, bới món Tiết canh, khác với mọi lần mình ở lại ăn cơm, khuôn mặt không được vui lắm khi thấy mình và cơm nhanh không kém thằng Hùng. Có thể nói là bữa ăn ngon miệng nhất tại nhà bạn của mình thời ở Đàlạt. Hôm đó, mình được Chúa đãi.

 

 Ăn xong mình xin phép ra về, mình nói với thằng HÙng ăn réveillon ngon quá, sang năm nhớ rũ tao. Nó nói mày ráng xin con chó là được liền. Mình hỏi tại sao xin chó, nó kêu có chó mới có thịt mà ăn. Mình hỏi thịt hôm nay là thịt chó nhà ông Ngự, nó gật đầu. Mình thất kinh chạy về nhà, kể cho Mệ ngoại mình khiến bị mệ chửi te-tua.  Từ đó sợ đến già, không dám ăn thịt chó nữa. Đi đâu cũng thấy chó gầm gừ, chạy xe gắn máy, chó ngửi mùi chó, chạy theo sủa vang trời, chân phải co lên trời để khỏi bị chó táp.

 

Kỷ-niệm khác với thằng Hùng, nhớ đời với hắn. Hy vọng có ngày gặp lại hắn để ôn lại chuyện này. Hắn tập Thái Cực Đạo với mình nên hay xuống nhà chơi. Con nít thì giỡn nhau, xịt nước, khiến bà Thường hàng xóm ngủ trưa không được nên bà ta hay la nó vì hay nhái giọng bắc kỳ của bà. Bà này, khi xưa, con gái bà ta sinh con xong là sáng nào cũng đem cái cốc, sang nhà mình kêu mình đái trong đó để cho cô con gái uống bổ chi đó. Đó là thời vàng son của mình, được phụ-nữ xin nước tiểu.

 

Một hôm, nó đến nhà mình chơi, hai thằng không biết chuyện gì chơi vào buổi trưa nên mình rũ lên gác trên trần nhà, đi qua nhà hàng xóm chơi. Gia đình mình ở cư xá Công Chánh, một dãy nhà gồm 7 căn hộ, được xây dính chùm vào nhau. Cách thiết kế của pháp khi xưa là mỗi căn hộ được chia làm 2: phần nhà ngủ và nhà bếp và phòng ăn phía sau. Có 6 căn hộ, ở giữa, có căn hộ chính, để làm nhà hội cho mấy gia đình, tiệc tùng hay hội họp. Mình thấy cư-xá Pasteur trên đường Thi Sách, nhà của thằng Cường, sau này đi Võ Bị, cũng là nhà hội cho dân cư-xá Pasteur. Còn nhà vệ-sinh thì phải đi về phía cuối xóm, có nhà vệ-sinh gồm 3 căn, 2 phòng tắm và 1 hồ chứa nước để giặt quần áo.


Sau này, mấy gia đình đông con, nhà hội dành để ở nên mỗi gia đình tự làm thêm cầu tiêu, nhà tắm sau nhà để khỏi phải đi cầu tiêu công cộng.


Nhà tầng trệt nhưng dưới mái nhà lại ăn thông với nhau. 3 căn nhà nằm hai bên căn nhà hội, sau này được trưng dụng để ở luôn. Dạo ấy nhà ông Khoa, anh Bình dọn đi thì gia đình ông Tước dọn đến từ Ban-mê-thuột.

 

Mỗi căn được xây bằng hắc-lô lên tới nóc nhà nhưng ở giữa có cái lỗ ăn thông qua nhà bên cạnh. Mỗi nhà đều có một tấm gỗ trên trần nhà để có thể gỡ ra, leo lên để xem xét điện được câu vào nhà. Mình có leo lên thám hiểm một vài căn nhưng tối om, chuột nên sợ, không dám đi đến cuối xóm nay có thằng HÙng thì mình muốn đi xa xa để xem.

 

Nghe nói trò chơi thám hiểm là nó nhất trí ngay, hai thằng đu tòn-ten lên trần nhà, mình đi trước, hắn theo sau. Mình dặn hắn là cẩn thận, đi trên mấy cái đà, không được dẫm lên tấm gỗ trần nhà của nhà người ta trên đường đi. Mới qua nhà bà Thường thì đến nhà bà Tước.

 

Để giải thích rõ hơn vì có mấy O hàng xóm khi xưa, mới tìm lại năm nay, sẽ đọc bài này. Hy-vọng mấy o ni còn nhớ chuyện này để bổ túc thêm vì mình không nhớ rõ. Mái nhà nghiêng nên chỗ đỉnh cao nhất của nóc nhà mới đi được. Chỗ nhà bà Tước thì cái mái được xây cao hơn nên hai cái tường được xây cao hơn nên họ để một cái lỗ nơi tường, không bít gạch để đi qua nếu cần.

 

Mình đi qua nhà ông Mãn, bà Thường thì không sao, đến nhà ông Tước thì có tường xây lên cao và chỉ có một cái lỗ độ 30 cm x 40 cm. Mình kêu thằng Hùng cẩn thận, mình chui qua được nhưng đến phiên thằng này chui qua lỗ thì có chuyện. Hắn to con nên chui không qua, xớn-xác nó làm rớt một cục gạch trên trần nhà nghe cái rầm khiến mình đứng tim.

 

Ở dưới nhà mình nghe: “Tèo làm gì đó, ngủ đi”, tiếng nói của chị TC, nay đã qua đời. Hai thằng tái mặt, quýnh quá mình ra hiệu thằng Hùng quay lại. Nó vừa xoay đầu thì mình nghe cái rầm. Thấy nó lọt xuống nhà bà Thường rồi các tiếng loạn xà-ngầu tạo nên một loại âm thanh khá độc đáo.

 

Hoá ra, lúc quay lại, thằng hÙng, quên, thay vì đứng trên các đà, nó dẫm chân lên tấm gỗ của trần nhà, nơi có chỗ leo lên gác của gia đình Bà Thường. Tấm gỗ này lại nằm ngay vị trí bàn thờ tổ tiên của gia đình này nên khi thằng hÙng té xuống thì rớt ngay trên bàn thờ nhà thiên hạ, làm lư đèn, chuối nải rơi hết xuống đất. Cũng may là Chúa đỡ nó, rớt xuống bàn thờ thì độ cao bớt cả nếu rớt ngay xuống đất từ 2.5 mét là gãy giò.

 

Mình sợ quá, chạy về nhà rồi nghe tiếng bà Thường la hét, chửi đồ mất dậy. Mày phá bà, không cho bà ngủ,… mình chạy lại nhà bà Thường, mặt thơ ngây, hỏi chuyện gì vậy thì thấy thằng Hùng từ từ đi ra cửa, mặt mày nó ngơ ngơ, ngáo ngáo hỏi tao ăn cơm chưa, tao ăn cơm chưa, dù trước đó đã xơi 4 chén cơm với nước mắm ớt ở nhà mình, trong khi bà Thường chửi hắn mê tơi rồi chỉ mình kêu thằng này xúi dục. Mình ngơ ngác, ngây thơ, nói cháu đâu biết gì.

 

Sau này, vợ chồng chú Minh, rể bà Thường, trung uý quân-cụ chỗ trước ấp Sòng-sơn, qua nhà kể cho bà cụ mình nghe. Hai vợ chồng đang ngủ thì thấy thằng Hùng nhảy xuống bàn thờ Phật, tưởng Việt Cộng nằm vùng nấp trên nóc nhà, xuống để bắt giết chú Minh, nên hai hai vợ chồng sợ quá muốn đứng tim. Sau này qua Văn Học, mình hết chơi với nó, hắn học dưới mình 1 lớp, tiếp-tục học ở Adran.

 

Giáng sinh cuối cùng ở Đàlạt là năm mình học đệ nhất. Có mấy tên trong lớp rũ đi ngắm gái. Đàlạt đêm đó đông không thể tả. Hình như tất cả giới trẻ đều ùn ra phố đông như kiến. Xe chạy chật đường, mấy tên tha hồ lạn xe để biểu diễn cho mấy cô. Chán Mớ Đời 

 

Dạo ấy trong đám học chung, có tên Trí, con ông Marcel, đang đả thông tư tưởng con gái của bác Tám, tiệm chè Mây Hồng ở đường Tăng Bạt Hổ. Hồi nhỏ mình hay chơi với con trai của bác, tên Hải và Phước vào chợ Tết vì bác trai nấu bánh tét dùm cho nhà mình. Nay lên đệ nhất thì học chung với chị hai tên này. Mình gọi cô nàng là chị trong khi mấy tên học chung lại xưng tên, nên chúng kêu mình phải gọi chúng bằng anh. Chán Mớ Đời 

 

Mấy thằng rủ nhau đi một vòng khu Hoà Bình, rồi chạy xuống Minh Mạng, chạy lên Duy Tân rồi ghé lại Chè Mây Hồng, ở Tăng Bạt Hổ, đóng đô mấy tiếng đến giới nghiêm thì về. Hình như hôm ấy, có thằng Đa, Tài, Trí, Nguyên, Mình và Đức, con tiệm thuốc tây ở ngã ba chùa. Đàlạt dạo ấy có chè Mai-Hường ở đường Minh Mạng là nổi tiếng nhất, sau đó thì có vài tiệm bắt chước mở nhưng không nhớ rõ lắm. Mại mại đường Minh Mạng chỗ dốc Nhà -Làng có một tiệm, Vọng Nguyệt Lầu ngay góc Tăng bạt Hổ. Đó là những tiệm mình hay ghé lại ăn.

 

Dạo ấy, giới học sinh ở thị-xã chỉ biết vào quán chè nghe nhạc rồi về, đám sinh viên thì vào cà-phê. Dân giàu như Hùng Con Cua thì tham dự các Boum tại nhà ông lớn nào đó. Năm 1992, khi mình về Đàlạt lần đầu thì đúng ngày lễ trung thu, ra phố với mấy cô em thì thấy thiên hạ cũng đông như vậy nhưng không có xe gắn máy như xưa.

 

Nếu nói đến Giáng sinh Đàlạt khi xưa mà không nhắc đến hội chợ từ thiện ở lãnh-địa đức Bà (kermesse Domaine de Marie), thường được tuổi chức hàng năm trong mấy ngày cuối tuần ở dòng tu này, trên đường Ngô Quyền. Mình có kể vụ này trong bài lịch sử Domaine De Marie rồi.

Nhà thằng HÙng, nơi mình ăn thịt chó lần đầu tiên, đối diện nhà Trung Tá Tốn

Giáng sinh cuối cùng tại Việt Nam thì mình ở Sàigòn, ngày mình nhận được sổ thông hành và chiếu khán của toà đại sứ pháp và mấy ngày sau lên đường du-học. Gần 20 năm mới trở lại Đàlạt.

 

Mình tính ở lại vài tuần, ăn Tết ta rồi đi Tây nhưng Việt Nam Cộng Hoà vừa mất Phước Long, bố mình kêu đi nhanh, sợ chính phủ không cho xuất ngoại. Do đó, bạn bè sau này gặp lại, kể bổng nhiên thấy mình biến mất khỏi Đàlạt. Mấy người này biết nhà mình nhưng không ghé hỏi. Chán Mớ Đời 

 


Nhs

 

 

Nhớ về Thầy Cô

Nhớ về thầy cô

 

Hôm trước, có người gửi mình lịch sử của trường Lasan Adran, nhờ mình viết một bài về trường nơi mình có học vài năm. Lang thang vào Facebook của cựu học sinh trường, mình khám phá ra nhiều tấm ảnh học sinh cũ về thăm các thầy sư huynh trong các viện dưỡng lão, rất cảm động.

 

Khi xưa, học Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nói về một vị tướng danh tiếng của Pháp quốc, sau chiến tranh kết thúc, về thăm làng cũ, ghé thăm trường xưa, gặp lại vị thầy giáo cũ, chào hỏi ân cần thầy cũ của mình, rồi nói với các học sinh trong lớp, phải nhớ ơn thầy. Sau này, ông ta đắc cử tổng thống Pháp quốc.


Dạo ấy, học bài giáo khoa này, mình cũng mơ như mọi người, một mai sẽ ca khúc Khải hoàn về thăm trường cũ, sẽ nói những lời như ông Jean Carnot . Sau này về thăm Đàlạt, thì trường cũ đều biến mất, chỉ còn trường Grand Lycee nhưng họ không cho vào.

 

Nhìn ảnh học trò cũ và gia đình thăm viếng các thầy sư huynh, những hình ảnh của những Jean Carnot đương đại. Họ có thể không phải quan to, cán bộ lớn nhưng đã nói lên tình nghĩa thầy trò, lòng cảm ơn của học trò đối với các thầy cô ngày xưa. Nhất là các sư huynh này, không nhận lãnh tiền lương gì cả khi xưa, chỉ làm bổn phận của kẻ thừa sai.

 

Cách đây 3 năm, mình có cơ hội tham dự hội ngộ với cô giáo việt-văn tại Cali. Rất cảm động khi thấy học trò từ Việt Nam, âu-châu, Gia-nã-đại và khắp nơi bay về thăm cô-giáo. Nhìn mấy cô học trò cũ, nay đã lên chức bà nội, bà ngoại, cầm tay cô giáo, hỏi han thấy tình thầy trò rất đẹp. Cha mẹ cho ta sự sống, thầy cô cho ta trí tuệ, khai trí sự vô minh.

 

Mình về Đàlạt, cơ duyên được bạn học cũ chở đi thăm một người thầy cũ, đã thay đổi cuộc đời mình. Ngày xưa, một anh bạn học cũ rủ mình đến thăm thầy ở nhà. Thầy khuyên mình cố gắng học, đậu cao để đi du học, khỏi phí cuộc đời. Thăm thầy bị bệnh, không ngồi được nhưng thầy vẫn nhớ đến lá thư của thầy viết giới thiệu mình cho đại học pháp khi mình xin du học. 

 

Sau 75, thầy bị đày đi trại cải tạo, đời sống khó khăn, vợ thầy theo người khác. Sau này ra trại, cuối tháng có anh bạn học cũ, rủ thêm mấy người học trò cũ của thầy đi thăm, luôn tiện tặng hiện kim cho thầy, giúp kinh tế cho thầy trong tuổi già. Sau cuộc chiến, kẻ thất trận đi tù, về già không có tiền hưu trí như bộ-đội cụ hồ. Lần sau, mình về thì đúng ngày thầy mất. Học trò kéo nhau đi đưa đám rất đông.

 

Khi mình chào thầy về, thầy nói là thương anh bạn học cũ hơn con ruột vì anh ta chăm sóc, đến thăm thầy. Thầy cô nhiều khi nói một câu gì, kể một câu chuyện có thể thay đổi một cuộc đời của học sinh. Như các thiên sứ gửi một thông điệp của thượng đế hay của Bồ tát đến các học trò.

 

Khi xưa đi học, mình không được thầy cô yêu mến chi cả. Có lẻ mình học cực ngu, như bèo dạt mây trôi nên thầy cô chả để ý. Qua Văn Học, có lẻ gần gần hơn nên có bạn nhớ, có thầy không quên nhờ cái tính ba lơn của mình.

 

Mình chỉ có 4 cô giáo còn toàn là thầy cho nên nhớ mấy thầy nhiều hơn là nhớ mấy cô giáo. Không nhớ năm 11 ème, học với ai, chỉ nhớ năm 10 ème thì học với một bà đầm, có lẻ lai mít, HCC có gửi cho tấm ảnh của lớp chụp chung, không nhớ tên. Chỉ nhớ cuối năm, bà ta đè đầu mình ra bắt chí, không cho mình nuôi chí thì nên. Năm 9 ème thì học cô Huệ, nhà đâu cạnh trường Văn Học. Đang học khơi khơi, cô giáo này đi tây, bà vợ ông proviseur của Grand Lycée, tên Decroix dạy thế. 

 

Lên Grand lycée thì có học Việt văn với cô Ngô Thị Liên, không nhớ gì hết ngoài bằng bằng Trắc Trắc, thơ Đường luật, thơ muối tiêu, thêm thơ lục bát chi đó. Hết 5 chữ rồi đến 6 chữ 8 chữ. Thời đó, học ba cái này thấy mệt chi lạ cho đến ngày nay mình vẫn không thích thơ phú chi cả. Nhớ làm luận; có đề tài nghỉ hè, sau khi học bài:" kỳ nghỉ hè, em về quê, nhà ta ở cạnh bờ đê...", mình viết: hè này, em đi nghỉ mát ở Sàigòn,... khiến cô Liên đọc cho cả lớp nghe nên mình bị chọc quê vì chưa bao giờ đi Sàigòn nên đâu biết xứ này nóng kinh khủng. Cứ nghe ai cũng nói đi nghỉ mát ở Đà Lạt nên bắt chước viết đi nghỉ mát ở Sàigòn. Viết để thấy mình ngu lâu, ngu có căn bản, cơ địa chớ không ngu kiểu sách vở. 

 

Dạo học Petit Lycée, có một ông thầy dạy Việt ngữ, không nhớ tên, không phải thầy Tường. Ông ta làm mình thích giờ việt ngữ, vì ông ta hay kể chuyện kháng chiến chống tây. Ông ta cứ bảo cả lớp im lặng, chịu khó học cho nhanh, không nói chuyện, sau đó ông ta kể chuyện. Dạo ấy còn con nít nên thích nghe kể chuyện, đứa nào đứa nấy, trong lớp ngồi im, chăm chú học đánh vần i a i cà rết... Cứ gần cuối giờ là ông ta kể chuyện thời ông ta đi kháng chiến. Những câu chuyện này đã cấy trong đầu mình, tinh thần yêu quê hương, và ghét tây từ đó đến khi sang Tây, mê đầm quên hết thù nhà

 

Dạo qua học Văn Học, có một ông thầy dạy thế, vì thầy giáo như bộ tam sư đổi hộ khẩu qua trường Việt Anh rồi mấy thầy khác, giảng dạy ở trường Võ Bị, bị ra lệnh bởi cấp trên nên không được dạy Văn Học nhưng có thể dạy các trường khác. Có ông thầy tên Hùng dạy Quang Học, hình như tên Cao Thế Hùng, vào lớp tuyên bố: không được dạy Văn Học thì cũng không dạy Việt Anh luôn. Cả lớp vỗ tay, buồn buồn vì xa thầy.

 

Giáo sư của các lớp đệ nhị cấp, đa số là giảng viên của trường Võ Bị nên dạo đó, thầy CBA phải chạy kiếm thầy mệt thở. Cuối cùng thì có mấy thầy từ Trần Hưng Đạo qua dạy. Trong thời gian kiếm thầy mới thì có mấy thầy dạy tạm thời. 

 

Trong mấy thầy dạy thế thì có một thầy dạy sinh ngữ thì phải. Ông này cứ kêu cả lớp học hành, chăm chú thì sẽ dành 15 phút cuối để kể chuyện xi nê. Ngồi viết lại mới thấy ông thầy này giỏi, dùng cái mẹo để học sinh yên lặng trong lớp. Ông này có tài kể chuyện, ai nấy đều chăm chú nghe, ngay con ruồi bay qua cũng không thèm đập. 

 

Mình nhớ ông ta kể hai phim: "the kid" của Charlie Chaplin và "Người ăn cắp xe đạp" của Vittorio De Sica. Ông thầy có khiếu kể đến nổi mấy nữ sinh, thường lệ ăn quà lén trong lớp, ngồi chăm chú như nghe Út Trà Ôn hát tình anh bán chiếu. Khi sang Ý, mình phải đi xem tất cả các fim ý cũ về thời sau đệ nhị thế chiến. Nhờ ông thầy này mà mình mê xi nê. Thời vàng son của nghệ thuật thứ 7 của ý đại lợi. Dạo có video thì mướn tất cả fim của Charlie Chaplin. Hình như fim "the kid", mình có coi chiếu ngoài trời ở sân chùa Linh Sơn khi họ làm lễ cầu an, đúc cái chuông đồng.  

 

Nói đến xi nê, có lần mình kể về fim coi ở rạp Ngọc Lan, có thần đồng Joselito đóng. Mình nhớ lại là tựa fim là "les deux gamins", nói về cậu bé con nhà giàu bị bắt cóc, để chuộc tiền nhưng rồi bị bể, lớn lên đi hát chung với đứa em, con của gia đình nuôi. Sau này thì tìm lại được cha mẹ. 

 

Ông thầy dạy được vài tuần thì thầy CBA kiếm được tất các thầy từ Trần Hưng Đạo sang nên không còn được nghe thầy này nữa. Bù lại thầy Hà Mai Phương, dạy sử địa thì lại nghe thầy nêu lên chính sách bài tàu kinh hồn. Thầy nói không bao giờ mua hàng ở tiệm của người gốc Hoa. Việt Nam bán đắt hơn nhưng mua để giúp người Việt làm giàu. Thầy Phương làm mình suy nghĩ; muốn làm chuyện gì thì phải sẵn sàng hy sinh. Thầy muốn giúp người Việt làm giàu nên phải trả giá đắt hơn là mua của người hoa. 

 

Nhớ khoảng thời gian này có một ông thầy dạy vật lý được một lần rồi biệt tích. Ông thầy người Huế, tự xưng là đang học thêm cao học. Lúc làm toán thì sai nên mình kêu không đúng làm ông ta quýnh lên, sửa lại tùm lum, cuối cùng mình phải lên bảng giải. Lần sau không thấy thầy trở lại, thế vào là anh chàng Trương Chí Dũng thì phải, người nhỏ con, sinh viên đại học Đà Lạt, kèm bài tập.

 

Nói đến dạy kèm bài tập, dạo ấy có một anh chàng chắc sinh viên triết, ôn các bài tập hai môn đạo đức học và luận lý. Anh chàng người Huế, hay sửa lưng thiên hạ đọc sai tên Émile Durkheim, một nhà xã hội học, người Pháp. Cái giọng Huế của anh chàng đọc khá vui. Qua tây, lâu lâu gặp con đường tên của ông này là nhớ đến anh này. 

 

Dạo này mình hay liên lạc với thầy Hồ Thanh Tâm, dạy Sử địa. Thầy đã cho mình mượn cuốn sách 100 hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí. Lần đầu tiên đọc thơ của Trần Dần và những tài liệu về ngoài Bắc quê của ông cụ mình khiến mình say say ngất ngây, hồi hộp vì đọc tài liệu từ miền Bắc. Có lẽ cuốn sách này đã khai mở mình về chính trị, giúp mình suy nghĩ về chiến tranh. 

 

Có thầy Đan Đình Soạn, dạy trường Chính Tranh Chính Trị, dạy môn Công Dân Giáo Dục. Cô Thuỷ có rủ mình đến nhà thầy ở trên trong hẻm gần Hội Việt Mỹ. Thầy cho mượn cuốn sách triết nhưng nuốt không vô đành trả lại cho thầy. 

 

Thầy Nguyên dạy hình học, cho biết cuộc tình trai gái như hai đường thẳng song song sẽ gặp nhau ở vô cực nhất là trong hình học không gian 3 chiều thì chịu thua. Mấy đối tượng thấy trong sân trường mà không dám nhìn hay mở mồm, đành hẹn nhau tại vô cực. Hè vừa rồi gặp được thầy trong 5 phút. Không ngờ thầy còn nhớ đến mình dù chỉ học có một năm. Thầy kể có viết thư giới thiệu cho đại học bên tây khi mình xin ghi danh. Học trò vẫn nhớ ơn thầy nên hàng tháng rủ nhau đi thăm. Nếu không có thầy khuyên mình ráng học rồi đi tây thì có lẻ cuộc đời mình chắc sẽ có kết cục khác. Dạy toán thì nhớ thầy Lý Công Thuận, du-học ở MỸ về, dạy trường Võ-bị, bận cái áo sơ-mi màu gấc của trường thầy.

 

Có lẻ mình mến nhất là thầy An, dạy Việt văn năm 11B. Cả tuần chỉ mong đến giờ thầy để nghe thầy luận về tình yêu. Thời đó mới lớn nên cứ nghe bàn đến tình yêu như Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt là cứ há mõm ra mà nghe. Trong lớp không có ai phá phách cả. Mấy năm trước trong  một lần phỏng vấn, mình có hỏi thầy kết cục về Đoạn Tuyệt, để giải-mả thắc mắc cứ đeo đuổi mình từ mấy chục năm qua.

 

Thầy nói anh chị nào yêu nhau thì dắt nhau ra thác Cam Ly, đem theo lon sơn Bạch Tuyết rồi lấy cây cọ, viết tên của mình lên đá với trái tim bị mũi tên đâm thủng, rồi nắm tay nhau thề sông có cạn núi có mòn tình chúng ta chỉ tan vở khi nào hảng sơn Bạch Tuyết xụp tiệm thì mới tan. Ai ngờ một năm sau Việt Cộng vô nên bao nhiêu cuộc tình đều theo gót chân của hảng sơn Bạch Tuyết. Lâu lâu thấy thầy viết trên diễn đàn Văn Học, phổng nghĩ phổng suy như tiếp tục vai trò của người thầy dù ngày nay tóc thầy và trò đều bạc như nhau.  

 


Hồi nhỏ, học văn chương Pháp, có nghe nói đến ông Albert Camus, thầy bảo kiếm sách của ông này đọc nhưng lười, không có tiền mua sách thêm có đọc cũng không hiểu nên chả biết i tờ chi về ông. Sau này sang Pháp thì mới tò mò tìm đọc sách của vị khôi nguyên giải Nobel về văn chương.

 

Cảm động nhất là đọc lá thư của ông ta, viết cho ông Germain Louis, người thầy dạy tiểu học, sau khi đoạt giải văn-chương. Gần hai năm sau ông ta mới nhận được lá thư hồi âm của người thầy đã giúp ông ta vượt qua khó khăn của tuổi thơ, khi cha ông tử trận trong đệ nhất thế chiến, để lại một người mẹ bị bệnh.

 

Ông sinh ra tại Algerie, Fi châu, thuộc địa của Pháp như Nam kỳ và Bắc kỳ dạo đó. Cha mất sớm, mẹ bị bệnh tật nhưng nhờ sự giúp đỡ của người thầy, ông ta đã đậu tú tài và tốt nghiệp đại học ở Fi Châu rồi được bầu khôi nguyên Nobel về văn chương.

 

Mình mượn lá thư của ông Albert Camus, viết cho thầy của ông ta để cám ơn các thầy cô, đã một thời dạy mình. 

 

19 novembre 1957

 

Cher Monsieur Germain,

J'ai laissé s'éteindre un peu le bruit qui m'a entouré tous ces jours-ci avant de venir vous parler un peu de tout mon cœur. On vient de me faire un bien trop grand honneur, que je n'ai ni recherché ni sollicité. Mais quand j'ai appris la nouvelle, ma première pensée, après ma mère, a été pour vous. Sans vous, sans cette main affectueuse que vous avez tendue au petit enfant pauvre que j'étais, sans votre enseignement, et votre exemple, rien de tout cela ne serait arrivé. Je ne me fais pas un monde de cette sorte d'honneur mais celui-là est du moins une occasion pour vous dire ce que vous avez été, et êtes toujours pour moi, et pour vous assurer que vos efforts, votre travail et le cœur généreux que vous y mettiez sont toujours vivants chez un de vos petits écoliers qui, malgré l'âge, n'a pas cessé d'être votre reconnaissant élève.

Je vous embrasse, de toutes mes forces.

Albert Camus

 

… 18 tháng sau mới có thư trả lời của người thầy cũ, cho thấy ông thầy không muốn lấy điểm, đã giúp người học trò được học bổng.

30 Avril 1959

 

Mon cher petit,

(...) Je ne sais t'exprimer la joie que tu m'as faite par ton geste gracieux ni la manière de te remercier. Si c'était possible, je serrerais bien fort le grand garçon que tu es devenu et qui restera toujours pour moi « mon petit Camus».

(...) Qui est Camus ? J'ai l'impression que ceux qui essayent de percer ta personnalité n'y arrivent pas tout à fait. Tu as toujours montré une pudeur instinctive à déceler ta nature, tes sentiments. Tu y arrives d'autant mieux que tu es simple, direct. Et bon par-dessus le marché ! Ces impressions, tu me les a données en classe. Le pédagogue qui veut faire consciencieusement son métier ne néglige aucune occasion de connaître ses élèves, ses enfants, et il s'en présente sans cesse. Une réponse, un geste, une attitude sont amplement révélateurs. Je crois donc bien connaître le gentil petit bonhomme que tu étais, et l'enfant, bien souvent, contient en germe l'homme qu'il deviendra. Ton plaisir d'être en classe éclatait de toutes parts. Ton visage manifestait l'optimisme. Et à t'étudier, je n'ai jamais soupçonné la vraie situation de ta famille, je n'en ai eu qu'un aperçu au moment où ta maman est venue me voir au sujet de ton inscription sur la liste des candidats aux Bourses. D'ailleurs, cela se passait au moment où tu allais me quitter. Mais jusque-là tu me paraissais dans la même situation que tes camarades. Tu avais toujours ce qu'il te fallait. Comme ton frère, tu étais gentiment habillé. Je crois que je ne puis faire un plus bel éloge de ta maman.

J'ai vu la liste sans cesse grandissante des ouvrages qui te sont consacrés ou qui parlent de toi. Et c'est une satisfaction très grande pour moi de constater que ta célébrité (c'est l'exacte vérité) ne t'avait pas tourné la tête. Tu es resté Camus: bravo. J'ai suivi avec intérêt les péripéties multiples de la pièce que tu as adaptée et aussi montée: Les Possédés. Je t'aime trop pour ne pas te souhaiter la plus grande réussite: celle que tu mérites.

Malraux veut, aussi, te donner un théâtre. Je sais que c'est une passion chez toi. Mais.., vas-tu arriver à mener à bien et de front toutes ces activités ? Je crains pour toi que tu n'abuses de tes forces. Et, permets à ton vieil ami de le remarquer, tu as une gentille épouse et deux enfants qui ont besoin de leur mari et papa. A ce sujet, je vais te raconter ce que nous disait parfois notre directeur d'Ecole normale. Il était très, très dur pour nous, ce qui nous empêchait de voir, de sentir, qu'il nous aimait réellement. « La nature tient un grand livre où elle inscrit minutieusement tous les excès que vous commettez.» J'avoue que ce sage avis m'a souventes [sic] fois retenu au moment où j'allais l'oublier. Alors dis, essaye de garder blanche la page qui t'est réservée sur le Grand Livre de la nature.

Andrée me rappelle que nous t'avons vu et entendu à une émission littéraire de la télévision, émission concernant Les Possédés. C'était émouvant de te voir répondre aux questions posées. Et, malgré moi, je faisais la malicieuse remarque que tu ne te doutais pas que, finalement, je te verrai et t'entendrai. Cela a compensé un peu ton absence d'Alger. Nous ne t'avons pas vu depuis pas mal de temps...

Avant de terminer, je veux te dire le mal que j'éprouve en tant qu'instituteur laïc, devant les projets menaçants ourdis contre notre école. Je crois, durant toute ma carrière, avoir respecté ce qu'il y a de plus sacré dans l'enfant: le droit de chercher sa vérité. Je vous ai tous aimés et crois avoir fait tout mon possible pour ne pas manifester mes idées et peser ainsi sur votre jeune intelligence. Lorsqu'il était question de Dieu (c'est dans le programme), je disais que certains y croyaient, d'autres non. Et que dans la plénitude de ses droits, chacun faisait ce qu'il voulait. De même, pour le chapitre des religions, je me bornais à indiquer celles qui existaient, auxquelles appartenaient ceux à qui cela plaisait. Pour être vrai, j'ajoutais qu'il y avait des personnes ne pratiquant aucune religion. Je sais bien que cela ne plaît pas à ceux qui voudraient faire des instituteurs des commis voyageurs en religion et, pour être plus précis, en religion catholique. A l'École normale d'Alger (installée alors au parc de Galland), mon père, comme ses camarades, était obligé d'aller à la messe et de communier chaque dimanche. Un jour, excédé par cette contrainte, il a mis l'hostie « consacrée» dans un livre de messe qu'il a fermé ! Le directeur de l'École a été informé de ce fait et n'a pas hésité à exclure mon père de l'école. Voilà ce que veulent les partisans de « l'École libre » (libre.., de penser comme eux). Avec la composition de la Chambre des députés actuelle, je crains que le mauvais coup n'aboutisse. Le Canard Enchaîné a signalé que, dans un département, une centaine de classes de l'École laïque fonctionnent sous le crucifix accroché au mur. Je vois là un abominable attentat contre la conscience des enfants. Que sera-ce, peut-être, dans quelque temps? Ces pensées m'attristent profondément.

Sache que, même lorsque je n'écris pas, je pense souvent à vous tous.

Madame Germain et moi vous embrassons tous quatre bien fort. Affectueusement à vous.

Germain Louis

 

Đọc lá thư của người thầy giáo cũ mới hiểu vì sao thế giới có một Albert Camus. Ông ta nhắn gửi người học trò cũ, dù danh vọng lên tột đỉnh, đừng quên bổn phận đối với vợ con và khen sự hy-sinh của mẹ ông ta, đã chạy đôn chạy đáo lo cho con ăn học dù người cha đã qua đời. Nói đến căn bản của giáo dục mà khi xưa, bố ông ta, vô-ý xếp kinh thánh , đã bị trục xuất khỏi lớp.

 

Mình đọc tiếng Việt trên iPhone thay vì viết. Cái chức năng này khá hay, chỉ tội là hơi chậm.

 

Nhs

Cây Noel năm ấy

 Sáng nay lên vườn để họ thanh tra hệ thống tưới nước thì nghe podcast nói về cây giáng sinh năm nay lên giá độ 20% so với hàng năm khiến mình nhớ đến những năm học tiểu học ở Petit Lycée Yersin Đàlạt.

Mình nhớ Giáng sinh năm đó vì những giờ cuối học với cô Huệ trước khi cô đi du học bên Tây. Như mọi năm, trước khi nghỉ lễ Giáng sinh, ông planton đem một cây thông vào để trong lớp, sau đó học sinh và thầy cô trang trí, thường lấy giấy màu rồi xếp ngôi sao, làm guirlandes,.., lấy giấy màu loại láng, mua ở tiệm sách Thiên Nhiên hay Khai Trí ở đường Minh Mạng, cắt theo khổ 2 cm, nối thành vòng tròn như sợi dây xích, gắn lên tường và cái nào đẹp thì được treo lên nhánh cây thông. 

 

Học sinh phải vẽ cây thông rồi lấy võ hột gà, đập nát rồi dán lên theo hình cây thông. Mình có hỏi cô Huệ về sự tích của Chúa Giê Su, người công giáo ăn thịt chó,..thì cô cười nói đừng tin họ. Mình nhớ cô treo cái ngôi sao to tổ chảng ở trên đầu ngọn cây, tượng trưng cho chúa Giê Su, để nhớ khi ngài ra đời thì có một ngôi sao rất to và sáng, báo tin vị cứu tinh của nhân loại đã xuất hiện khiến ai cũng tò mò đi theo hướng ngôi sao và dẫn đến máng cừu nơi chúa sinh ra đời.


 

Năm đó cả lớp được cô Huệ dạy hát hai bản nhạc; "mon beau sapin" và "j'ai perdu le Do de ma clarinette" mà mình nhớ đến giờ. Gia tài của mình về nhạc tây sau 10 năm trường tây, 7 năm học bên Tây chỉ vỏn vẹn hai bài này. Sau này nghe kể mình du học bên tây, mấy cô hay kêu mình hát nhạc tây nhưng chỉ biết hai bài này. Chán Mớ Đời 

 

Sang Tây, ngồi vẽ trong lớp nổi hứng hát bài "j'ai perdu le Do de ma clarinette " làm tụi bạn học Tây đầm cười nức nở, được giải thích là bài hát này dựa theo một bản nhạc xưa của quân đội Napoleon, " le chant de l'oignon ". Thời gian sinh sống tại Thụy Sĩ lại khám phá ra bài "mon beau sapin" được dịch từ một bản nhạc dân quê của Đức "O Tannenbaum" tương tự bài "Lily Marlène " mà khi đánh nhau trong thế chiến, lính Tây và Đức nằm trong giao thông hào đều hát bài này, tâm sự người lính xa nhà, có lần mình được cô bạn người Đức ở Đan Mạch dạy lời, khá buồn.

 

Mấy tuần trước khi nghỉ mùa đông, cô Huệ cho tập hát rồi ngày liên hoan đến; đám con gái hát bài "mon beau sapin" còn đám con trai hát "j'ai perdu le Do de ma clarinette". Nếu mình không lầm thì cháu nội cụ Sâm, ở đường Hùng Vương, có lần mình học tư hè với cụ. Nhà cụ ở dưới vườn phía sau gần nhà đèn, giữa hai biệt thự ở đường Hùng Vương, có con đường nhỏ đi xuống, qua hai mảnh vườn thì đến nhà cụ Sâm, được xây bằng gỗ. 

 

Cụ có một người con trai đi du học bên Pháp, lấy vợ đầm, năm 1972, có đem vợ đầm về thăm Đà Lạt, mình có gặp. Cháu nội cụ Sâm tên Thanh thì phải, đại diện đám con gái hát bài Mon beau sapin. Mỗi nhóm có 5 học sinh đại diện để hát, con trai thì có một tên hát rất hay nên hát phần chính, không nhớ tên còn 4 thằng con trai trong đó có mình được bà cô chọn hát điệp khúc. Cứ rống "au pas camerade, au pas au pas..."vừa hát vừa nhịp chân, hai tay quơ quơ như gà mái vỗ cánh ngáp ngáp khi mới ngủ dậy nhưng mình cứ vênh mặt lên rống cho to và nghề ca sĩ của mình cũng chấm dứt từ đó.

 

Mình chia tay với thầy cô rất nhiều nhưng có lẻ lần chia tay với cô Huệ năm đó làm mình buồn nhất. Hôm trước ăn bún bò Mụ Diễm thì mấy ông thần Yersin xưa, đưa xem hình cô Huệ ở bên tây nên nhớ lại cô giáo rất hiền này ngày xưa. Mình chỉ nhớ cô đeo kính cận thị, tóc ngắn kiểu uốn quăn. Có lần trời mưa đứng dưới préau, trong giờ thể thao thì cô Huệ chỉ cho đám học sinh nhảy cao. Vì bận jupe nên nhảy cao làm cô ấy té cái bịch khiến thằng Tây dạy lớp bên cạnh cười khì khiến đám học trò của cô càng căm thù tây. 

 

Có lần cô hỏi cả lớp đánh vần chữ Twist nhưng không có ai trả lời đúng, có một tên viết đúng theo tiếng Việt "Tuýt" nên được Bon Point. Năm đó bà cụ mình gói tặng cô một bộ ly, lúc ra về thì cô kêu đám con gái đem quà của cô vào văn phòng thì có một con học chung, nhà ở đâu cạnh abattoir bê gói quà của mình nên mình dặn ả cẩn thận, tuần vừa rồi Mai Thanh và Thu Thuỷ gửi hình thì mới khám phá ra cô bé ngày xưa bê gói quà, nay ở bên Pháp là ca sĩ tên Lệ Thu, garage STT ngày xưa hát rất chiến. Hôm trước có một cô cựu Yersin cũng gửi lên diễn đàn, giọng hát cũng nức nở. Mình có gặp lại cô này tại nhà mình, Tú-Anh đem lại nhưng cô nàng không nhớ mình. Chán Mớ Đời 

 

Có lẻ vì sắp đi Tây nên cô Huệ kể nhiều về xứ này, về tuyết rơi,... như một cơn gió thổi cuộn về dòng sông tuổi thơ, đưa cánh buồm khát vọng của đứa bé ra biển tìm về một phương trời xa xăm mà cô sẽ sang đó. 


Sau này lập gia đình, mình hay phụ đồng chí gái và mấy đứa con trang trí cây giáng sinh để tìm lại chút hương vị của thời thơ ấu, thời bình yên, một thời để nhớ.


Không ngờ mấy năm sau, cũng vào ngày mà thế giới chào mừng vị cứu thế ra đời, Việt Nam Cộng Hoà vừa mất Phước Long, Sàigòn đang sôi động với những cuộc biểu tình, biểu ngữ đả-đảo Việt Cộng, vi phạm hiệp định Paris, chiếm đóng Phước Long. 4 giờ chiều hôm đó, mình bước ra khỏi bộ Nội Vụ cầm trong tay sổ thông hành và chiếu khán của toà đại-sứ pháp đi Tây mấy ngày sau đó.

 


Nhs

 

La valse dans l’ombre

 Hôm nay, trên mạng có người nhắc đến phim “la valse dans l’ombre” khiến mình nhớ có xem phim này tại rạp Ngọc Lan vào năm học đệ nhị. Lâu quá, không nhớ rõ cốt truyện, ngoài phim đen trắng.

3 phim xem tại rạp Ngọc Lan về tình yêu khiến mình cảm động nhất là Love Story , Mùa Hè 42 và La Valse dans l’ ombre , để lại dấu ấn đến ngày nay.

Coi phim này mới biết nhạc con nít như mình hay hát khi xưa “tò te con ma đánh đu, tarzan nhảy dù,..” là từ phim này. Bản nhạc này đoạt giải oscar năm 1940, được viết từ 1 bài thơ ở xứ Tô-cách-lan, « auld Lang Syne » có nghĩa ngày xưa yêu dấu.


Tác giả bài thơ là Robert Burns và bài ca được trở thành phổ thông khắp thế giới, được sử dụng khi kết thúc các cuộc hội họp và được hát trong đêm giao thừa.


Nghe kể ông Robert Burns gửi bản thảo của bài nhạc đến Scots Musical Museum vào năm 1788. Bài “Old Long Syne” in năm 1711 của James Watson cũng tựa tựa bài hát của ông Robert Burns sau này. Bài của ông James Watson như sau:

Should Old Acquaintance be forgot,
and never thought upon;
The flames of Love extinguished,
and fully past and gone:
Is thy sweet Heart now grown so cold,
that loving Breast of thine;
That thou canst never once reflect
On old long syne.

Chorus:
On old long syne my Jo,
On old long syne,
That thou canst never once reflect,
On old long syne.


Dạo ấy, các phim ngoại quốc được trình chiếu tại Việt Nam, đều được công ty Gaumont của Tây phát hành nên tuy là phim mỹ nhưng được phiên âm pháp ngữ và phụ đề việt-ngữ và hoa-ngữ. Phim gốc là mỹ với tên Waterloo Bridge, ở Luân Đôn mà sau này mình làm việc ở Luân-đôn, hay đi ngang hoặc đổi trạm xe điện ngầm tại trạm này.


Dạo mình ở Tây thì các phim mỹ đều được chuyển âm qua pháp-ngữ, nên đi xem xi-nê, muốn xem phim nói tiếng anh thì phải lựa rạp nào chiếu phim gốc, không chuyển âm. Mình nghe kể sau 75, có mục thuyết minh khi xem phim.

 

Thật ra phim này được quay lại sau 9 năm một phim cũng mang tựa đề này vào năm 1931, dựa theo một chương trình ca kịch tại Broadway năm 1930. Trên YouTube có chiếu bằng tiếng nga. Nhạc kịch Broadway được viết bởi Robert E. Sherwood, dựa trên câu chuyện tình thật của ông ta.


Công ty phim ảnh MGM mua bản quyền từ Universal United để quay lại (remake). Phim này được trình chiếu năm 1931 nhưng bị kiểm duyệt vì có phần nhân vật chính làm gái mãi dâm nên không được trình chiếu cho công chúng. Tưởng tượng phim Taxi Driver mà được thực hiện vào những năm 1930 tại Hoa Kỳ.

 

Tựa chính bằng anh-ngữ là ”Waterloo Bridge”, cầu waterloo, địa danh ở Bỉ quốc, nơi Napoleon thất trận và bị đày đi đảo bên Ý Đại Lợi. Câu chuyện nói về một cuộc tình được xuất phát khi cặp tình nhân gặp nhau trên chiếc cầu tên Waterloo và cũng chấm dứt tại đây.


Tựa pháp-ngữ là “la valse dans l’ombre”, điệu luân vũ trong bóng tối. Có lẻ trong phim có khúc quay tại nhà hàng, ông đại uý mời cô nhân tình nhảy điệu valse rồi từ từ, các nhạc công tắt các ngọn nến, điệu vũ kết thúc bằng nụ hôn cực đẹp.

 

Câu chuyện nói về cặp tình nhân gặp nhau trong thời chiến, đính hôn rồi anh chàng phải ra trận. Một hôm, cô nàng đọc báo thấy tên người yêu tử trận rồi những khó khăn cuộc sống trong thời chiến, khiến cô nàng trở thành Thuý Kiều của Anh Quốc, đón các người lính về phép. Một hôm, trong lúc đi khách ở nhà ga thì thấy người yêu trở về.

 

Anh chàng này vui mừng, kể anh ta bị bắt làm tù binh, đồng đội tưởng là đã chết nên báo tin nhưng cô nàng nghĩ mình không còn xứng đáng cho mối tình hữu nghị nên tự tử chết trên chiếc cầu Waterloo.

 

Cuối phim, ông đại uý cầm kỷ vật của hôn thê bỏ vào túi rồi lên xe, ra trận. Coi phim này xong thì mình hết muốn đi lính, muốn đi Tây.

 

Khi sang Anh Quốc làm việc, mình nhớ đến phim này nên có đến chiếc cầu này để xem lại cảnh sương mù trên sông Thames như trong phim này. Mình đoán là họ quay tại phim trường ở Hoa Kỳ vì không thấy giống gì cả. Chán Mớ Đời 


Rap NLan bi dat plastic,nô 2 lân 1 lân 5h chiêu,1 lân 6hsang,vi trên lâu là app cho US thuê “

Về Đàlạt thì bạn học cũ cho biết có một cô học hung khi xưa ở Yersin, là người đặt chất nổ rạp Ngọc Lan. Mình chỉ nhớ mang máng là có bị đặt chất nổ, mất mấy tháng, không được xem xi-nê tại đây nên sau này cũng ít dám bò lại rạp này. Nay nghe một anh chàng làm an-ninh khi xưa, nói có đến hai vụ nổ tại rạp này. Kinh

 


Nhs

Sai hay đúng chất-béo làm mập phì?

 Năm kia mình đọc sách về trường phái dinh dưỡng Paleo, Keto và vô thất thì có thử nghiệm thì thấy xuống được 15 cân. Từ đó cứ ăn theo chế độ IF8:16 (ăn trong 8 tiếng và nhịn ăn trong 16 tiếng), ăn ít lại cơm bánh mì thì cơ thể bình thường, không lên cân không giảm. Thứ hai, mình nhịn đói vì thường cuối tuần ăn hơi nhiều với bạn bè hay gia đình.

 

Vấn đề là khi ăn thịt theo trường phái dinh dưỡng Paleo thì mình không thích lắm. Mình cảm thấy cơ thể không ưa thích thịt nên bò kiếm sách đọc thêm.

 

Các tín đồ theo trường phái Keto đả kích, nhục mạ ông Ancel Keys, người đã phát minh K-ration cho binh sĩ Hoa Kỳ trong đệ nhị thế chiến. Trong thời chiến tranh Việt Nam, mình có ăn gạo sấy của mỹ vài lần. Không ngon lắm.

 

Khi tổng thống Eisenhower bị đột quỵ khi đang tại chức, ông Keys được mời vào toà bạch cung để kế hoạch chế độ ăn uống cho vị tổng thống này. Ông này nổi tiếng sau thế chiến II vì nghiên cứu về dinh dưỡng, trường thọ và bệnh tật.

 

Ông ta cho rằng các bệnh tật đều bắt nguồn từ các chất béo nhất là chất béo bảo hoà (saturated fat). Từ đó ông ta được thượng nghị sĩ McGovern nhờ thành lập một chế độ dinh dưỡng cho người Mỹ ở cấp độ quốc gia mà người ta hay gọi “food pyramid”, kim tự tháp thực phẩm, được sử dụng như căn bản cho học sinh tại Hoa Kỳ và các y sĩ đều theo đó mà khuyên bệnh nhân theo chế độ dinh dưỡng này đến nay.

 

Chương trình dinh dưỡng này hạn chế chất béo nên các công ty thực phẩm phải dùng đường để tạo sự ngon miệng, tạo ra dopamine . Từ đó đưa đến vấn nạn ngày nay, người Mỹ bị bệnh béo phì và trên 25% người Mỹ bị bệnh tiểu đường. Tương lai còn te-tua hơn nếu không kịp điều chỉnh chế độ dinh dưỡng lại.

 

Dạo ấy, ông bộ trưởng canh nông Earl Butz đưa ra chương trình canh tác các nông phẩm bắp, lúa, đậu nành và được trợ cấp bởi chính phủ. Nông dân không nhận được tiền nhưng các công ty thực phẩm nhảy vào để làm việc này, vớt tiền của chính phủ. Họ trồng đại trà các nông phẩm này để nuôi bò, heo, gà ăn khiến thực phẩm rất rẻ nên người Mỹ ăn mệt thở. Dạo mình mới từ âu châu sang Hoa Kỳ làm việc thì rất ngạc nhiên; thực phẩm quá rẻ so với âu châu, có thể gấp đôi Thụy-sĩ và gấp 3 Ý Đại Lợi. 


Nguy hiểm cho sự canh tác vô tội vạ của các công ty thực-phẩm là họ chú tâm vào lợi nhuận nên tìm cách nuôi bò, gà, heo, theo phương pháp trong chuồng hay canh tác không cho đất đai ngơi nghỉ như trước đây nên phải bỏ thuốc sâu, phân bón hoá học,...đưa đến kết quả về dinh dưỡng không được tốt lành, tạo nên nhiều bệnh hoạn cho người tiêu dùng trên thế giới.


Mình nghe tin cựu chủ tịch của công ty Monsanto vừa được ông Biden tuyển chọn làm bộ trưởng canh nông. Kinh

 

Người ta chỉ trích ông Keys đủ loại RÈ kết quả hiện nay nhưng điểm son là ông ta về hưu, sống ở Ý Đại Lợi nơi ông ta khám phá về sự trường thọ, sống đến 102 tuổi trong khi các chuyên gia về dinh dưỡng, chống đối ông Keys đều chết sớm như ông Atkins chết ở tuổi 72 bệnh béo phì. Ông Atkins này dạy thiên hạ ăn sao để giảm cân nhưng ôn gia thì lên cân. Chán Mớ Đời 


Trong cuộc đời có 3 loại người: 1 thì ủng hộ mình, 2 là chuyên tìm cách đả phá mình và 3 là bàng quang. Thấy thiên hạ chửi bởi ông Keys thì mình cũng tìm thêm tài liệu đọc về các nghiên cứu của ông này để hiểu rõ thêm vấn đề, thay vì nghe lời các tay bán sách dinh dưỡng keto, đưa ra một biên kiến.

 

Nghiên cứu ngày nay cho thấy ông Keys chỉ sai là khi nói tất cả các chất béo bảo hoà đều đưa đến bệnh béo phì. Xin nhắc lại  Tất Cả. Ông ta không phân biệt chất béo từ thịt gia cầm và chất béo từ rau quả. Ông ta có nói là chất béo bảo hoà độc hại hơn loại chất béo không bảo hoà đơn   “monounsaturated fat” thường thấy trong các loại đậu, olive và bơ.

 

Các loại chất béo được thấy trong chất đạm của thịt bò, thịt heo, salami, gà. Chỗ nào có chất béo là có thịt mà người Việt hay gọi là thức ăn nhiệt. Con gái mình hay hỏi khi ăn món gì là Hot hay Cold ( tính nhiệt hay tính hàn). Mỗi lần nó ăn soài bị lỡ miệng thì mình nói ăn nhiệt quá nên phải uống nước thêm, xoa mật ong, sau này thì dùng Peroxide H2O2 xúc miệng thì hết.

 

Do đó người Pháp ăn thịt bò (tính nhiệt) với rượu đỏ (tính hàn) và ăn cá (tính hàn) với rượu trắng (tính nhiệt) tương tự người Việt nấu cá (tính hàn) với gừng (tính nhiệt) để bảo hoà,… món bœuf  Bourguignon của pháp được nấu với rượu đỏ, giúp giảm bớt tính nhiệt của thịt.


Khi xưa, người ta ăn trái cây vào mùa hè, có fructose để chứa đường, chất béo để phòng bị cho cơ thể tiêu thụ cho mùa đông. Các thú vật cũng tương tự, ăn trái cây có fructose, tạo ra chất béo để mùa đông khi chúng nằm trong hang, có thể tiêu thụ chất béo. Khi chúng ta không có thực phẩm, đói thì cơ thể sẽ lấy chất béo đã được dự trữ trong người để đốt năng lượng. Các người ở xứ lạnh đều béo do cơ thể dự trữ chất béo nhưng sau này họ ăn bú xua la mua nên mùa đông vẫn béo.


Ngày nay, chúng ta có thể ăn trái cây quanh năm vì trái cây được chuyên chở từ vùng Nam bán cầu nên fructose không được tiêu thụ vào mùa đông, nên chất béo không được tiêu thụ vào mùa đông như trước đây, gây nên bệnh béo phì. Nhất là người ta dùng chất bảo quản, để giữ một trái táo cả năm trước khi bán.


Người ta khuyên nên ăn trái cây đúng mùa nhất là được trồng tại ngay địa phương mình đang ở. Dạo này, trong vườn mình có cam, quýt và bưởi, loại cho mùa đông, có nhiều sinh tố C nhất là vỏ quýt được các nhà thuốc Bắc gọi là trần bì, để uống giúp bớt ho, bổ phổi. Nên mình ăn quýt vườn luôn vỏ cho khoẻ hay ép nước với vỏ để uống.

 

Người ta hỏi thăm người giúp việc ông Keys khi về hưu ở Ý Đại Lợi thì được biết ông ta rất thích olive và tiêu thụ rất nhiều.

 

Dầu olive là dầu không bảo hoà đơn nhưng thực tế cho thấy không phải chất béo của olive giúp ngừa bệnh tim mạch, bệnh Alzheimer,..mà chính các Polyphenol trong quả olive giúp cơ thể tái sinh các tế bào (autophagy ) tương tự resveratrol , một tinh chất trong hạt nho giúp hạ áp huyết, giảm chất béo trong máu.


Các nhà bán rượu đỏ đem nghiên cứu này ra để tiếp thị, bán rượu của họ nhưng phải uống bao nhiêu chai rượu mới có đủ chất resveratrol nhằm giúp loại trừ chất béo xấu trong cơ thể. Chúng ta có thể mua chất bổ sung Resveratrol, đã được lấy ra từ trái nho khi họ ép xác, để uống bổ sung thêm.

 

Đường ruột rất yêu thích Polyphenol trong olive mà bác sĩ Gundry, chuyên gia về tim mạch nói là ông ta ăn 1 lít mỗi tuần. Các đậu như hạnh nhân, đậu óc heo,…đều có nhiều chất béo không bảo hoà đơn, giúp nuôi dưỡng đường ruột.


Đường ruột được xem là não bộ chính, liên kết với não bộ trên đầu.

 

Dạo này mình bớt ăn thịt lại, ăn rau cải nhiều và đậu. Mình ngâm đậu qua đêm trước khi nấu để thải bớt chất lectin trước khi làm sữa đậu nành NON GMO,…

 

Lectin là các chất đạm liên kết với tinh bột rất đặc hiệu cho các nhóm đường của các phân tử khác và do đó gây ra sự ngưng kết của các tế bào hoặc sự kết tủa của glycoconjugates và polysaccharide. Nhờ các bác tra cứu dùm, em chưa tìm ra cách bình dân học vụ mấy loại này.

 

 Lectin được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm. Một số thực phẩm, chẳng hạn như đậu và ngũ cốc, cần được nấu chín hoặc để lên men như chao, để giảm hàm lượng lectin. Một số lectin có lợi, chẳng hạn như CLEC11A, giúp thúc đẩy sự phát triển của xương, trong khi những chất khác có thể là chất độc mạnh như ricin. 

 

Mình có thử các chế độ ăn uống để xem cơ thể phản ứng ra sao. Mình nghĩ từ nay về sau, ăn rau cải nhiều hơn, bớt thịt lại và tiếp tục ăn theo chế độ IF8:16 và quan trọng nhất là phải vận động. Ngay xem truyền hình hay đọc sách, viết mình cũng phải đứng để tránh bị máu không lưu thông. Đồng hồ Apple có chức năng là khi thấy mình ngồi lâu quá thì báo động, kêu mình đứng lên, đi đi lại lại.


Tóm lại, theo mình thì tiêu thụ chất béo gây béo phì thì không hoàn toàn đúng vì tuỳ loại béo. Dạo này mình ăn dầu olive nhiều hơn trước, ăn khoai lang tím, khoai môn, rau cải nhiều hơn. Cuối tuần thì ăn thịt với gia đình, thứ 2 thì nhịn đói, vô thất để cơ thể cơ thể có thời gian tái tạo lại các tế bào hay ngưng nghỉ để tự bảo hành.

 


Nhs