Financial Aids

Mình được đài truyền hình Little Sàigòn mời tham dự buổi hội thoại về Financial Aids , kinh nghiệm của mình  khi chuẩn bị cho hai đứa con vào đại học nên có viết sẵn để khi họ hỏi còn biết trả lời. Hôm nào họ phát sóng sẽ kèm theo về đây.

Cứ vào đầu năm học, học sinh lớp 12 tại Hoa Kỳ, chả học hành gì cả, phải lo nộp đơn xin vào trường đại học, xin học bổng hay hổ trợ tài chánh từ chính phủ và thư nhân khiến chúng bị stress vì phải viết tiểu luận, nhất là muốn nạp đơn, chạy đua nước rút vào trường đại học danh tiếng. Cứ mỗi trường phải đóng đâu $70 cho một cái đơn. Nếu ghi danh 10 trường là bay mất $700. Ngoại trừ đậu SAT hay ACT cao mới ghi danh 1, 2 trường còn không phải nộp nhiều.

Con trai ghi danh đâu 6 trường thì được 3 trường nhận còn 1 thì dự khuyết. Con gái nộp 4 trường thì được 3 trường nhận.

Mình không học đại học tại Hoa Kỳ nên ngọng khi con lớn, chuẩn bị vào đại học. Học đại học bên âu châu xem như gần miễn phí nhưng tại Hoa Kỳ thì tốn rất nhiều nên phải cẩn thận, điều nghiên kỹ lưỡng vì nếu không học ra trường, không có việc lại ôm cái nợ to đùng.


Một luật sư ra trường trung bình ôm cái nợ $200,000 còn bác sĩ thì trên $300,000 còn cử nhân thì từ $50,000 đến $100,000 nếu học đại học tư. Có anh bạn kể là tiền tốn cho cô con gái học xong cái bằng y sĩ là tổng cộng 1 triệu đồng. Nghĩa là anh ta phải làm 2 triệu, trả thuế phân nữa. 4 năm cử nhân rồi 3 năm y khoa rồi 2 năm chuyên khoa. Chán Mớ Đời 


Đối với người giàu có, học phí đại học không là vấn đề chính, mà được tuyển vào đại học mong muốn. Như bà tài tử gì mới đi tù 1 tháng vì muốn con gái được vào đại học miền nam Cali USC nên trả trên $300,000 để người ta làm hồ sơ giả mạo giúp con bà ta được chấp nhận vào trường nổi tiếng này.


Ở tiểu bang Massachusetts họ mới tuyên án ông triệu Phú nào, chạy chọt đú tốt cho con vào đại học Harvard. Con nhà giàu dễ vào đại học nổi tiếng nếu chịu khó một tí. Chớ lo chơi không thì khó mà được nhận. Chán Mớ Đời 

 

Khi thằng con lên trung học thì mình i tờ về đại học Hoa Kỳ nên có mua một cuốn sách, nói về sự chuẩn bị để con cái vào đại học nổi tiếng vì nghe nói nhiều hy vọng có cuộc sống khá tốt sau này. Đọc cuốn này thì mình thất kinh, vì tác giả kêu người Mỹ khá giả chuẩn bị cho con họ từ khi mới ăn thôi nôi. 


Khác với thời người Việt mới sang Hoa Kỳ tỵ nạn, học sinh gốc Á châu, không còn được xem là thiểu số, để được ưu tiên tuyển vào các đại học danh tiếng. Trên phương diện dân số thì người á châu rất ít nhưng về mặt học vấn thì chiếm đa số so với các cộng đồng thiểu số khác như gốc la-tinh. Có anh bạn kêu là nếu được tuyển chọn theo tiêu chuẩn ngày nay thì chắc chắn, anh ta không được nhận vào đại học M.I.T.


Con mình học trung học, phải đạt điểm cao toàn A trong vòng 2 năm trời mới được cấp giấy khen trong khi một học sinh gốc la-tinh chỉ cần được 3 điểm C, là được cấp phát bằng khen nên vào đại học rất được ưu tiên. Mình đùa với thằng con, biết vậy bố đặt tên con là Jaime Gonzalez. Khỏi cần chơi thể thao, lấy bằng Đại Bàng hướng đạo Hoa Kỳ,...

 

Sách cho biết người Mỹ giàu có cho học trường mẫu giáo nào, chơi thể thao loại nào, các hoạt động xã hội, nghệ thuật, đủ trò khiến mình điên lên vô hình trung tạo thêm áp lực cho mấy đứa con. Con họ chơi thể thao đắt tiền như cù, chèo thuyền, ice hockey ...toàn là những môn thể thao đắt tiền nên ít cạnh tranh lại kiếm quảng cáo nhiều.


Con gái mình kể bạn bè ở USC, đám con nhà giàu, xem vào các đại học danh tiếng như chuyện đương nhiên. Con mình bà rá sao, lại được tuyển vào chương trình chỉ nhận 15 sinh viên tại Hoa Kỳ và 30 sinh viên Ý Đại Lợi và Hongkong. Tổng cộng lớp chỉ nhận 45 sinh viên của 3 đại học.


Ngày nay, giới trẻ tại Hoa Kỳ phải tranh đua với các sinh viên ngoại quốc, du học tại Hoa Kỳ. Trung Cộng có đến 300,000 sinh viên hay Ấn Độ có trên 200,000 du học sinh. Dân số các nước này đông nên tuyển lựa khá nhiều người học giỏi. Họ vừa giỏi vừa sẵn sàng đóng học phí cao. Hoa Kỳ lại theo chế độ lấy chất xám của ngoại quốc , đỡ tốn tiền đào tạo.


Đọc đâu đó, báo chí cho biết là hàng năm các đại học danh tiếng đuổi mấy ngàn du học sinh ngoại quốc vì không đủ trình độ. Con nhà giàu nên chúng nhờ thiên hạ viết tiểu luận, làm hồ sơ giả như bà tài tử mỹ mới đi tù. Vào học thì i tờ, không theo kịp nên họ phải đuổi do đó cách tốt nhất học đại học danh tiếng là học 2 năm trường đại học cộng đồng đợi rồi xin chuyển trường vào học 2 năm cuối của đại học danh tiếng.

 

Điểm mình lo nhất là học phí. Trung bình học đại học tiểu bang Cali thì tốn độ $36,000/ năm ăn ở, còn đại học tư thì thêm $20,000 nữa. Do đó, mình nghe kể là thiên hạ có tiền tại Việt Nam, Trung Cộng ... cho con họ du học ở cấp trung học vì sau hai năm ở Cali thì được xem là ”Resident” (thường trú tiểu bang Cali) thì bớt được khoảng tiền $20,000/ mỗi năm. Xem như $80,000 cho 4 năm đại học. Điển hình thằng con mình học UCSD ở San Diego tốn $32,000/ năm, bạn học của nó từ Houston qua, trả $52,000/ năm.

 

May là có thể xin học bổng, hoặc Financial Aids (hổ trợ tài chánh) hay Work-Study (làm việc trong khuôn viên đại học), hay mượn nợ, chương trình giúp gia đình binh sĩ, cựu chiến binh, học ở hải ngoại,…

 

Grants: một loại hổ trợ tài chánh mà sinh viên không phải trả lại ngoại trừ bỏ học thì phải hoàn tiền lại. Có nhiều loại Grant như Pell Grants, Federal educational Opportunity Grants (FSEOG), Teacher Education Assistance for College and Higher Education (TEACH) Grants,  Iraq and Afghanistan Service Grants.

 

Học bổng: có nhiều tổ chức vô vụ lợi, tư nhân tặng học bổng cho sinh viên đại học. Thằng con mình thành lập hội Leos ở trường học với sự đỡ đầu của hội Lions International Club của thành phố nên khi vào đại học, hội Lions có tặng học bổng $1,000/ năm. Con gái mình được hội nào đó cho $5,000. Thật ra có nhiều trang nhà, kêu sinh viên viết tiểu luận thì họ cho $500, $1,000.,.. Nếu chịu viết thì cũng kiếm được vài ngàn tiêu xài khi đi học.

 

Người Mỹ rất điên cuồng về thể thao nên họ cho con chơi thể thao để được học bổng, chơi cho đội tuyển trường. Do đó có nhiều học sinh dỡ nhưng được nhận vào các đại học danh tiếng, chơi thể thao miễn phí cho các đại học, giúp đại học làm tiền qua các trận đấu hàng tuần.

 

Sinh viên không có thì giờ để học hành vì phải tập dợt mấy tiếng một ngày nên ra trường toàn là tốt nghiệp huấn luyện viên thể dục. Ai giỏi thì có thể đi thi đấu chuyên nghiệp nhưng số này rất ít ỏi 1%. Trường hợp bị chấn thương thì bị cúp học bổng. Chán Mớ Đời 

 

Lúc đầu, mình không biết nên cũng theo tụi bạn mỹ, cho con chơi thể thao. Bóng rổ thì con gái mình lúc 12 tuổi chỉ cao chưa tới 5 feet trong khi mấy con mỹ trong đội cao 6 feet. Cho thấy người Á đông bị hạn chế về các môn thể thao vì sức vóc. Bóng bàn, người Mỹ chỉ nghe khi ông Nixon sang Trung Cộng buôn bán.

 

Cuối cùng chỉ có môn bơi lội là có thể thi đấu ngang ngữa với học sinh trong thành phố. Có một cô gốc Việt Nam, đứng đầu Hoa Kỳ từ 10 tuổi rồi được đại học Berkeley nhận nhưng cũng chả đi đến đâu. Khi thi đấu ở cấp tiểu bang thì chả nhằm nhò gì cả. Có mấy đứa bơi cùng thời với con mình, giỏi được nhận vào  Stanford hay Berkeley rồi thì phải tranh đua với tất cả những tên bơi giỏi nhất thế giới vì các đại học này chọn các sinh viên từ các quốc gia khác nữa nên cuối cùng, không thấy mấy đứa bơi giỏi nhất được tuyển đi thế vận hội hay gì cả. Mất 4 năm trời đại học, thay vì sống đời sống sinh viên bình thường như cùng lứa tuổi, cứ ăn rồi ngủ, rồi đi tập luyện cuối cùng. Nói chung làm nô lệ cho trường làm tiền trong 4 năm trời. Chán Mớ Đời    

 

Tóm lại thì chơi thể thao cho vui nhưng chuyện chính vẫn là học cho giỏi vì nếu vào đại học mà học không được thì lại tốn tiền vô ích. Nếu cho làm lại thì mình sẽ không bắt mấy đứa con đi bơi như điên. Chỉ cho chơi thể thao ở trường là đủ. Điều an ủi là mấy đứa con kêu bơi lội giúp chúng rèn luyện được ý chí, kỷ năng sống.


Dạo ấy, đi seminar ở trường thì học sinh của trường trung học cho biết là 1/3 học sinh trong lớp chơi sì-ke. Do đó mình phải cho chúng chơi thể thao, hướng đạo để không có thì giờ làm tầm bậy.

 

Federal Work-Study Jobs: có chương trình giúp sinh viên làm việc bán thời gian để được thêm tiền mà học hành. 20 tiếng đồng hồ mỗi tuần như con gái mình làm Lifegard, cứu hộ hồ bơi khi sinh viên bơi.

 

Mượn nợ: ngoài ra có những chương trình mượn nợ nhưng cái nguy hiểm là tiền lời cứ gia tăng hàng năm (unsubsidized). Có một loại nợ gọi là Parent loan Plus thì theo mình không nên mượn vì loại này rất đắt, lại không được “subsidized” (tiền lời không gia tăng trong thời gian đi học). Bố mẹ phải ký tên. Mình không để ý nên mượn năm đầu tiên đâu $30,000 thì 4 năm sau phải trả tiền lời gần $6,000. Con gái vừa ra trường là mình trả dứt liền. Nghe kể có ông mỹ nào mượn $120,000 cho 2 thằng con với tiền lời 7.6%. Nợ này là bắt buộc phải trả dù có khai phá sản, không xù được, chính phủ có thể rút tiền của quỹ hưu trí, hay tiền lương của mình mỗi tháng,… KHÔNG bao giờ mượn Loan này cả và các “unsubsidized loan.”

 

Hổ trợ cho gia đình chiến sĩ: lính mỹ có thể xin chính phủ tài chính để giúp đỡ cho chính mình hay con để học đại học. Phải tìm qua quân đội. Cách tốt nhất là cho con tham gia quân đội, huấn luyện trở thành bác sĩ hay kỹ sư rồi phải sống trong quân đội 10 năm mới được giải ngủ. Mình có quen 2 anh chàng quân y gốc Việt, thấy kiểu này là hay nhất nhưng mụ vợ không cho. Chán Mớ Đời 

 

Hổ trợ cho sinh viên học các trường hải ngoại: sinh viên đi học ở nước ngoài thường là một khoá 3 tháng hay 6 tháng, có thể tìm những nơi cho học bổng để đi học hay các công ty tư nhân. Người ta khuyến khích sinh viên đi học ở hải ngoại để có cái nhìn rộng hơn, thay vì chỉ biết đời sống tại Hoa Kỳ. Con gái mình học ở hải ngoại, có xin được chút chút tiền.

 

Tại Hoa Kỳ, hàng năm có 245 tỷ đôla cho Financial aids nhưng chỉ có $69 tỷ được sử dụng (176 tỷ không được dùng). Lý do là người xin không chịu xin thêm hay không biết cách xin. Nhiều khi điền sai mẫu đơn do đó khi nhận kết quả, phải làm đơn khiếu nại thay vì chấp nhận.

 

Tại pháp muốn vào trường lớn như bách khoa, kỹ sư, quốc gia hành chánh thì phải qua các kỳ thi tuyển quốc gia nên mới có những năm dự bị, học toán lý hoá để thi concours vào các trường lớn. Rớt thì vào học các đại học thường. Ở âu châu đại học công mới có giá còn đại học tư thì không có danh lắm.

 

Ngược lại, tại Hoa Kỳ các đại học tư lại có giá trị hơn nên chỉ số nhận vào đại học danh tiếng như Harvard chỉ có 4.9% số đơn nộp. Đại học nhận sinh viên dựa trên nhiều tiêu chuẩn: điểm học, kỹ năng, chơi thể thao, các công tác xã hội,…do đó ai muốn vào trường y hay nha, đều phải đi theo các phái đoàn y tế về các nước nghèo như châu mỹ la tinh hay Việt Nam.... hay làm thiện nguyện viên tỏng các nhà thương để được giới thiệu khi xin học ngành y.

 

Cách đây mấy năm, có một sinh viên gốc đại hàn kiện đại học Princeton, cho rằng kỳ thị vì anh ta đạt điểm 100% SAT  trong khi một người bạn học da trắng, được nhận với chỉ số 90% SAT. Đại học Princeton cho biết anh ta chỉ biết học nhưng khiếm khuyết các kỷ năng khác như thể thao, xã hội,…thì không có.

 

Con mình phải đi bơi, tham gia hướng đạo để lấy bằng Eagle Scout rồi làm việc từ thiện đủ trò, phải bao nhiêu tiếng đồng hồ như đi múc cơm cho các người vô gia cư, lượm rác ở bãi biển,….đủ trò.

 

Xứ mỹ có rất nhiều công ty tư vấn về đại học. Bà tài tử đi tù nhờ một công ty tư vấn để cho con bà ta vào đại học USC nơi con gái mình tốt nghiệp. Bà ta tốn $300,000 cho công ty này để khai man. Nghe kể họ cho người đi thi SAT ở tiểu bang khác dùm luôn. Họ cố ý không đi thi ở Cali nên phải qua tiểu bang khỉ ho cò gáy nên dễ cho người thế để vào thi dùm. 


Mình có đi tham dự một buổi giới thiệu của một tổ hợp tư vấn giáo dục, do người gốc đại hàn làm chủ. Việt Nam chắc có vài chỗ thấy ở ngoài Bôn Sa nhưng không chuyên nghiệp bằng mấy tổ chức của người Tàu và người đại hàn ở vùng này. Nhóm đại hàn này từ bắc Cali xuống làm ăn.

 

Buồn cười là có một tên trẻ trong nhóm, tự xưng là tốt nghiệp đại học MIT, bây giờ đi làm cố vấn giáo dục, viết tiểu luận cho học sinh, nộp đơn vào đại học. Mình có một tên bạn tàu đài loan học MIT, rồi Master ở Stanford, đi làm, mất việc đành bỏ nghề kỹ sư cơ khí, làm quản lý phòng mạch bác sĩ của vợ. Cho thấy tốt nghiệp trường nổi tiếng, chưa chắc sẽ thành công, không nên chạy đua theo thời trang. Ông bố của tên bạn kể là hắn ở New Mexico, nên mới được nhận vào đại học danh tiếng này vì nếu ở Cali thì số người Mỹ gốc á rất đông nên đại học chỉ nhận rất ít. Nếu không thì 50% được tuyển vào là dân Cali gốc Á. Ai muốn vào các đại học Ivy Leagues thì nên cho con học 2 năm cuối trung học ở tiểu bang khỉ họ cò gáy như Alaska. :)


Phải nghiên cứu kỹ vì được nhận vào trường danh tiếng về môn gì. Nếu được nhận vào về môn xã hội học, khảo cổ học,...thì đa phần trường nhận rất nhiều các sinh viên mấy ngành này vì lấy tiền để trả tiền cho sinh viên kỹ thuật. Lớp mấy trăm người trong khi lớp kỹ thuật chỉ có vài chục. Cho nên được nhận vào trường danh tiếng mà môn ra trường không có việc lại ôm cái nợ to đùng là khổ một đời.

 

Dân đại hàn, họ có các trường dạy kèm như Kumon, các trung tâm dạy luyện thi SAT đủ trò. Hai đứa con mình phải đi học luyện thi 2 tuần trong lúc nghỉ lễ giáng sinh. Công ty này có nhiều packages thậm chí là họ có thể viết luôn các tiểu luận cho con mình nếu mình trả tiền. Mình có thằng cháu, tự học cũng được nhận vào đại học Pennsylvania, vùng đông bắc. 

 

Mình học được cách họ chỉ chuẩn bị thuế má, phân chia tài sản ra sao, cái nào thuộc về công ty, cái nào thuộc về cá nhân để khi con mình nộp đơn xin Financial Aids thì khoẻ.

 

Khi con bắt đầu học lớp tiểu học, trung học đệ nhất cấp (Middle school) thì nên bắt đầu tham khảo, đọc sách. Đi dự mấy cái Seminar về đại học, các trường đại học cũng có tổ chức những buổi này trong khách sạn, để tiếp thị trường của họ. Nên học trường đại học ở tiểu bang của mình ngoại trừ được học bổng toàn phần hay có tiền.

 

Mình thì muốn con học 2 năm đầu ở đại học cộng đồng gần nhà, đỡ tốn tiền. Sau 2 năm thì xin vào học 2 năm cuối tại các trường danh tiếng dễ hơn. Tốt nghiệp Đại học danh tiếng với 2 năm tiền học khá cao thay vì 4 năm. Hai năm trời đỡ được $60,000 tiền học phí, nghĩa là phải làm ra $100,000, đóng thuế $40,000 mới nộp cho trường. 2 đứa tốn mất $200,000 tiền lợi tức. Chán Mớ Đời 

 

Ít ai để ý là tiền học phí là tiền trả sau khi đóng thuế. Chính phủ lại không cho khấu trừ thuế. Do đó học phí đại học rất đắt nên phải suy nghĩ, điều nghiên kỹ lưỡng. Ra trường chỉ  được khấu trừ đâu $3,000 tiền nợ/ năm.

 

Vấn đề là thuyết phục được mấy đứa con nhất là đồng chí gái vì mấy đứa con tranh đua với bạn bè để xem đứa nào được nhận vào trường danh tiếng. Mình thì chỉ muốn học nhiều và ít tiền là giỏi không cần trường danh tiếng gì cả. Con mình đi Seminar với mình, và hiểu nguyên tắc đó nhưng đến phiên nó thì vẫn cứ xin học đại học Cali. Chán Mớ Đời 

 

Con gái mình học chương trình quốc tế với các sinh viên Âu châu và Á châu nên năm đầu học ở USC còn lại thì đi học ở Hongkong và Ý Đại Lợi nên đành phải chi. Nó viết tiểu luận kêu là muốn sống cuộc đời như bố nó khi trẻ, sống tại nhiều quốc gia, nói được nhiều ngoại ngữ nên đành phải cho con theo học. Còn con trai thì học UCSD nên ít tốn hơn, nó xin được học bổng chỉ mượn 25% tiền học.

 

Được cái là thường trú dân ở tiểu bang Cali thì chắc chắn sẽ được nhận vào đại học tiểu bang Cali. Nếu có tiền thì cho con đi học ở tiểu bang khác, còn muốn để dành tiền thì học tại tiểu bang mình ở cũng tốt rồi. Đại học danh tiếng có thể giúp làm bàn đạp nhưng chưa chắc sẽ thành công. Mình có vài người bạn tốt nghiệp tiến sĩ đại học danh tiếng như MIT nhưng nay có người phải chạy về Việt Nam để dạy học.

 

Mình có chị bạn kể là chị ta ngu, nghe lời con nên bỏ tiền cho chúng học UCLA vì có tiếng nhưng vào đó, học không nổi vì ham chơi nên sau 5 năm, thay vì 4 năm, phải học đại môn gì ra trường nên tốt nghiệp ngành khảo cổ học. Tốn $150,000 cho 5 năm học nghĩa là chị ta phải đi làm $250,000, đóng thuế mất $100,000. Ra trường, con không có việc làm phải lái xe cứu thương rồi sau phải chạy qua tiểu bang khỉ ho cò gáy học cho rẻ, ngành tin học mới kiếm được việc làm.

 


Đó là những lỗi lầm cha mẹ con cái hay mắc phải vì cái bản ngã quá cao thay vì lựa con đường chắc ăn. Yếu tố thành công trong đời đâu phải học trường danh tiếng mà có cuộc sống an lành, đạo đức, hạnh phúc, đóng góp cho đời thay vì chạy theo mộng tưởng, trường danh tiếng để rồi một ngày nào, kêu tất cả đều là vô thường thì đã quá muộn. Chán Mớ Đời 

 

Nhs

 

 

 

 

Đàlạt qua tấm không ảnh xưa

 Nhìn tấm không ảnh này khiến mình thất kinh, những hình ảnh thời mới lớn lên tại Đàlạt, nhận ra những nơi đã từng đi qua, đi bộ cũng như chạy xe gắn máy của một thời tưởng chừng đã qua.

 Đường đầu tiên là Đinh Tiên Hoàng, chạy từ bờ hồ (bên trái) lên trường đại học Đàlạt, giáp với đường Võ Tánh, rồi có một đường không nhớ, hình như Phù Đổng Thiên Vương, chạy vào Thung Lũng Tình Yêu mà mình hay vào đó mỗi chiều để tắm ở đập Đa-Thiện. Tại đây, mình chứng kiến một tên chết đuối, con ông bà tàu ở cạnh nhà ông thầy mằng, bên cạnh rạp Ngọc Hiệp vì bảng ngã quá lớn, muốn chứng tỏ là bơi giỏi khi thấy mình và mấy tên bạn đang tắm. Hắn bơi qua bờ bên kia hồ nhưng giữa đường mệt quá nên bơi ngửa vòng vòng rồi chìm. Chán Mớ Đời 

 

Trước mặt là Giáo-hoàng học-viện, nơi mà mỗi chiều thứ tư, lúc 2 giờ, mình đến đây tập đàm thoại anh-ngữ và việt-ngữ với ông cha Leahy mà anh một tên bạn học, nay ở Gia-nã-đại, cho biết là bạn học của cố thủ tướng Trudeau, bố của ông hiện nay. Chương trình là 30 phút nói chuyện bằng anh-ngữ, 30 phút bằng việt-ngữ. Sau đó, thì nói chuyện đâu đâu về những nơi mà ông cha từng đi qua. Giáo Hoàng Học Viện do kiến trúc sư Tô công Văn thiết kế.

 

Ông cha Leahy này có dạy mình Đức-ngữ vỡ lòng đến khi mình sang làm việc ở Thuỵ-sỹ vùng Đức ngữ thì mới học thêm ngôn ngữ này tại trường Berlitz. Dạo ấy, mình phục ông cha này lắm vì ông ta biết tiếng Hán, tiếng Việt, Đức ngữ, anh ngữ, pháp ngữ, tiếng La-tinh, tiếng Tây-đào-nha. Cứ ước gì biết được nhiều ngoại ngữ như ông ta. Không ngờ sau này, lại được du học rồi theo dòng đời, đi làm tại nhiều quốc gia nên phải học ngôn ngữ địa phương.

 

Mình nhớ ơn ông ta là dạy mình học cách đọc nhanh nên khi sang Tây, đọc sách khá nhiều. Ông ta kể gia đình ông ta, cứ mùa đông là bay xuống miền nam Florida sống, khiến mình đã ngu là càng ngu bền. Sau này ra hải ngoại mới hiểu vì quá lạnh nên người già ở vùng bắc lạnh, chạy về Florida ở. 


Nghe nói ông ta đã qua đời, vì nếu còn sống thì chắc trên 100 tuổi. Ông ta là người khai trí mình khi xưa nhưng không bao giờ kêu mình phải trở về đạo. Ông ta cho xem báo Đài Loan chụp hình, kể ông ta và ông cố đạo khác, đạp xe đạp vòng quanh xứ Đài vào năm 1970.

 

Giáo hoàng học viện mới được xây xong nên chưa thấy vườn tược gì cả, phía sau chắc là đất trống để mấy chủng thừa sai, chơi thể thao. Mình thấy có 3 hàng cây nhỏ ngăn đôi giữa trường trung học Bùi Thị Xuân, nằm bên tay phải mà mình đã kể rồi.


Mình nghe kể mấy ông cha ngoại quốc ở Giáo Hoàng học viện, nói tiếng Việt khi làm lễ nhiều khiến giáo dân cười. Có một ông cha Matthias Chen, người Tàu Đài Loan, làm lễ bằng tiếng Việt như: “Chúa ẻ cùng anh chị em!” Rồi giáo dân lại kêu “Chúa ẻ cùng Cha! Đó là lời Chúa!”. Chán Mớ Đời  


https://www.muctimsonden.com/2019/08/giao-hoang-hoc-vien-alat.html 


Trên chút nữa, sau hàng rào của trường Bùi Thị Xuân, là xóm Tăng Văn Danh, nằm trong con hẻm nhỏ đi vào từ đường Võ Tánh, nghe nói là tên ông trưởng khu phố Trại Hầm hay Thái phiên, bị Việt Cộng giết vào năm Mậu Thân. Mình có tên bạn học ở đầu hẻm nên hay sang đây chơi nhưng không bao giờ vào bên trong xóm vì nghe nói có một đám du côn ở phía trong. Trong hình thì thấy hình nhà thằng bạn và một tên học chung ở Yersin khi xưa.

 

Rồi dãy nhà dọc đường Võ-Tánh, có quán nhạc Lục Huyền Cầm của hai vợ chồng Lê Uyên Phương, đâu đó trước lữ quán thanh-niên. Thấy lữ-quán thanh-niên, quán ăn của sinh viên mà mình có ăn một lần, gạo mua bằng sổ gia đình quá dỡ.

 

Sau quán này là đường Hàm-Nghi, uốn cong đến chỗ nhà thờ Tin-Lành, nơi bố của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, làm việc. Gia đình nhạc sĩ này ở gần xóm mình, trên đường Calmette, bạn bè hay kêu em của nhạc sĩ này Vinh Kennedy vì hắn giống Tây lai. Nếu mình không lầm hắn thuận tay trái khi đánh bóng bàn với mình, học sinh Trần Hưng Đạo.

 

Trên đồi thông, thấy dinh tỉnh trưởng mà ngày nay họ tính đập bỏ để xây khách sạn mấy chục tầng. Phía bên trái, thấy khúc đường Phan Bội Châu gặp đường Võ Tánh, chạy lên khu Hoà Bình, với cái tháp chuông cao vời vợi.

 

Thấy dãy phố của ông Võ đình Dung xây cất ngay khu Hoà Bình. Thấy chợ mới Đàlạt và khách sạn Mộng Đẹp cửa thầu khoán Nguyễn Linh Chiểu, người trúng thầu xây cất chợ Đàlạt. Phía tay trái thì thấy dãy nhà công chức ở đường Thành Thái, cuối đường là khách sạn và rạp xi-nê Ngọc Lan rồi lác đác vài căn nhà của ấp Ánh Sáng.

 

 Ấp Ánh Sáng lúc chưa được thành lập, chỉ có vỏn vẹn vài cái chòi

Sau đó là khoảng đất trống, vườn của dân Ấp Ánh Sáng, do ông Cao Minh Hiệu thành lập năm 1952, lấy tên Ánh Sáng, tên phong trào do Tự Lực Văn Đoàn chủ trương. Theo người lớn kể thì từ năm 1930, có mấy cái chòi do người làng Kế Môn và Phước Yên (Thừa Thiên) di cư vào đây lập nghiệp, sau đó họ về quê, lấy vợ rồi đem bà con thân thích vào Đàlạt sinh sống. Bà cụ mình mướn một căn hộ ở đây khi lập gia đình và mình lớn lên, đi học ở trường Ấu-việt, từ đường Bà Triệu đi vào, cạnh cầu bá hộ Chúc. 


Cầu Ông Đạo với con suối chảy về Cam Ly rồi rừng thông sau đường Phạm Ngũ Lão, thấy nhà thờ Con Gà, rồi đến khu Du Sinh, nơi mà ngày nay là nghĩa địa của dân Đàlạt, với đường Huyền Trân Công Chúa, khuôn viên trường Couvent des Oiseaux,.. Sau đó là núi Cam Ly….

 

Phía tay phải thì sau đường Võ Tánh có một vạt đất trống, chắc là sân chơi của học sinh trường Bồ Đề, thấy cái chuông tháp của chùa Linh Sơn. Sau đó thấy phía sau nhà cửa của đường Phan Đinh Phùng. Mình chưa bao giờ đến các khu vườn phía sau này, chỗ đường Hàm Nghi nhìn xuống.

 

Sau đường Phan Đình Phùng thì mình thấy vườn ông Ba Đà, mướn đất của ông bà Võ đình Dung để trồng rau. Đại để các khu đất trống, nằng giữa đường Hai Bà Trưng và Phan Đình Phùng, chạy từ Mã Thánh xuống trường Việt-Anh là của ông bà Võ Đình Dung cho thiên hạ mướn để làm vườn. Nghe kể trường Việt-Anh, lúc đầu là do con trai của ông bà thành lập rồi sau cho thầy Lê Phỉ mướn lại.


Từ Ngã 3 Chùa, có con hẻm băng qua vườn ông Ba Đà đến đường Hai Bà Trưng, nơi cư xá Công Chánh, nơi gia đình mình trú ngụ từ 1962 đến nay. Mờ mờ thấy căn nhà của gia đình mình với cái dốc đi lên từ đường Hai Bà Trưng, băng qua Thi Sách rồi đến đường Calmette, đến nhà thương Nhi Đồng.

 

Phía tay phải, có dãy vườn nằm giữa đường Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng, thấy cư xá Bưu Điện rồi lãnh địa Đức bà (domaine de Marie) rồi vườn thông, khu đường Trần Bình Trọng , Yagut,… xa xa là Cam Ly.

 

Thôi ngưng đây, cả phải kể hết đủ trò ngày xưa. Còn về Đàlạt thì chả còn cái gì của ngày xưa. Chán Mớ Đời

 

Nhs

Xe lửa Đàlạt Việt Cộng bán đi về đâu?

 Mình đọc lâu rồi bài của ông nào, tên Thịnh Nguyễn, kể về vụ Việt Cộng chơi khôn, gỡ đường rày xe lửa Đàlạt - Song-pha đem bán cho Thuỵ Sĩ, kiếm được đâu $650,000. Gần đây lại nghe mấy ông Siêu-việt, muốn làm lại đường rày này để kiếm ăn, nghe nói chi phí gần 500 triệu đôla, gấp 1000 lần số tiền bán khi xưa. Hy vọng họ sẽ không làm công trình này.

Ga xe lửa Đàlạt được xem là đẹp nhất Đông-Nam-Á một thời, do người pháp thiết kế và nhà thầu Việt Nam, ông Võ Đình Dung thi công. Mình có kể vụ này rồi. Nay chỉ bỏ lên mấy tấm ảnh mà mình giữ lại vì bài viết thì quên mất không lưu lại. Nay lười đi tìm lại quá. Mình đoán ông này sống ở Thuỵ Sĩ nên mới có tin tức và hình ảnh của vụ mua bán này và chuyến đi xe lửa mới này.


Khi xưa, mình đọc rất nhiều bài về Đàlạt nhưng không lưu giữ. Ai ngờ ngày nay lại lò mò viết về Đàlạt khi xưa. Chán Mớ Đời 


Tuyến đường này dài 84 cây số trong đó có 16 cây số đường răng-cưa, giúp xe lửa lên dốc để không bị tụt lại. Việt Cộng bán 16 cây số đường rày này như bán sắt vụng. Thời chiến tranh, họ đặt mìn vì xe lửa được dùng chở thực phẩm cho quân đội mỹ. Sau chiến tranh, đói quá nên đem bán hết cho Thuỵ Sĩ như người dân bị chính sách “ngăn sông cấm chợ”, bán đồ của ông bà để lại mà sống trong thiên đường mù hay vượt biển tìm con đường sống.

 


 hình ảnh Việt Cộng câu đầu máy bán cho Thuỵ Sĩ.




Đoàn xe chở đầu máy và các toa xe lửa, hoan hô tinh thần hữu nghị Thuỵ-sĩ Việt.



Xe lửa này do Thuỵ-sĩ chế tạo nên họ tìm kiếm mua lại. Nhìn thấy khẩu hiệu “back to Switzerland”. Hoan hô tinh thần hữu nghị, bị lừa mà không biết.



Xe lửa được đưa ra bến tàu, chở về Âu châu. Chắc nhập cảng ở Ý Đại Lợi vì gần biên giới, và núi Alpes.



Hà Nội ăn mừng đã bán được đồ phế liệu. Mình không hiểu bọn tư bản Thuỵ Sĩ nghĩ gì mấy ông Việt Cộng khi mua được tất cả đường rày, xe lửa.



Máy móc được đem về tu sửa, phục chế lại để cho chạy lại lên núi



Đem về Thuỵ sĩ được Sơn phết lại màu xanh như xe mới



Đoàn tàu này được Thuỵ-sĩ sử dụng để lên núi Alpes. Nghe nói đâu, du khách phải trả tiền cả $150 đô để đi chơi 25 cây số mà phải mua trước cả 6 tháng


Ngày nay, trên thế giới chỉ có 2 tuyến đường xe hoả răng cưa chạy lên núi, đều ở Thuỵ Sỹ. Một trong hai là từ Việt Nam được người Thuỵ Sĩ mua lại của Việt Cộng.


Việt Cộng muốn làm lại con đường ngày nay tốn nữa tỷ đôla. Có bao nhiều người ở Việt Nam có khả năng tài chánh đi chuyến xe lửa này. Máy bay Đàlạt - Sàigòn chỉ tốn có 40 chục đô mà thiên hạ đi xe buýt mất 8 tiếng. Chán Mớ Đời 


Có bài này do ông nào viết về hành trình trên xe lửa Đàlạt tại Thuỵ sĩ, đọc trên mạng, tải về đây cho bà con xem. Chán Mớ Đời


http://hoangkimviet.blogspot.com/2013/04/tu-krong-pha-viet-nam-en-furka-thuy-si.html


Lần sau về thăm Âu châu, chắc mình sẽ về thăm Thuỵ Sĩ nơi mình đã sinh sống 2 năm trời, sẽ tìm cách đi chuyến xe lửa này để nhớ về thời bé được ông cụ cho đi về Trại-mát để thăm người quen.


Còn đây là bài của một chứng nhân “bán rẻ quá khứ” đã kể vụ việc buôn đường giày xe lửa Đàlạt.


Đà Lạt vừa “giải phóng”, ông Phạm Khương thay mặt ban quân quản tiếp nhận ga Đà Lạt khi đầu máy, toa xe và toàn bộ tuyến đường đã nằm phơi sương suốt từ năm 1969 vì chiến tranh. Dầu mazut, thứ dầu đặc chủng để chạy đầu máy răng cưa, cũng không còn. Vậy mà chỉ hai tháng sau, ngày 6.6.1975, chiếc đầu máy răng cưa lại lần đầu tiên lăn bánh gần 70km, vượt D’ran, vượt Eo Gió, vượt Krongpha về tới Tân Mỹ, chỉ còn chờ cầu Tân Mỹ hoàn nhịp là lăn bánh về đến ga cuối Tháp Chàm. Không có dầu mazout, ông Khương đã cùng anh em kỹ sư còn lại ở ga Đà Lạt mày mò hoán đổi cho tàu chạy bằng than củi. Vậy mà tàu lăn bánh gọn gàng, công nhân đi hái trà ở Cầu Đất, cán bộ đi công tác xuống Phan Rang, rồi lâm nông sản xuôi ngược Phan Rang–Đà Lạt được tiếp tế cho nhau sau ngày giải phóng đều nhờ những toa tàu răng cưa vừa hồi sinh chở miễn phí.

 

Nhưng tàu chỉ chạy được đúng 27 chuyến. Cuối năm 1975, khi vừa chuyển giao tuyến đường cho Liên hiệp Xí nghiệp đường sắt VN thì ông nhận được lệnh sét đánh: ngừng chạy tàu, tháo toàn bộ tà vẹt trên tuyến đường Phan Rang–Đà Lạt để chuyển ra tu bổ cho đường sắt Thống Nhất đoạn Bình Định–Quảng Nam. Không chỉ ông Khương mà cả chính quyền tỉnh Lâm Đồng lúc đó cũng bàng hoàng. Một sự đánh đổi cấp tốc được đề ra, Lâm Đồng quyết định hạ cây rừng, cấp 230.000 thanh tà vẹt gỗ cho ngành đường sắt. Nhưng số tà vẹt ấy vẫn không làm thay đổi được quyết định ban đầu.

 

Tàu răng cưa ngưng chạy. Đường sắt răng cưa vẫn bị tháo tà vẹt. Ông Phạm Khương một lần nữa gửi công văn hỏa tốc năn nỉ lần cuối cùng: xin tháo 70% tà vẹt để những thanh ray còn có điểm tựa (không bị gỡ đi vì khác kích cỡ với tuyến đường sắt Thống Nhất). Nhưng tất cả đều bị khước từ. Sau đó thì gần như toàn bộ tuyến đường từ ga Trại Mát trở về Tháp Chàm đều bị gỡ sạch tà vẹt. Còn những thanh ray và cả những đoạn răng cưa mười mấy cây số thì được hóa giá đưa về các nông trường, nhà máy tận dụng làm các công trình và sau đó tiếp tục được người dân “tiếp sức” cho vào những xưởng phế liệu.

 

Quá khứ bị bán rẻ

 

Vậy là tuyến đường răng cưa huyền thoại đã tan hoang chỉ sau một quyết định. Bảy đầu máy Furka lầm lũi nằm lại ga Đà Lạt, Tháp Chàm và Krongpha phơi sương gió. Những đầu máy răng cưa ấy có thể bị quên lãng trên chính xứ sở nó từng hoạt động, nhưng với những kỹ sư hỏa xa Thụy Sĩ, nơi cũng có một tuyến đường sắt răng cưa nhưng lại không còn chiếc đầu máy răng cưa hơi nước nào còn vận hành được, thì “đống sắt” trên những nhà ga ở miền cao nguyên Việt Nam là một báu vật.

 

Ông Khương nhớ đầu năm 1988, Ralph Schorno, một kỹ sư hỏa xa người Thụy Sĩ, đã tìm đến ga Đà Lạt và Tháp Chàm để xem những chiếc đầu máy răng cưa. Trong số bảy chiếc đầu máy, Ralph Schorno chấm được bốn cái còn tốt có thể khôi phục và một số toa tàu của Mỹ để lại. Và sau chuyến thị sát ấy của kỹ sư Ralph Schorno, những cuộc mặc cả đã được đẩy đi nhanh chóng với sự trợ giúp của Đại sứ quán Thụy Sĩ tại Hà Nội bởi một lý do rất đơn giản: cả một tuyến đường đã bị phá dỡ, chỉ còn mấy đầu máy hoen gỉ bỗng dưng có người mang đến những khoản USD lớn xin mua thì tại sao phải ngại ngần. Số tiền đề nghị bán là 1 triệu USD nhưng sau nhiều lần đàm phán đã được chốt giá 650.000 USD.

 

Thương vụ diễn ra nhanh chóng đến mức không ai kịp can thiệp. Ông Phạm Khương kể khi tỉnh Lâm Đồng một lần nữa hay biết về quyết định đó đã triệu tập một cuộc họp suốt 3 ngày liền để tìm cách giữ lại những chiếc đầu máy răng cưa. Nhưng “tiền trao cháo múc”, tháng 8.1990 khi mọi người đang họp thì phía Thụy Sĩ đã đưa xe đặc chủng lên tới Đà Lạt. Và cứ vậy, lần lượt những chiếc đầu máy và toa tàu răng cưa rời D’ran, rời Eo Gió, vượt Krongpha về Tháp Chàm rồi thẳng cảng Vũng Tàu, xuống tàu biển Thụy Sĩ. Câu chuyện về thương vụ bán những đầu máy răng cưa ấy đã vĩnh viễn đóng chặt giấc mơ nối lại tuyến đường xe lửa răng cưa trong ông Phạm Khương và rất nhiều người. Nhưng với người Thụy Sĩ lại mở ra một chương mới về sự hồi sinh của tuyến đường răng cưa mà từ nhiều thập kỷ trước đó, họ đã không còn đầu máy để chạy.

 

Chỉ hai tháng sau khi những đầu máy răng cưa rời Đà Lạt, ông Phạm Khương đã nhận được bưu phẩm của kỹ sư Ralph Schorno từ nhà ga Jungfraujoch. Đó là một cuốn sách rất dày, in những tấm ảnh màu trên nền giấy tốt, kể lại hành trình tìm ra đầu máy răng cưa ở Đà Lạt, đưa về Thụy Sĩ. Và cuối sách là những hình ảnh về hai trong bốn chiếc đầu máy răng cưa mà họ đã khôi phục thành công đang nhả khói trên đường đèo vượt dãy Alpes. Và rất lịch sự, người Thụy Sĩ đã không quên đính kèm một tấm bảng trên thành đầu máy, với dòng chữ về mốc thời gian mà chiếc đầu máy từng chạy trên tuyến đường Phan Rang–Đà Lạt. Như một sự nhắc nhớ về nguồn cội, nhắc nhớ về cả một nỗi đau trong những người Việt Nam từng yêu mến và tự hào về con đường răng cưa đã mất.

--Phạm Chân Dũng Fb


http://trchoa.blogspot.com/


NHs

Lời khẩn cầu của Rừng

 Mình nhận được email của chú Phấn, tiệm thuốc tây Minh Tâm, đường Duy Tân cũ; một bài viết về Đàlạt. Gửi qua Facebook thì có người đọc được, người thì không. Thêm được tải trên Scribd phải trả tiền hàng tháng nên mình đành tải về www.Muctimsonden.com cho các bác đọc.

Mình tìm được nhiều bài rất giá trị lịch sử nên từ từ mình sẽ chép lại, thêm ghi chú của mình rồi tải lên mạng lại. Mất thì giờ nhưng đành chịu. Ngoại trừ có ai chịu giúp mình làm việc này. Mình thích đọc và ghi lại hơn làm publishing (không rành). Vấn đề là nay thiên hạ đọc qua điện thoại cầm tay nên các bài trên mạng thuộc dạng xưa khiến khó đọc qua điện thoại. Nên cần chỉnh lại để đọc giả dễ đọc hơn. Chán Mớ Đời 

Lý do là mình nhận được tin nhắn của nhiều người gốc Đàlạt, trẻ hơn mình, họ đang tìm về lịch sử của Đàlạt nhưng tài liệu của Hà Nội thì Chán Mớ Đời. Có người hỏi về ông ngoại của họ, hay bố mẹ khi xưa vì tình cờ đọc những chuyện kể của mình,…

 

“Con thấy chú có rất nhiều ký ức về Đà Lạt, nên có những việc con muốn hỏi chú! Mẹ , chị con cũng biết, nhưng kg sâu sắc được như chú! 

Chú có biết hồ Tuyền Lâm, trước năm 75 là hồ Suối Tía không ạ?

Dạ đúng rồi chú! Nhưng cs đã xoá tên nó, viết lên Ưikipedia là họ đã xây dựng hồ tuyền Lâm vào sau năm 1980.

Ngày xưa nhà cháu cũng làm rẫy ở Suối Tía…..”

 

Mình cố gắng ghi lại những  gì đọc và nghe kể, ai thấy sai thì cứ cho mình biết để sửa chửa lại trên con đường tìm lại sự thật của Đàlạt khi xưa.

 

Có bài này được đăng trên mạng của một kiến trúc sư, tên Trần Công Hoà, gom lại nhiều bài của các tác giả khác, nói về một bài thơ, khẩn nguyện cầu của rừng, do một nhà kiểm lâm người đức đã làm và được dịch ra khắp thế giới để nhắc nhở con người không nên phá rừng. Ngày nay, chúng ta chứng kiến nạn phá rừng tại Đàlạt cũng như toàn lãnh thổ Việt Nam, đã gây ra bao nhiêu “nhân tai”.

 

Ai muốn giúp mình vụ này thì xin cho biết vì sẽ giúp mình có thời gian đọc mấy tài liệu nhiều hơn. Mình tìm ra được nhiều tài liệu lịch sử về Đàlạt bằng pháp ngữ. Mình biết tiếng pháp nên có thể dịch hay tóm lược lại các tài liệu này. Xin cảm ơn trước. Bài đầu tiên là lời khẩn cầu của rừng. Hy vọng người Việt ở Việt Nam sẽ có lương tâm để đừng phá rừng nữa. (tải trên mạng, chưa xin phép. Để kiếm email của họ).


Lời khẩn cầu của rừng - La prière de la forêt

 

Đà Lạt xưa không chỉ nổi tiếng với thác Cam Ly, rừng Tình Ái, hồ Than Thở, thác Prenn, hồ Xuân Hương, vòng Săn bắn, mộ ông bà quận công Nguyễn Hữu Hào, các trại ấp trồng rau nên thơ; xa hơn là thác Gougah, Suối Vàng... mà còn được ghi nhận như là nơi cư dân có sự quan tâm tốt đến vấn đề bảo vệ môi trường.

 

Xin cung cấp một tư liệu là một bức ảnh (+) do một cư dân Đà Lạt đương thời (năm 1942) ghi lại về một tấm bảng gỗ cao độ 1,2 m rộng 0,8 m đặt tại một gốc thông lớn ngay đầu con đường dẫn lên mộ ông bà Nguyễn Hữu Hào (thân phụ và thân mẫu của Nam Phương hoàng hậu, vợ cựu hoàng Bảo Đại). Tấm bảng gỗ trong bức ảnh này (xem ảnh) gồm hai mảnh; mỗi mảnh do hai, ba miếng gỗ thông ghép lại. Trên đó ghi một bài thơ (?) bằng tiếng Pháp mang nội dung rất thú vị về vấn đề bảo vệ môi trường.

 

Xin ghi lại như là một phản hồi ủng hộ bài Đà Lạt nóng báo TS ngày 6-3-2007.



(+) Bức ảnh do ông Lương Hòe chụp. Trước năm 1943, ông Hòe là cư dân Đà Lạt; hiện ông ở tại xã Tam An, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.

Việt Báo (Theo_TuoiTre) 

http://vietbao.vn/Xa-hoi/Loi-khan-cau-cua-rung/40190560/157/


La prière de la forêt

"Arbre, quel est ton nom?"

"Je suis la chaleur de ton foyer, par les froides nuits d'hiver,

 Je suis l'ombrage ami, lorsque brûle le soleil d'été.

Je suis la charpente de ta maison, la planche de ta table.

 Je suis le lit dans lequel tu dors et le bois dont tu fais tes navires.

Je suis le manche de ta houe et la porte de ton enclos.

Je suis le bois de ton berceau et de ton cercueil.

 (Phần được ghi trên tấm ảnh)

Je suis l'arbre à pain, l'ombrage de ta justice.

 Je suis le calme et la détente lorsque tu es stressé.

Je suis l'ami, le paysage, le compagnon de vie.

 Je suis l'attache de ton sol, la source de ton air.

Je suis, tu es, nous sommes, création du vivant.

Ecoute ma prière. Respecte-moi. Aime-moi."

 

 adaptation d'un ancien texte yougoslave, La prière de la forêt. 

http://le-blog-du-bucheron.over-blog.com/article-la-priere-de-la-foret-69352879.html 

 

La Prière de la Forêt

By Nguyen Xuan Thu

January 26, 2009


Je viens de lire dans les numéros 320 et 322 de la revue Xua và Nay (Hier et aujourd'hui) - une revue sur l'histoire - deux articles sur la ville de Dalat (sud Vietnam). On y a publié la photo d'un panneau montrant le poème "Prière de la Forêt". Le panneau devait exister dans les années 1930. Vu les ravages du temps et des évènements, il n'existe plus depuis longtemps, mais un ancien habitant de Dalat, M. Luong Hoe (encore vivant, 95 ans) en a copié le texte dans son carnet. Le texte a été reproduit dans la revue. Nul ne connait ni le nom de l'auteur, ni son origine.

 

Par intérêt à la culture francaise, j'ai essayé de chercher par le moteur de recherche Google et je suis tombé sur 2 sites reproduisant ce poème. Je suis très heureux de lire le texte en clair et avoir la confirmation de son existence.

Les deux administrateurs des sites auxquels je me suis adressé, m’ont répondu qu’il s’agit d’un poème soit recopié d’une revue sans mention de l’auteur, soit transmis oralement par un vieux bûcheron voilà une vingtaine d'années. Une seule indication, c’est qu’il figure sur la porte d’entrée du pavillon yougoslave, à l’exposition universelle de 1937 à Paris.

Il est intéressant de noter que le souci de la protection de l’environnement date depuis plus de 70 ans.

J’ai le plaisir de vous présenter la photo du panneau représentant le poème et sa transcription faite par l’ancien habitant de Dalat (identique au texte figurant sur le site internet)

  

LA PRIÈRE DE LA FORÊT

 

Homme !

Je suis la chaleur de ton foyer

par les froides nuits d’hiver,

l’ombrage ami

lorsque brûle le soleil d’été.

Je suis la charpente de ta maison,

le plancher de la table.

Je suis le lit dans lequel tu dors

et le bois dont tu fais les navires.

Je suis le manche de la houe

et la porte de ton enclos.

Je suis le bois de ton berceau

et de ton cercueil.

Ecoute ma prière,

Ne me détruis pas !


TẢN MẠN VỀ BÀI THƠ “LỜI NGUYỆN CỦA RỪNG”

 Trần Đăng Hồng

 

Khi còn là sinh viên tôi đã thích bài thơ “La prière de la forêt” – “Lời nguyện của rừng”, mặc dầu tôi chỉ là sinh viên canh nông. Ở Miền Nam vào thập niên 50 và 60, bất cứ sinh viên hay chuyên viên thủy lâm nào cũng thuộc bài này.

 

Homme !

Je suis la chaleur de ton foyer

par les froides nuits d’hiver,

l’ombrage ami

lorsque brûle le soleil d’été.

Je suis la charpente de ta maison,

le plancher de la table.

Je suis le lit dans lequel tu dors

et le bois dont tu fais les navires.

Je suis le manche de la houe

et la porte de ton enclos.

Je suis le bois de ton berceau

et de ton cercueil.

Ecoute ma prière,

Ne me détruis pas !

 

Tại Pháp, bài này xuất hiện đầu tiên trên một bích chương của Nam Tư (Yougoslavia) trong một triển lảm quốc tế tại Paris năm 1937. Tuy nhiên, theo các nhân chứng của giới chuyên viên Thủy Lâm Việt Nam, thì bài thơ này đã xuất hiện tại Việt Nam vào những năm đầu của thập niên1930. Bài thơ này được ghi trên bảng gỗ và được trưng bày ở hai nơi, một ở cổng chính Nha Thủy Lâm Miền Nam ở đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu), và Sở Thủy Lâm Đà Lạt có dựng một tấm bảng gỗ to ghi bài thơ này ở Cam Ly, trên đường vào Trung Tâm Thực Nghiệm Lâm Học Manline, cạnh phần mộ của ông Nguyễn Hữu Hào, tức thân phụ của Hoàng Hậu Nam Phương, Ba vợ của Vua Bảo Đại. Cụ Lương Hòe ở Đà Lạt, nay đã 98 tuổi, còn giữ bức ảnh của bảng gỗ này:  

 

Bảng gỗ ghi bài thơ tại Đà Lạt

 

Sau khi xuất hiện ở Pháp năm 1937, bài này được dịch sang tiếng Anh:


THE PRAYER OF THE FOREST

Man, I am the warmth of your home in the cold winter night, and the protective shade when summer’s sun is strong.

I am the framework of the roof to your house and the top of your table, the bed in which you sleep and the timber with which you fashion your boat.

I am the handle to your hoe and the door to your hut.

I am the wood of your cradle and the boards of your coffin.

I am the bread of your kindness and the flower of beauty.

Hear my prayer: “Destroy me not”!

 

Trong chuyến tham quan Ấn Độ năm 1960, Gs Lê Văn Ký, trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao và trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn, cũng thấy bài thơ này trưng bày tại nhà ăn sinh viên thuộc Trung tâm nghiên cứu và giáo dục lâm nghiệp Dehra Dun (Forest Research Institute and College).

Đà Lạt ngày nay
Đường nguyễn công trứ

 Vậy ai là tác giả của bài thơ nỗi tiếng này. Trong chuyến tham quan các Trung tâm nghiên cứu và Trường đại học lâm nghiệp ở Liên bang Đức năm 1962, tại Trường Đại học Freiburg, GS Lê Văn Ký đọc trong một tờ báo Lâm nghiệp cũ tại thư viện một bài thơ tựa đề “Das Gebet des Waldes” (Lời cầu nguyện của rừng) mà tác giả là Hannes Tuch.

 

O Mensch,

Ich bin deiner Wande Warme,

Wenn der Winter wind Weht

Bin schirmender Schatten, Wenn die Sommer Sonn Sengt!

Ich bin der huntende Helm deines Hauses,

Die Tafel des Tisches!

Ich bin das Bett, das dich Birgt,

Bin das Holz deiner Segelnden Schiffe!

Ich bin der Wachter des Wassers,

Der Hirte der Hindin,

Bin der Stab, der dich Stutzt,

Und der Wehrer des Windes!

Ich bin der Arm deiner Axt,

Das Tor und die Tur deines Hauses.

Ich bin die Wand deiner Wiege und das Brett deiner, Bahre.

Bin raunende Rune,

Und das Klingende Klangholz der Klampfr,

Ich bin das Brot und die Gute!

Erhor meine bitte:

Zerstore mich nicht!

 

Hannes Tuch là một cán sự lâm nghiệp, sinh ngày 2.11.1906, sống ở Kreis Warburg, Westphalie, Tây Đức. Ông còn là thi sỉ và nhà sưu tầm đồ cổ và sản xuất các loại mặt nạ, v.v. GS Ký có liên lạc với Hannes Tuch và được xác định ông là tác giả của bài thơ nỗi tiếng quốc tế này.

 

Như vậy từ bài gốc tiếng Đức này, bài thơ được dịch ra làm nhiều ngôn ngữ, mà đọc giả chính là giới sinh viên và chuyên viên Thủy Lâm trên khắp thế giới với tôn chỉ chính là bảo vệ rừng.

           

Tại Việt Nam, bài thơ tiếng Pháp này được phỗ biến trong giới chuyên viên Thủy Lâm, nói lên tôn chỉ nghề nghiệp là bảo vệ rừng. Bài này cũng được nhiều người dịch ra tiếng Việt, nhưng nỗi tiếng nhất là của B.B, tức Kỹ sư Thủy Lâm Bùi Bá, khoảng năm 1952. Ông sinh năm 1918 và mất vào năm 1991, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Nông Lâm Brévié Hà Nội năm 1940, cùng thời với GS Lê Văn Ký. Kỹ sư Bùi Bá theo kháng chiến chống Pháp, sau 1954 ở lại Miền Bắc, đã giữ chức Vụ trưởng Vụ Lâm nghiệp thuộc Bộ Lâm nghiệp và sau đó là chuyên viên cao cấp tại Bộ ở Miền Bắc. Bài dịch của Kỹ sư Bùi Bá như sau:

 

Người có biết những đêm đông giá lạnh, ta bốc hơi ấm lửa hun nồng

Người có biết, những ngày nắng gắt, ta cho tàng mát rượi ánh thiều nung,

Người có biết, dưới sườn nhà đồ sộ, ta cho người dầu dải nắng mưa chan;

Người có biết, trên nếp giường êm ấm, người nương ta an giấc điệp mơ màng

Người có biết, kìa con thuyền vượt sóng, ta đưa người du ngoạn khắp năm châu,

Người có biết, nọ chuôi cày xới đất, ta vun cây cho nẩy nở hoa màu

Chính ta đã rước người vào cuộc thế, trong chiếc nôi âu yếm mẹ đưa ru

Rồi ta sẽ tiển người khi vĩnh biệt, làm áo quan ấm áp giấc nghìn thu

Người hởi người, nghe lời ta cầu nguyện,

Chớ hại ta mà vủ trụ u sầu.

Để ta sống, ta điều hoà mưa nắng, hoa xinh tươi cây cối nẩy thêm tươi,

Để ta sống, ta ngăn luờng vủ bảo; chận cát bay làn gió bốc tung trời

Để ta sống, ta đùn mây quyện gió, gieo mưa tuôn đầm ấm cỏi trần gian

Để ta sống, ta cản dòng nước lủ, cứu nhân dân cơn thuỷ nộ lầm than

Ta là Mẹ của muôn nền hưng thịnh, làng hưng phong xây dựng nước hưng phong

Ta tô điểm non song nên gấm vóc, cây xanh cao lá biếc lớp trùng trùng

 

Vì sống ở Miền Bắc, Kỹ sư Bùi Bá không dám để tên thật, mà chỉ để với bút hiệu B.B, chỉ có thân hữu lâm nghiệp thân thiết mới biết tác giả là Bùi Bá. Bài này bị vào quên lãng ở Miền Bắc, ngay cả chuyên viên Thủy Lâm cũng không ai nhớ đến. Mãi đến 1957, sau khi Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc ở Miền Nam được thành lập (1955), Kỹ sư Thủy Lâm lão thành Nguyễn Hữu Đính ở Huế gửi tặng trường bảng Danh từ Lâm Học Pháp Việt, cùng với bài thơ “Lời cầu nguyện của rừng” của Kỹ sư Bùi Bá. Hai tài liệu này được KS Đính mang từ Bắc về, sau khi đi dự một hội nghị về lâm nghiệp ở miền Bắc trước khi đất nước chia đôi 1954. Kễ từ đó, bài thơ “Lời cầu nguyện của rừng” của Bùi Bá được phổ biến rộng rãi trong giới sinh viên và chuyên viên Lâm Nghiệp ở Miền Nam.

Mãi tới 1982, KS Bùi Bá ghi thêm 2 câu thơ dịch từ 2 câu thơ đầu của bài thơ nỗi tiếng “La Forêt” của Claude Adhémar André Theuriet (8 October 1833 - 23 April 1907);

 

La forêt

Au plus profond des bois,la Patrie a son coeur;

Un peuple sans forêt est un peuple qui meurt,

C'est pourquoi tous, ici, lorsqu'un arbre succombe,

Jurons d'en replanter un autre sur sa tombe…

 

Thành:

 

Người hởi!

Hồn Tổ Quốc ngự giữa  sâu thẩm

Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong

 

André Theuriet còn có bài thơ bất hủ “Không có quá khứ thì chẳng có tương lai” (Sans passé il n’y a rừngpas d’avenir).

 

Năm 1996, nhân khi thấy tình trạng phá rừng quá trầm trọng ở Việt Nam, nhà văn Võ Hồng dịch bài “La prière de la forêt” mà Ông đã thấy năm 1945 trên bảng gỗ tại Cam Ly Đà Lạt để kêu gọi và nhắn nhủ thanh niên Việt Nam hãy ý thức bảo vệ rừng (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 21/7/1996). Tiếng gọi của ông bay vào hư vô.

 

Ở Pháp có câu nói: “Rừng có trước con người, sa mạc đi theo sau con người” (Les forêts précèdent les peuples, les déserts les suivent”. Thật là chí lí! Con người chính là nguồn hủy diệt rừng và sa mạc hóa đất đai.

 

Tôi thuộc loại “hâm mộ” bài thơ dịch của KS Bùi Bá, mặc dầu tôi là dân Canh Nông, và tôi đắc ý nhất về 2 câu thơ cuối cùng này “Hồn Tổ Quốc ngự giữa rừng sâu thẩm, Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong ».  Có lẽ KS Bùi Bá đã thấy hay đã tiên đoán trước sự việc nên mới thêm 2 câu này sau 30 năm (1952 – 1982). Chắc chắn ông có chủ ý.

 

Đã đành rằng “con người” hủy diệt rừng. Nhưng ai là “con người” phá hủy rừng nhiều nhất. Thật đáng thương cho các dân tộc thiểu số sống trong rừng, họ không có tiếng nói, họ bị xua đuổi để sống trong chốn đèo heo gió hút, để nhường lại mảnh đất phì nhiêu nơi đồng bằng cho “con người” mạnh hơn họ, để nay lại phải mang tiếng là kẻ phá hoại rừng với kỹ thuật “đốt rừng làm nương rẫy” trong đời sống du canh của họ. Nhưng, so với các kỹ thuật canh tác khác, đây là một kỹ thuật rất “bạn” (friendly) với thiên nhiên, vì chỉ 2-3 vụ canh tác, họ dời đi nơi khác và đất rẫy được thành rừng trở lại.

Các tường trình mới đây cho biết chính các nhà đại tư bản, bản xứ hay nước ngoài, thỏa hiệp với cơ cấu chánh quyền địa phương hay trung ương, khai phá tài nguyên dưới rừng mới thật sự là nguồn phá hủy rừng. Như ở Phi Châu, Angola chẳng hạn, Trung quốc đã làm chủ hầu hết các cánh rừng bạt ngàn, ủi đào, tàn phá môi trường để khai thác quặng mỏ. Tại rừng Amazon Nam Mỹ các công ty dầu lửa, mỏ vàng, uranium, v.v. xô đuổi dân tộc thiểu số vốn quen sống trong rừng, để khai thác tài nguyên tiềm tàng dưới rừng. Tại Indonesia, các nhà đại tư bản phá rừng để trồng cây “dừa dầu” (oil palm) để sản xuất xăng sinh học. Các chính phủ này cũng nhân danh phát triển kinh tế, nhân danh gia tăng lợi tức GDP cho quốc gia và dân chúng, nhưng thật sự chỉ có một thiểu số hưởng lợi. Đại đa số dân chúng chỉ hưởng hậu quả của phá hủy môi trường thiên nhiên và vẫn nghèo đói. Sự cách biệt giàu nghèo trong xã hội ở những quốc gia này càng ngày càng cách biệt.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyen Xuan Thu (2009) – La prière de la forêt. http://www.ipernity.com/blog/xuanautuno32/120851

2. GS Lê Văn Ký & KS Huỳnh Minh Bảo (1998). Về bài thơ Lời cầu nguyện của rừng. http://onthay.tumblr.com/post/190695955/ve-bai-tho-loi-cau-nguyen-cua-rung

3. Võ Hồng (1996). Lời cầu nguyện của rừng.Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 21/7/1996

 

Các bài cùng chủ đề của tác giả:

1.      Rừng và tài nguyên VN.http://www.trandang.net/Default.aspx?g=posts&t=291

2.      Flora and fauna of Vietnam:

http://www.trandang.net/Default.aspx?g=posts&t=296

3.      Tản mạn cùng thầy cô:

http://www.trandang.net/Default.aspx?g=posts&t=82

 

Reading, 9/2010

Trần Đăng Hồng

http://myweb.tiscali.co.uk/hbtdp/_private/Tan%20man%20ve%20bai%20tho%20Loi%20Nguyen%20Cua%20Rung%20-%20Tran%20Dang%20Hong.htm