Nguyện bình-an cho Ukraine

Mình nhận được tin nhắn của một người bạn, di tản năm 1975, hỏi các bạn và các vị linh mục; muốn giúp các người dân xứ Ukraine, chạy loạn, xa lánh chiến tranh như người Việt, đồng cảnh ngộ khi xưa. Cũng cảnh Việt Cộng pháo kích vô tội vạ trên đại lộ kinh hoàng vào các người dân chạy vào thành phố tránh bộ đội. Người chết là liệt trên đường chạy giặc. Mình có một anh bạn thời thơ ấu, bị giết trong một vụ pháo kích trước khi xe tăng Việt Cộng vào thành phố. 

Václav Havel, cựu nhà văn ly khai và tổng thống nước Tiệp từng nói : “The salvation of this human world lies nowhere else than in the human heart, in the human power to reflect, in human meekness and human responsibility.”

 Thấy video một bài ca “nguyện bình-an cho Ukraine” của cha tuyên uý Hải Đăng hát trong một buổi lễ tại nhà thờ khiến mình rất cảm động, chưa biết làm gì để giúp những người chạy loạn Ukraine. Có anh bạn quen vài người việt ở Ukraine, nói sẽ liên lạc rồi cho mình biết sau.

 https://youtu.be/QeMI01lMt9k

Dear Cac AC & 2 Cha 



News from Ukraine is not Good at all. Over 1,200,000 Tỵ nạn (Almost 50 years. I was a Refugee and the child of the War. The prediction of this War – It’s getting worse soon. I am not sure “What can we Do?”, But I want to Stand with the Ukraine.

Last Sunday I asked my community for Prayer & Alms giving
 for the people of Ukraine. 

Ukraine collection got 

$3,528.35. 


Cha Hải Đăng Ơi! Thank U very much for a beauty song "Nguyện Bình An Cho Ucraina”. 


https://youtu.be/QeMI01lMt9k


Let us listen his Song and the crying of the People of Urcaina.

Ministry Without Border  – will echo their Cry and Đốt Một Ngọn Lứa Tình Yêu. 

Xin quị AC cùng Đổng hành. 

Hoaichuong 

Đây là hình ảnh vợ chồng anh Milevskyi mà Mục Vụ Không Biên Giới đã liên lạc được và gửi tiền. Họ cầm cờ Ukraine và logo của Mục Vụ Không Biên Giới.

Đây là hình ảnh của Milevskyi mới gửi qua Viber
Trong 200 usd nhân được đã gửi 150 cho quân đội và dân quân bảo vệ Kyiv 50 usd mua đồ ăn cho binh sĩ đây ập (Anh Milecskyi cầm logo của Mục Vụ Không Biên Giới) nguyện cầu cho anh ta được bình yên.

(Do người bạn của Mục Vụ Không Biên Giới, giới thiệu anh Milevskyi gửi cho mình qua Viber). Lúc đầu, mình tính gửi $1,000 nhưng ở ngân hàng người ta tìm không ra Port của Kyiv nên phải bypasss vụ này. Hinh như họ không cho gửi qua Ukraine, vì không bảo đảm. Họ nói gửi tiền kiểu này như đưa con vô Nội, nên mình gửi thử $200, tốn tiền cước đến $50. Nay bên kia nhận được thì mình sẽ gửi tiếp. Có cha Trí Phạm lên đường sang Âu Châu nên Mục Vụ Không Biên Giới đã gửi cho cha số tiền $5,000. Sáng nay 9:00 sáng ngân hàng mở cửa, mình sẽ chạy ra gửi tiếp $1,800. Chỉ là hạt muối vào đại dương.

Quý Cô Chú, Anh Chị và các Cha rất mến,
Much prayer and Blessing to you and your family.
 
Trong vòng hai tuần, khi quân đội Nga xâm chiến Ucraina nhiều thành phố ̣đã thành hoang địa, theo Liên Hiệp Quốc tổng số người Ty Nạn đã lên đến hơn 2,500.000 người trong số đó hơn ½ là trẻ con và người già. Một sự trớ trêu của cuộc Nga xâm lăng Ukraine, Chính quyền Nga đưa quân đội xâm chiến Ukraine – lại kêu gọi người Ukraina hãy đến Belarus hay đến Nga tỵ nạn!

What can we do, how can we help or how much can we assist the poors and the Refugees? The Holy Father Pope Francis in  Lenten Messge: “Do not grow tried of doing Good”
́ 
*Cám on tất cả các Cô Chú, quí anh chị em, đã dâng lời nguyện và đã nghe lời kêu cứu của những người đang sống trong tuyệt vọng nhưng họ vẫn cản đảm chiến đấu cho Tự Do và Yêu Thương.

*Cám ơn Cha Hải Đăng đã sáng tác và trình diễn bài Nguyện Bình An cho Ucraina.

*Cám ơn, quý Cô Chú, quí anh chị em Vịnh Tampa, Florida đã gom góp và Zelle $2,000 đến Cha Tri. Nơi cha Trí sẽ đến là nơi mà người Ty Nạn Ucraina vừa đến nước Ý. Anh Hoàng Sơn đã ứng trước và Zelle qua cha Tri Pham $3,000 (Cha là một thành viên của Mục Vụ Không Biên Giới).
 
Mục Vụ Không Biên Giới cũng đã chuyển $2,000 qua anh Milevski A. I. (gia đình AC Milevski A. I. ̣ đến nay vẫn sống tại Thủ Đô Kyiv, nơi đây là tâm điểm của đạn – pháo. Trong những ngày sắp đến, quân đội Nga sẽ tìm mọi cách chiếm cho được thành phố này.

– A Milevski A. I. ở trong lứa tuổi 18-60 nên phải ở lại chiến đấu. Chị Milevski đã quyết định ở lại Kyiv với chồng và cùng người dân Ucraina chiến đấu và bảo vệ đất nước. Lo lắng cho tương lai của quê hương và gia đình. Anh chị đã tiễn biệt người con trai duy nhất ở trạm xe lửa tại Kyiv. Cháu trai là Người Ty. Nạn đang chờ đợi tại biên giới Ukraine – Poland!

One again – Please keep the Ukraine people in your prayers  

Linh mục Nguyễn Hoài Chương (Hoa Kỳ) & Vũ Đình Dũng (Canada)

Mục Vụ Không Biên Giới

Bút Nhóm Lửa Việt

How to contact Lua Viet

E-mail:luaviet@luaviet.org 
Snail Mail:Lua Viet Youth Association 
P.O. Box 349 
Marlboro, NJ 07746-0349
Make a donation with 

paypal.me/luaviet

Donate through PayPal Giving with NO FEEs to Lua Viet

PayPal Giving

Chiến tranh tâm lý tại Ukraina

 Cuộc chiến tại Ukraine đã lên tới ngày thứ 10, tin tức “giả” tràn đầy trên mạng nên không biết đâu là bến bờ. Các tin tức giả này do hai bên tạo dựng để tuyên truyền nhằm đánh vào tâm lý của đối phương hay do dân cư mạng, buồn đời, tự chế ra để câu Like. Mình mò tìm tài liệu để hiểu thêm vấn đề này. Nga sô xuất cảng 12% số dầu hàng năm của thế giới mà kinh tế Nga Sô không tăng trưởng từ 12 năm nay, nhiều khi còn xuống. Thế lầy nà thế Lào?

Người ta giải thích có nhiều nguyên nhân: chỉ có một thiểu số, cận thần của Putin hưởng lộc, đem tiền ra ngoại quốc đầu tư. Giải thích thứ 2: Nga Sô dự trữ tiền để chuẩn bị tấn công Ukraine và các nước khác lân cận để thu phục lại các chư hầu. Có lẻ Putin đã thương lượng với các nước Tây phương như Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu châu trước rồi mới tấn công. Điểm này thì khá đúng.

Nếu ông tổng thống Ukraine, sợ hải, bỏ chạy thì có lẻ quân đội Ukraine đã tan hàng. Ông ta kêu chỉ cần đạn dược, không cần quá giang xe để di tản. Báo chí tây phương so sánh ông này giới thủ tướng Anh quốc Winston Churchill. Thậm chí 1 ông cựu tổng thống Ukraine, bị tố cáo tham nhũng bỏ chạy ra hải ngoại, lò mò về để chiến đấu, dù mai sau có thể bị tù. Liên HIệp Âu Châu, bắt buộc phải tiếp tế súng đạn và thực phẩm. Ba Lan tuyên bố sẵn sàng giao chiến đấu cơ do Nga Sô chế tạo khi xưa, cho Ukraine mà phi công Ukraine quen sử dụng, với điều kiện Hoa Kỳ giao cho họ F16. Loại cũ, ra trận thì sẽ bị phòng không của Nga Sô hạ ngay. Đồ cũ đem cho từ thiện.quăng đi thì tiếc, trao đổi với mỹ cho có tiếng.

Mình có đọc bài của một ông bộ đội cao cấp của Hà Nội, kể khi sang Nga Sô, học tập và viếng thăm thì thấy quần áo của lính nga te tua. Chắc là các cấp sĩ quan tham nhũng, bỏ túi bổng lộc khiến lính không được trang bị đàng hoàng. Trên tờ WSJ, tuần này có đăng bài nói về ông bộ trưởng quốc phòng của quân đội Nga Sô, Sergei Shoigu. Người được giao tiền để cải cách quân đội Nga Sô từ bao niêu năm nay. Các cuộc chiến như ở Syria, Crimea, kết thúc nhanh chóng nên quân đội Nga nghĩ là Ukraine cũng đầu hàng nhanh chóng để tránh thiệt hại. Ai ngờ ở Ukraine thì Hoa Kỳ đã chuyển khá nhiều súng phòng không tầm nhiệt cá nhân, nên không lực Nga Sô không làm mưa làm gió như ở vùng trời Syria.

Đọc tài liệu của Hoa Kỳ thì các chiến sĩ an ninh mạng của Nga nhảy vào chê đủ trò nhưng không lý luận gì cả. Được cái họ không chửi rủa.

Mình đọc tài liệu về các hoạt động chính trị Nga Sô trên thế giới. Họ thành lập và cho tiền các tổ chức ở các xứ Tây Phương, để tuyên truyền nhất là các tổ chức cực hữu. Người ta thấy hình của bà chủ tịch đảng cực hữu Pháp quốc, bắt tay với Putin. Xem tranh luận trực tiếp của quốc hội Pháp, thấy các đại diện cực hữu, rất mềm với Putin trong khi các đảng xã hội,…lên án rất gay gắt. Mình có theo dõi vài trang trên mạng của nhóm Nga Sô nhưng từ ngày chiến tranh xảy ra thì không thấy họ xuất hiện nữa. Có thể các trang mạng xã hội đã xoá sổ các nhóm này như Putin đã khoá các trang Facebook, Twitter,..

Cả hai phe đều sử dụng truyền thông để đánh tâm lý vào lòng địch. Như video cô bé gái chửi bới một quân nhân nga sô, khiến thiên hạ trên mạng, tải đi quá cỡ. Sau này, có những nhà báo đàng hoàng một tí thì cho biết đó là video 10 năm về trước, xảy ra tại Do Thái, Palestine. Hôm nay mình xem một đoạn video máy bay trực thăng nga bị bắn hạ. Xem không gian và cây cỏ thì thấy có vẻ ở trung đông vào mùa hè thì đúng hơn. Hay họ tung hô một cựu phi công, cho biết đã bắn hạ 7 chiếc phi cơ của Nga Sô. Hoá ra là các video của game điện tử. Các video này khiến ủng hộ viên hai bên hồ hởi phấn khởi, kêu gọi như đám quân nhân canh gác một hòn đảo Ukraine, chửi quân Nga Sô. Sau đó lại thấy họ bị Nga Sô bắt làm tù binh. Cho thấy mặt trận Lê Văn Tám nổ hơi nhiều từ hai phe nhưng để giúp lên tinh thần. 


Tình hình như hồi bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vừa qua. Ai ủng hộ ông Trump thi võ tay các tin giả rồi tải lại để chia sẻ với bạn bè. Ai chống ông Trump thì tìm tin tức nói xấu ông Trump, khiến mình không biết đâu là bến bờ. Ngưng đọc tin tức.

Nhớ hồi nhỏ, nghe đài Sàigòn, tin chiến sự thì phe ta hoàn toàn vô sự, cộng quân bỏ xác tại chỗ bao nhiêu đó. Tối tối lén nghe đài Hà Nội thì lại nói ngược lại và còn nhân gấp 10. Từ đó, mình bắt đầu đặt câu hỏi về các tin tức trên đài ra-dio.

Các nguồn tin cho biết Nga Sô liên can đến nội bộ các đảng phái Hoa Kỳ, cũng như bầu cử, có vẻ khả tín vì mình mò đọc các tin tức liên quan đến ngân hàng tây phương, nhắm mắt để các nhóm tài phiệt Nga Sô chuyển ngân. Đường dây của họ chuyển về ngân hàng ở đảo Chyprus. Mình nghe nói các nông dân, chăn dê ở xứ này, bổng nhiên được bận áo quần, cà-vạt để làm nhân viên ngân hàng. Người Nga có tiền, chuyển ngân ra đây rồi từ đó chạy qua các ngân hàng ở Trung Mỹ rồi họ mua nhà cửa, đầu tư ở tây phương. Xong om.

Điển hình là tổ chức thế vận hội Sochi. Dự án lúc đầu là 11,4 tỷ mỹ kim, sau đó Putin và đồng bọn đội vốn thêm 41 tỷ đô la, xem 400% thêm. Tha hồ bỏ túi, ra hải ngoại mua nhà cửa, du thuyền.

Có nhiều chuyên gia về công nghệ thông tin, ngạc nhiên vì chưa thấy Nga Sô đánh phá các mạng của Ukraine như đã làm trước đây khi xâm chiếm Crimea. Chúng ta chỉ nghe nói đến cuộc chiến súng đạn ở chiến trường và cuộc chiến kinh tế, cấm vận nhưng quên không nhắc đến cuộc chiến qua mạng. Lại nghe các nhóm hacker Anonymous nào tuyên chiến với Nga Sô. Có một điều chắc chắn là khi chiến tranh kết thúc mình sẽ mua cổ phiếu ngân hàng nga Sô vì tuột giá xuống tận cùng bằng số. Chán Mớ Đời 

Có lẻ vì vậy mà các nước tây phương lên tiếng khoá các trương mục của mấy tên tài phiệt này, xem như cướp trắng của họ luôn nhân danh chi đó. Hôm qua, Hoa Kỳ chửi Venezuela, nay gặp chuyện thì về bản họ để mua dầu cho rẻ. Nói như Lenin là bọn tư bản bán cho chúng ta cái thòng lòng để xiết cổ chúng. Chúng không từ nan việc gì cả để làm tiền dù để tự huỷ diệt. Mình đang đọc mấy cuốn sách vè cấm vận và bán chui ra sao. Hôm nào xong sẽ kể nếu thiên hạ thích.

Trung Cộng đã mua các công ty Hoa Kỳ như IBM, Motorola,.. có đâu trên 30 công ty hàng đầu của Hoa Kỳ đã được Trung Cộng mua. Còn các công ty được tài phiệt Nga mua thì khá kín đáo hơn là anh ba tàu. Có dịp mình sẽ kể vì đọc tài liệu chính thống.

Họ có thể chuyển ngân lậu như khi xưa thì được nay ngay cả Thuỵ Sĩ cũng không dấu được. Thật sự những ai làm ăn phi pháp tại nước họ, đều tìm cách chuyển ngân ra hải ngoại để lỡ có chuyện gì bay ra hải ngoại, hạ cánh an toàn. Có dạo nghe nói bà đại biểu nào của Việt Nam, mua số thông hành của đảo Malta, tốn 1 triệu đô la. Đâu phải khơi khơi họ cho ra mắt tập hồ sơ Panama. Như báo trước là họ còn biết nhiều chuyện khác.

Không biết chiến trận sẽ ngã ngủ ra sao. Có một điều là các nước thường được xem là trung lập như Thuỵ Điển, Phần Lan, thậm chí Thuỵ Sĩ cũng lên tiếng cấm vận, khoá sổ các trương mục của người Nga. Anh Tây và bà Đức thường không nghe anh Mỹ vì nghĩ sẽ thương lượng với ông Nga. Nay thì hoảng tiều, bà Đức thay đổi tư duy, gia tăng ngân quỹ quốc phòng, cung cấp vũ khí cho Ukraine. Đây súng đạn đây, mày bắn chết tụi nga dùm tao. Nhưng vẫn mua dầu của anh Putin.

Có lẻ điểm mà cả hai bên không ngờ là phản ứng của người dân Ukraine đối với cuộc xâm lấn lãnh thổ Ukraine của các đoàn quân Nga. Thấy hình ảnh chụp có đoàn quân xa nga sô, đậu dài mấy cây số. Có lẻ súng phòng không của Nga Sô rất lợi hai nên không quân Ukraine không dám bay lại. Nghe nói họ đánh lẻ tẻ dọc quốc lộ, khiến quân Nga chết khá nhiều. Nga Sô cho biết có 481 tử trận tuần lễ đầu, xem như 70 lính/ ngày chưa kể ông tư lệnh nhảy dù gì bị ám sát chết.

Máy bay AWAC của Hoa Kỳ bay sát biên giới Ukraine để dùng radar báo tin cho quân đội Ukraine nên họ tiêu diệt khá nhiều máy bay của Nga Sô, khác với chiến trường Syria, các quân đánh nhau dưới đất không được yểm trợ bởi máy bay thám thính của Hoa Kỳ. Dân Syria chết, mặc tụi bay, chỉ khi nào người da trắng và con dân của Chúa thì mới lo.

Cách đây 8 năm, Nga Sô đã xua quân qua chiếm một phần đất của Ukraine. Khu vực này có rất nhiều gốc Nga, di dân nên ủng hộ Putin, kiểu Chợ Lớn khi xưa. Các nước Tây Âu và Hoa Kỳ, dạo ấy do tổng thống Obama lãnh đạo, chỉ cấm vận cho có lệ. Họ nghĩ kỳ này, tương tự người Ukraine sẽ đầu hàng, khuất phục trước đoàn binh Nga Sô, giải phóng khỏi giấc mơ tư bản dãy chết của người dân Ukraine. Người dân xứ Ukraine sẽ đón tiếp họ trong tiếng ca: “như có bác Lê-nin trong ngày vui đại thắng”. Ai ngờ, người Ukraine đã xem xét lại hành trình từ ngày dành lại độc lập. Chạy theo Nga Sô thì nghèo trong khi các nước chư hầu của Nga Sô khi xưa như Ba-Lan, Tiệp Khắc, nay giàu mạnh nhờ thể chế Dân Chủ, có thể kiểm soát các tay cầm quyền. Mình thắc mắc vụ ông tổng thống hay thủ tướng Ba Lan bi rơi phi cơ mấy năm trước. Mình đoán là anh Putin chơi nhưng chưa tìm được tài liệu. Ai có thì cho em xin.

Mình đọc tài liệu quân sự thì được biết bắt đầu năm 2015, các nhóm lực lượng đặc biệt của Mỹ, đã sang Ukraine huấn luyện binh sĩ của xứ này, đâu 2,000 người. Rồi các người này trở về đơn vị để huấn luyện lại. Nhờ đó mà cách đánh du kích, bắn phá xe tăng của Nga Sô, đã làm đình trệ cuộc quân tiến của Putin. Có một huấn luyện viên Mỹ kêu là người Ukraine rất giỏi, ông ta không dạy gì nhiều lắm ngoài sử dụng các vũ khí mới còn về du kích chiến thì họ rất thiện chiến.

Các chuyên gia cho hay, các tướng lãnh thân Putin, bỏ túi tiền khi trang bị quân đội. Thay vì mua bánh xe của hãng Michelin cho quân xa sử dụng, họ mua của Trung Cộng rẻ hơn. Nay ra chiến trường, bánh xe Trung Cộng sản xuất không đi trên tuyết được nên nằm đường, làm bia cho phe kháng chiến Ukraine tập bắn. Cho thấy quân trang và quân dụng của quân đội mà chơi đồ Made in Trung Cộng là hơi mệt.

Ông bộ trưởng bộ quốc phòng của Pháp, nói đã biết từ lâu, Putin chuẩn bị xâm chiếm Ukraine. Ông ta đợi thời tiết nghĩa là mùa lạnh để tấn công. Ai ngờ ông Tàu, đang kẹt thế vận hội nên yêu cầu Putin hoảng cuộc tấn công thêm vài tuần. Giúp người Ukraine có thêm thời gian để chuẩn bị thêm, khiến cuộc tấn công mất tính cách bất ngờ. Mình nhớ ông tổng thống Biden, trước thế vận hội, nói là Nga Sô sẽ đánh, dù họ báo tin đã rút lui.

Điểm chắc chắn là sau vụ này, Hoa Kỳ sẽ bán được súng đạn nhiều hơn, Thổ NHĩ Kỳ sẽ bán được Drone nhỏ vì rẻ lại mang được 3 kí chất nổ để đánh Nga Sô cách mấy dặm. Mấy súng phóng hoả tiễn cầm tay để bắn hạ máy bay và xe tăng kinh hoàng. Nội trái B40 không đã làm te tua thiên hạ nay với Javelin. Ít ai mua súng đạn của Nga Sô. Nhiều khi hai bên chơi nhau, cho đánh nhau để họ thử súng đạn rồi kêu ngưng để thiên hạ mua. Mình thấy báo chí nói nhiều về mấy loại súng tầm nhiệt, bắn phi cơ nên đoán là họ quảng cáo. Mình sẽ mua cổ phiếu của Tesla, khi êm êm. Thiên hạ sẽ mua Internet của công ty này được giới thiệu qua Starlink.

Mình nghĩ người Ukraine can đảm chống lại vì họ không muốn sống trong ách cai trị của Nga Sô nữa. Sau năm 1991, nước này vẫn theo Nga Sô. Nên nhớ là kỹ nghệ chiến tranh của Liên Xô, đa số các nhà máy chế tạo vũ khí nguyên tử đều ở Ukraine. Thậm chí các lò nguyên tử như Chernobyl. Thập niên trước, Ukraine tuyên bố từ bỏ vũ khí hạch nhân. Phải chi họ còn giữ như họ KIm Chi ở Triều Tiên thì không có thằng nào dám lộn xộn.

Các chế độ bù nhìn trước kia, chỉ ăn và tham nhũng, mạnh ai nấy ăn, chả để ý đến người dân nên họ nổi điên lên, đánh đuổi ông tổng thống chạy có cờ, qua Nga Sô tỵ nạn. Từ đó, họ muốn gia nhập khối Liên Hiệp Âu Châu, để có một xã hội trật tự hơn và giàu có như Ba Lan, Tiệp Khắc,…

Năm 1975, người Việt mình bỏ chạy khi bộ đội vào thành phố. Đa số bỏ súng theo lệnh đầu hàng. Nếu họ đã biết trước hay đã nếm mùi Ngăn Sông Cấm Chợ hay học tập cải tạo thì mình bảo đảm chỉ cần 1 tháng là Việt Nam Cộng Hoà đánh tan bộ đội cụ hồ. Dân nằm vùng, chắc chắn sẽ không bắt tay, mua gạo đường cho họ. Như một bác ở Cần Thơ kể: khi xưa, tối nó về, 12:00 giờ đêm, gõ cửa kêu mình nấu cơm cho nó ăn. Nay lên xã, nhờ nó ký cho tờ giấy đi đường, nó kêu để đó. Nay mà quốc gia trở lại thì nó có núp trong váy tui, tui cũng lột váy ra phủi cho quốc gia bắt nó. “Đả đảo Thiệu Kỳ, mua cái gì cũng có, hoan hô Hochiminh, mua cái gì cũng xếp hàng”. Chán Mớ Đời 


Hy vọng chiến tranh sẽ kết thúc sớm, càng kéo dài càng giết người dân vô tội thêm. Mấy tên hưởng lợi từ chiến tranh, không có mặt ở đó. Chỉ có dân chết và đau khổ.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

“In desperation” Trong nổi khốn cùng

Mình xin giới thiệu một bài viết của ông Nguyễn Thế Thăng. Sau tháng 4 1975, ông ta vào chiến khu Việt Cộng để tiếp tục chiến đấu với các chiến hữu, tương tự vài người lính trinh sát của đại đội 302 xưa của Đà Lạt mà mình đã kể. 

Bài viết được đăng trên một tập san War, Literature & the Arts về quân đội Hoa Kỳ. Bài này do ông Lê Văn trên diễn đàn Adran Đà Lạt dẫn. Mình không chia sẻ trực tiếp được từ trang cá nhân của ông ta nên mạn phép chép lại, luôn tiện chép luôn bài bằng anh ngữ đăng trên tập san của quân đội Hoa Kỳ, cho ai không đọc được tiếng Việt.

See English version below

 TRONG NỖI KHỐN CÙNG

Tác Giả: Nguyễn Thế Thăng

January 31, 2022 90

Tại Việt Nam, trước 1975, Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp khoá K2DH/ĐH/CTCT, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Sau tháng Tư, 1975, ông cùng các chiến hữu vào mật khu tiếp tục chiến đấu chống cộng. Tháng 10-1975, sau nhiều nỗ lực chống trả, mật khu chống cộng bị chiến xa cộng sản tràn ngập, tác giả bị thương rồi bị bắt với vũ khi trên tay, bị mang “triển lãm” tại huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Bài viết sau đây là hồi ký về những ngày tháng khốn cùng kể trên.

Câu chuyện không liên quan tới nước Mỹ, nhưng bản Anh ngữ của bài viết - do chính tác giả dịch - đã được chọn đăng trong tập san "War, Literature Art" cua Học Viện Quân Lực Hoa Kỳ (USAF Academy). Phải chăng tờ tạp chí này coi đây như một phần ký ức cần soi sáng của người Mỹ về chiến tranh Việt Nam.

Sau đây là câu chuyện điển hình về Nỗi Thống Khổ Bi Hùng mà Người Lính Cộng Hoà hằng gánh chịu sau ngày mất nước với lòng can đảm bền bỉ tuyệt đối của người luôn vững tin về Chính Nghĩa của Quân, Dân Miền Nam cũng như của toàn Dân Tộc Việt Nam.

***

Suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Ðông 1975 là một cái đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam Việt Nam vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9 Long Thành, Biên Hoà (Ngã Ba Thái Lan) trong một dãy nhà tôn vách gỗ mà không hề có lấy một tấm mền mỏng che thân! Ban ngày ngủ, ban đêm phải thức trắng ngồi xoa bóp liên tục khắp cả người cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong cái lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu.

Chính từ chuỗi ngày đêm nơi tầng cuối địa ngục này lại trở thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.

Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài. Khoảng đầu tháng 6/75, tôi lên Trà Cổ (Hố Nai, Biên Hoà) rồi từ đó vào rừng gia nhập Liên Ðoàn 5 của Ðại Úy Lê Ðình Thạch (trước đây thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh) gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Ðộng, Cảnh Sát, Ðịa Phương Quân…

Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của việt cộng vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). Việt cộng tràn ra thành phố, bỏ ngõ mật khu của họ lại với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chỉ còn được dùng để đánh cá vì hệ thống kích hoả bị hư đến hơn 60%. Chúng tôi thường tấn công những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ… Trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho đem bỏ từng bao trước cửa mỗi nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thực phẩm khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh Việt cộng để lấy AK, B40…

Ðến khoảng tháng 9/75, lực lượng chúng tôi đã có khoảng 80 người. Biết không thể chống cự nổi bọn cộng sản đang say men chiến thắng, chúng tôi dự trù sẽ đi đường bộ băng ngang Kampuchia đến vùng biên giới Kampuchia - Thái Lan để dưỡng quân rồi tùy cơ ứng biến. Trong vùng còn có một toán thuộc Liên Ðoàn Biệt Cách 81 (trước 30/4/75) hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sáp nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam (Thiếu Tá Nguyễn Phước Trường) chỉ huy. Có một linh mục tham gia tên Trần Học Hiệu — Linh Mục Hiệu sau này đã bị giết chết trong tù. Khoảng tháng 10/75, việt cộng đưa hai Trung Đoàn có bốn chiến xa yểm trợ tấn công đơn vị chúng tôi và đơn vị của Thiếu Tá Tam. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ tam tam chế, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh sử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn bốn ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi Anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng.

Ba người theo tôi đi về Phước Long. Ðến 10g sáng (?), chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu (?), một Trung Đội cộng sản nằm dài theo bụi tre cách khoảng mười lăm, hai mươi thước bắn xối xả vào chúng tôi đang di chuyển giữa đồng trống, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, một viên AK xuyên qua đầu gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại) làm tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh ba thuộc cấp thoát thân.

Chuẩn Úy Nguyễn Thạch Ðiệp nhất định liều chết để lôi tôi đi… Tôi hét lên, Ðiệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chĩa súng vào người Ðiệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Ðiệp rớm nước mắt “dạ” rồi vọt liền, cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của địch, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né qua một bên, bị trúng vào gáy rồi ngất đi. Hình như một tên chỉa AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên:

- Đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về”.

Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng vải nylon, máu me ướt sũng lưng, bọn việt cộng thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đang làm rẫy, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu… Giê-Su Ma!

Toán cộng sản đưa tôi về huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai (Biên Hoà), nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc — bị pháo kích sập, chỉ còn bốn bức tường với các cửa đóng kín bằng những tấm ván lớn chéo nhau. Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi.

Ðêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Vết thương đau nhức khủng khiếp, máu vẫn tiếp tục loang loang theo nước mưa. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi bộ đội xin chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để núp. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát. Bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì thú thật đau quá, không đủ can đảm. Có lẽ phải nhờ Việt cộng giết giùm thôi.

Tôi bắt đầu la lên chửi rủa cộng sản, chửi đích danh Hồ Chí Minh khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não cộng sản lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như… Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ… Rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người gần như trần truồng được đắp lại bằng… một tấm tôn! Ngoài kia gió vẫn rít gào, trời vẫn vô tình mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng…

Sáng hôm sau việt cộng triệu tập một cuộc mít-tinh dân chúng huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng hơn bốn mươi xác những “tên ác ôn đã đền tội”. Mười một người bị bắt (tất cả đều bị thương), số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng người, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ “tội phạm”. 

Lúc đó đối với tôi hai tiếng “tử hình” nghe không còn ghê rợn nữa mà thật bình thường vì đó chính là điều tôi mong đợi và chấp nhận như một sòng phẳng tất nhiên. Một cô trung niên, mặt khá xinh, người nhỏ nhắn, có vẻ rất hung hăng, vừa xô đẩy những bộ đội giữ trật tự, vừa hô to:

- Ðả đảo những tên “xâm lăng” (?) khốn nạn, hoà bình không muốn chỉ muốn chiến tranh, những tên mặt người dạ thú, giả nhân giả nghĩa, giết hại dân lành… Hãy để cho tôi nhổ vào mặt nó, đập vào mặt nó, tôi mới hả dạ!

Tôi nghĩ mụ này là “việt cộng cái” giả dạng thôi, lòng tôi thanh thản đến lạ lùng. Hãy để chúng trổ tài bịp bợm. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cõi đời ô trọc bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ cách nào, dù xấu nhất. Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào mắt mụ khi mụ vung nắm đấm. Mụ không nhổ vào mặt tôi. Mụ cũng không đập vào mặt tôi. Mụ luồn tay vào bụng tôi làm như đấm tôi vậy, miệng vẫn tiếp tục chửi rủa. Tôi cảm thấy cái gì đó nằng nặng trên bụng, liếc nhanh, thì ra đó là một quả quít nhỏ, tôi vội lấy tay che lại, nụ cười thành trơ trẽn biến mất, nhường chỗ cho sự ngạc nhiên đầy lý thú và cảm thông rất nhanh. Ðôi mắt diễn viên trong một thoáng lạc đi rồi trở lại ngay với vở kịch còn dang dở! Cô ấy trạc tuổi tôi hoặc nhỏ hơn chút ít. Ðến bây giờ, tôi vẫn hằng ước mong có được một dịp tái ngộ người ân nhân tuyệt vời này – Không phải vì đơn thuần quả quít mà vì giá trị khích lệ trong một hoàn cảnh quá hy hữu.

Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ đội chánh quy từ miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ, nhưng những tay “giải phóng – cộng sản người miền Nam” thì thật tàn bạo… Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến sáu, bảy tiếng… Tôi đã nhẹ nhàng thanh thoát, lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại rất sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nhớ lại từng chi tiết nhỏ cả quãng đời đã qua từ khi nhập thế. Những điểm tốt cùng với bao nhiêu điều xấu. Vui vẻ, hài lòng, thảnh thơi trước những việc thiện. Hối hận, ăn năn, dằn vặt, đau khổ trước những điều bất thiện. Có lẽ đó là “Toà Phán Xét” theo giáo lý đạo Thiên Chúa.

Có thể đó chính là Niết Bàn và Ðịa Ngục theo Phật Giáo chăng? Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau. Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Nó chỉ là một phương tiện, một địa chỉ tạm trú của một trong vô lượng vô số kiếp mà thôi. Quá đủ rồi. Tôi đã thoát ra và ngắm nhìn cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ.

Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: Các anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề sẽ không bao giờ oán hận các anh, tôi hứa sẽ mang ơn nếu các anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này.

Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay cán bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn. Mắt anh một nhắm, một mở. Miệng anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng. Tay cán bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố tình tìm nhưng không nhìn thấy xác Chuẩn Úy Vũ Thế Cường, là anh họ của tôi — anh ruột mẹ tôi là Vũ Thế Nghiệp tức nhà báo Thần Phong hai năm sau đó bị xử bắn tại Thủ Ðức. Vĩnh biệt các anh và hẹn ngày gặp lại, tôi khẽ thì thầm.

Quay trở về mùa Ðông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Trại nằm ngay tại Ngã Ba Thái Lan gồm nhiều dãy nhà tôn vách ván nơi đang tập trung học tập các cựu viên chức hành chánh Việt Nam Cộng Hoà. Chúng tôi khoảng năm mươi người gồm nhiều thành phần bị nhốt trong dãy nhà ngang cuối cùng có hàng rào kẽm gai quây kín. Tất cả tù nhân bị cùm hai chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân.

Cùng trại có một người lớn tuổi tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ là sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hoà đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi cụ có liên hệ gì với với một người bạn cùng khoá là Phan Xuân Mai không. Cụ chỉ mỉm cười: Con cháu trong nhà thôi. Bà Minh Ðăng — Không biết tên thật, chủ đại bài gạo Minh Ðăng, Biên Hoà — người phụ nữ duy nhất bị bắt vì tiếp tế nguyên một xe gạo vào rừng, đã dùng sợi dây xích làm xâu chuỗi, không biết bà đã đọc bao nhiêu kinh mà sợi xích sáng bóng như thép ròng vậy.

Nguyễn Văn Chi, người bị đánh hội đồng nhiều nhất trong suốt hơn hai tháng vì bị nghi ngờ là Thiếu Úy Trần Văn Chi — Thiếu Úy Chi bị một viên đạn xuyên qua vai phải, trốn thoát, hiện đang ở San Jose - California, Ngô Ðình Chiến bị bắn xuyên qua bả vai trái, tay trái bị liệt. Nguyễn Văn Cân bị ghẻ toàn thân chỉ trừ hai con mắt, Nguyễn Y người Bình Ðịnh — trông giống hệt hình Quang Trung Ðại Ðế, Trịnh Văn Thương bị bắn xuyên qua đùi, Phạm Văn Thận với chiếc jacket với hàng chục lỗ đạn…

Cũng trong trại này có một người lính cũ của tôi, Ðào Văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, anh nhận ra tôi nhưng không dám nói, chỉ ra hiệu. Tôi thì vẫn… muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một thân hữu đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với “thịt cọp”. Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp.

Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ:

- Nước cá kho tôi cho ông có ngon không?

- Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng.

Lành thật thà:

- Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả ký lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho ông xài đỡ. Ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe ông!

Rồi cũng qua một mùa Ðông. một mùa Ðông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại xã Ngãi Giao, quận Ðức Thạnh — Phước Tuy/Bà Rịa. Chỉ cùm hai chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn phải đeo xiềng vô một chân để đi lao động — mục đích giữ tù không chạy trốn. Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đoạn đường gần làng Bình Giả, tôi lẩm bẩm hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Ðức Quang) thật thấm thía:

… Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người,

nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi.

Nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi.

Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!

Trung Úy Nguyễn Văn Tài lúc nào cũng chỉ một câu vọng cổ trong Chuyện Tình Lan Và Ðiệp: “Em tên là Nguyễn Thị Lan(g), xác còn nằm đó mà hồn tan(g) lâu rồi!”

Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công suốt đêm. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Ðồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà như đang khiêng hai con heo. Ðích thân thằng trại trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cm, dài khoảng 30-40cm, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Ðồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi. Tôi nhắm mắt lại kêu Trời! Cố bịt miệng để khỏi la thành tiếng.

Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thõng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và ba người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi được đặt nằm trên tấm gỗ dài cỡ 1 thước 8, rộng 25 phân, hai cánh tay đong đưa theo nhịp bước, nhất là theo cái cà thọt khấp khểnh chân què của tôi. Hiển máu vẫn còn chảy toong toong trên đường. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng, hai mắt lồi lên, mặt sưng tím bầm. Ðất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái cuốc xẻng cũ sứt sẹo. Trung Úy Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất… Mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cố gắng mãi đến tận mặt trời lặn cũng chỉ đào xuống được khoảng bảy tấc! Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Xếp vài cục đá xung quanh đầu rồi lấp đất nhè nhẹ như sợ hai đứa đau.

Ðêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, dưới ánh đèn heo hắt, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: Hiển ơi, thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát…

Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất. Hình như có tiếng người trở mình bên cạnh. Tôi xoay qua: Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Ðồng Quang Nhường, hai anh em như đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: Chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa anh ra Bắc nhưng anh đừng lo — Nhường lúc nào cũng lạc quan — mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, miền Bắc chính là xứ người, không phải xứ của anh em mình, nhưng cái thân tàn tật tù tội trên đất cáo Hồ thì vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh. Chơ vơ. Thì ra đó chỉ là một ác mộng.

Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh: Tha thụ hình, cho phép đi cải tạo. Tôi bị chuyển qua Trại Lê Lợi. Nơi đây tuy không bị còn bị cùm hay xiềng nhưng ở trong khu cách ly. Bên kia hàng rào nhìn thấy Ngô Bá Lai, Nguyễn Hữu Tạo và một số rất đông bạn bè khác, nhận ra nhau trong ánh mắt thật ngỡ ngàng, tủi nhục, chua xót, đắng cay. Ngô Bá Lai nháy mắt bảo tôi ra nhà vệ sinh, hai đứa trật quần ra ngồi bên nhau trao đổi tin tức. Lai ân cần hỏi tôi thiếu thốn gì không. Một tháng sau chuyển qua trại Long Giao. Tôi vào trại với hai cổ tay và cánh tay bị trói chặt ra sau lưng bằng dây điện thoại, hai chân trần với vỏn vẹn một bộ đồ trên người và một túi vải nhỏ đeo trước ngực. Phạm Văn Bông nhận tôi về tổ, trong cùng tổ có Trần Ngọc Hoàn; cùng đội, cùng trại có Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Nhự, Chung Gia Phong, Bùi Ðức Hùng, Nguyễn Thành An, Ðặng Kim Cương, Trương Hội, Phạm Ðức Thịnh… Trại bên có Nguyễn Ðức Phương. Bạn bè chia sẻ cho tôi thật nhiều đồ dùng và thực phẩm. Phạm Tuế tặng tôi một chiếc quần treillis còn khá mới.

Ngày 23/5/1977, chuyển ra miền Bắc trên chuyến tàu Sông Hương. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu, phân bò, tôi cứ mãi miên man nghĩ về từng chiến hữu trong chiến khu, nghĩ thương hai thằng em bị thảm sát trong tù, về thân phận mình, về dân tộc và quê hương cơn quốc nạn. Ðôi mắt cay cay chiều xót xa…



Người lính Nguyễn Thế Thăng

——oo0oo——


Hình: Ông bà Nguyễn Thế Thăng và trưởng nữ, 23 tuổi, vừa tốt nghiệp Tiến Sĩ Dược Khoa hạng danh dự tại OHSU (Oregon Health… Science University).

Tony Thang Nguyen

Bản anh-ngữ

In Desperation

The winter of 1975 was the bleakest season of my existence in my unfortunate country. Vietnam had just undergone a brutal change and I was in chains. I was held captive in a low-ceilinged steel-roofed structure called Camp A-9, in Longthanh City, not far from where the Cobra King Division from Thailand was once stationed. These nights were excruciatingly cold and seemingly endless. Without the slightest cover, I dozed off during daytime so I could massage my body the entire night long to keep myself warm. And I was nursing an open, bleeding wound that I had no way to keep it clean other than to douse it with some salty water, lick it and chew out the rotting flesh.

Neither before nor after the Fall of Saigon in April of 1975 did it enter my mind to leave Vietnam. Instead, I made my way to join the Resistant Force founded by Ledinh Thach, a former Captain of RVNAF 5th Infantry Division. We were a fighting force composed of people from Special Forces, Paratroops, Rangers, Infantry, Police and Paramilitia. My rank was Captain.

We occupied the abandoned former Viet Cong secret strongholds as they swept into the cities. These areas, called River Buong and River May, were still strewn with necessities for a campsite, such as tents, cottages, look-out posts on tree-tops, cooking utensils as well as a tended root and vegetable patch. Left behind was also a great quantity of local-made hand grenades, mostly damaged by moisture; we used these solely for catching fish. We often ransacked rice warehouses nearby, in such places as Tanbinh, Tanbac and Traco. Before withdrawing back to our campsite, we never forgot to liquidate the warehouse and leave a full sack of rice at the front door of every nearby civilian dwelling. They in turn supplied us with other necessary staples. For weapons, we had some M16s or M79s, but with less and less ammunition as the time went by. So we attacked VC outposts to get their AK47s and B40s.

We all agreed to make our way to the border of Thailand, by a jungle trail across Cambodian territory. We would then make further decisions after some rest. We knew that there was an 81st Airborne Ranger unit under the leadership of Wong A Cau stationed somewhere nearby and we tried to join forces with them, as well with a contingent led by Commandant Nguyen Phuoc Truong, also known as Major Tam. We also had a priest with us, Catholic Father Hieu (full name Tranhoc Hieu. Father Hieu was later killed by the communists during his imprisonment).

One day in October 1975, the Viet Cong started attacking our unit as well as Major Tam’s. They had two regiments of more than one thousand infantrymen and four T54 tanks encircling us. We were eighty men strong. We spanned a wide area, and met them in tactical three man units. We positioned ourselves at every strategic spot, even on the tree-top lookouts. We used our ammunition sparingly, making our shots count. And thus we fought them for four days and nights and lost about half of our comrades. When Captain Thach was killed, we decided to dissolve the unit. Three men came with me, making our way toward the Cambodian border through PhuocLong Province. At ten a.m. the next day a Viet Cong platoon, spread behind and along a range of bamboo trees, barely forty to sixty feet away, ambushed us near Vinhcuu hamlet. We were crossing an open field and thus were sitting ducks to them. The bullets were flying, tearing my jacket with holes. Then I was hit in my right knee as I was crouching to return the fire. I fell backwards, still firing. I ordered the three men of my unit to escape. But W.O. Nguyenthach Diep was hell-bent on dragging me along with him. Ignoring my protest, he would not release his grip on me. Pointing my gun at him, I ordered sternly: “Release me at once and go or this bullet is for you.” Tears brimming in his eyes, he answered, “Yes, sir” and disappeared. The enemy was soon swarming over me in a hand-to-hand combat. One tried to hit me on the head with his B40 launcher, but I swerved my head, and it hit the back of my neck. I fell down unconscious. In a blur, I seemed to see another Viet Cong pointing his AK to my head about to pull the trigger. Another voice warned, “Don’t kill him. This fellow is an officer. We can get more info from him. Let’s bring him back.” When I next regained consciousness, I found myself on a nylon hammock, my back soaked through with my fresh blood. The VC soldiers were carrying me through the rice field where some villagers were tending to their crops. I overheard faint voices saying “Jesu Ma” (Oh my God).

I was detained in Thongnhat district, Dongnai province. My cell was in a bombarded house whose roof was missing. Its wooden windows were nailed shut with crisscross boards. My head rested on a big brick. My body lay on a jute sack and was totally bare except for my bloodstained underwear. I found my army shirt wrapped around my broken knee. I endured the excruciating pain in the endless cold rain for several hours and then I raised my voice and asked my jailers to move me to a drier spot. No one answered. I dragged myself to a corner to seek shelter. Were the door to open at that moment, I would not be able to go anywhere, as the bullet that felled me had gone through my right knee, shattering my kneecap. Evaluating the situation, I was quite certain that I could no way escape a death sentence—I was caught red-handed with a deadly weapon in my hands, fighting my way. Were I to escape death through any unexplainable occurrence, I still would surely become an invalid. Committing suicide was the only best way. I tried to hit my head against the wall but I had no strength left. Biting my tongue was too painful and my stamina failed me. Only one solution was left and that was to let the Viet Cong do the killing for me. I began to call Ho Chi Minh by name and yelled out invectives against him until I was hoarse. No result. Then I called the Viet Cong top leaders names that I could remember, such as Le Duan, Truong Chinh, Phamvan Dong, Pham Hung, Leduc Tho... I kept insulting them until I passed out.

When I came to, I found myself the same as I was before, stiff and numb and cold. My head still rested on a brick, my body was still lying on the jute sack, almost naked but now covered by a damaged rusty metal sheet. The wind went on howling, the rain unfeelingly pouring, raindrops pounding rhythmically on the damned metal.

The following morning, the Viet Cong called a general meeting of all the population of the Thongnhat District. They displayed about forty corpses of our men killed in the attack that they labeled 40 “cruel rebels” who had been “punished.” Eleven of us were captured, all of us wounded. The rest, about thirty men, had escaped. The Viet Cong brought me to the back of an army Jeep for the populace to view. Some shouted slogans like, “Death to the traitor,” while some others tried to stifle their cries. I sat back in my bloodshot, flimsy underwear, slightly smiling. Death was what I wished and waited for. A death sentence was therefore no longer ominous to me. It was just a normal consequence of my actions.

A young woman about my age shoved the guards aside so that she could have a closer look. She said, “this traitor, this invader, doesn’t bow to peace but goes on killing innocent victims.” She went on, her rage feeding on itself: “I want to spit on his face, to crush the skull of this creature that bears a human face but fosters inside a bloodthirsty animal.” I sat, unmoved, thinking she was just a female “Victor Charlie” performing her play. I just wanted to see this comical tragedy end. I was ready to die in whatever form, or by whatever means. I met her gaze steadily while she raised her fist against me. Instead of swinging at my face, or spitting on me, her hand touched my belly. I looked down in haste and saw a small tangerine there. I quickly covered it with my hand and met her eyes in wonder. With a glimpse of recognition for my gratitude she went on with her performance. At present time, I still wish for an opportunity to somehow meet this wonderful actress again, and thank her, for the tangerine, yes, but most importantly for the moral uplift she provided me.

Then began the days of interrogations. Interrogators from the regular PAVN from the North were somewhat bearable. Some seemed reluctant to be tough. One of them even stealthily brought me a cup of hot milk, after I had passed out. But at night, groups of VC’s came to torture me. They punched and kicked and hit me with wooden clubs. Sometimes, they stood on my broken knee, and jumped up and down on it. This went on for six or seven days. It seems they had selected me for special treatment because I was the only high ranking officer there at that time.

The interrogators from the Liberation Army of the South were the cruelest. The intense pain of their torture occasionally caused me to pass out, sometimes for several hours. During these periods, I saw myself floating above fields covered with colorful, giant flowers. I was clothed in the richest material made from the gossamer of a rainbow. The air was pure and fresh like after a light rain. And the atmosphere was crystal clear and bright even with no sunlight. I could recall every detail of my entire life as far back as the day I was born. I was happy when recalling my good deeds and then remorseful or ashamed of my bad actions. Was this the “Judgment Day” according to the Christian doctrine, or the “Nirvana and Hell Stage” of Buddhism? I don’t know, but suddenly I understood the twitter of birds and the chatter of fish, quarreling over a morsel of food. I therefore was no longer afraid of death. On the contrary, I yearned for the earliest moment when I could leave this earth behind. I wanted to exit this body of mine, which only housed my real being while it evolved through endless stages of transmigration of my soul. It was simply one among trillions of temporary addresses. When I awoke from each of these comatose bouts, I thought that all I had seen were simply dreams. But as the same experiences kept reoccurring, I then firmly believed in my afterlife. I told my torturers, sincerely and in earnest, “Please help me get through death’s portal. I have seen beauty and serenity on the other side of death. I will be forever grateful to you if you put a bullet in my brain and end it all. I don’t want to continue this terrible life. I promise I will not bear any grudge against any of you, ever and ever.” Mysteriously, my tormentors left me alone after that.

One day, a high-ranking member of the VC cadre showed me some black- and-white pictures of my slain comrade-at-arms for identification. I first of all recognized Captain Thach lying dead next to his empty M60, one eye closed, the other opened, a seeming smile on his lips. My heart sank. Tears sprang to my eyes.

The VC turned his head away as if he saw nothing. I also tried to find the body of my cousin, Warrant Officer Vuthe Cuong. His was not among the pictures. (His father, Vuthe Nghiep, was my uncle, my mother’s full brother. Nghiep was a journalist writing under the pseudonym of Than Phong. He was executed two years in Thu Duc, a borough of Saigon city). I said a silent prayer: “Good bye for now, my dear brothers, until we meet again.”

At Camp A9, most of the inmates were former governmental officials of the Republic of Vietnam. The camp consisted of rows of bunkhouses, steel-roofed, and walled with thin wooden boards. Perpendicular to the last row house was a bunkhouse surrounded by layers of barbed wire. About fifty of us occupied it. At night only one of our arms was unfettered; but on the contrary, during daytime, one hand and both legs were free. Here were some of my cellmates: a gentleman named Phanxuan Ha, who was suspected to be a high-ranking officer of the RVN Armed Forces using a fake ID card. He bore himself with poise and dignity. I asked him whether he had any relationship to a classmate of mine in the National Polwar College by the name of Phanxuan Mai. He smiled and said, “Oh, he might be a younger relative.” There was also a woman named Mrs. Minh Dang, the only female to be incarcerated with us. Her crime was that she supplied us “rebels” with a whole truckload of rice. Her iron chain became her rosary, and she fingered it while praying until it shone like polished stainless steel. Nguyenvan Chi was the one who was mistreated and tortured the most, as they mistook him for 2nd Lt. Tranvan Chi. (The real Lt. Chi bore a bullet through his right shoulder, but later made it to California USA). And there was Ngodinh Chien with his left arm paralyzed as the result of a bullet through his left shoulder, and Nguyenvan Can who had sores all over his body, except for his eyes. Another man from Binhdinh province looked like former Emperor QuangTrung. Trinhvan Thuong had a bullet wound through his calf; Phamvan Than wore a jacket peppered with dozens of bullet holes.

Also in this cell house I met a former soldier of mine named Daovan Lanh. I had no idea when and why he was incarcerated. But by then he was assigned kitchen duty for the camp. One day, while bringing rice rations to us prisoners, he recognized me, and just nodded as a sign of acquaintance. As for myself, a real infantryman of our RVNAF, I held my cheerful countenance. I joked with everyone, as I was expecting my certain death to come as a welcome friend. Every day we were fed twice, a single bowl of rice with “tiger” meat. A play on the onomatopoeic sound kop, kop, translated into “cop,” a tiger. The “tiger meat” was really rock salt, which when chewed gave out that sound. I used only half of my ration of salt to eat; the other half I used in a solution to wash my wounded knee before licking it with my own tongue. Once in a great while, we were fed with some cabbage soup or pumpkin seasoned with salt. Then one day, Lanh, the cook, surreptitiously gave me half of a small can of something dark and viscous, which he said was reduced fish sauce. Oh my, it was divine. I used only one spoonful each time on my bowl of stale rice, and it brought back to me flavors of high-end restaurant fare I used to enjoy.

A dozen days later, when no one was around, Lanh whispered to me, “Did you find the “sauce” o.k.?” “Many, many thanks to you, my friend,” I said. “In the dire straits I am in now, what you gave me has no comparison.” Lanh said, “They (the VC cadres) asked me to wash about two pounds of dried fish. I washed that whole thing with only one bowl of water. Then I reduced the water by half and that was the sauce you got. Please use it–try to endure and survive, OK?”

The winter passed by, a winter of grief and sorrow befalling all Vietnam that had suddenly turned into a huge prison. Four months later the VC transferred me to Ngaigiao hamlet, Ducthanh district. Though my cell was warmer than the previous one, it was far more difficult to rest. Swarms of bedbugs devoured us all night long.

At night, both my feet were shackled. In the daytime, when we went to our labor duty, only one foot was fettered. And thus we went through the Binhgia village narrow paths, with clanging chains marking our steps. I muttered a song entitled “Vietnam, Vietnam, our indomitable country,” and bitterly felt the meaning of the words, “I shake my shackles noisily in the face of everyone.” My smile was not a natural one. It was a far-fetched one. It was an enraged one. I will step up and smash this chain on the face of those people. 1st Lt. Nguyenvan Tai would sing over and over one line from a romantic opera called ‘The saga of Lan and Diep’: “My name is Nguyenthi Lang, my body lies here, but my soul has gone elsewhere a long time ago.”

It was in this camp that I witnessed the horrible death of two of my soldiers, named Dongquang Nhuong and Nguyenvan Hien. They had tried to escape from the camp but were recaptured. The VC bound their hands and feet and hung them upside down from the roof-trestle as one would hang two pigs. The head of the camp came out and picked up a wooden hammer used to straighten sheets of corrugated tin plates. It was about five to six inches in diameter, over a foot in length. A handle around four feet long bore into the middle. With one single strong blow, the man swung the hammer right onto Dongquang Nhuong’s head as if it were a coconut. With a thud-like noise it hit its aim. Nguyenvan Hien turned his head to see his friend and received a blow right in his jaw. The jaw fell apart while blood shot out jet-like. I closed my eyes and stifled a scream. The two bodies squirmed a few times and then hung lifeless. They lowered the bodies. I and three other men volunteered to bury them. The bodies, still warm, were laid upon a plank about six foot long and nine inch wide. We walked forward, the dead men’s arms swinging with the uneven steps of our gait. Hien’s head was still oozing blood. Nhuong’s head looked like a gigantic overripe tomato, with its eyes bulging and its face discolored and swollen.

The rocky soil was extremely hard to dig, particularly so when we only had some old, broken shovels. Lt. Tai, the smallest man but also the strongest and most dedicated, encouraged us, saying, “Let’s try to dig a deep grave for them, men.” We tried and huffed and puffed. At dusk, we had reached less than three feet. So we buried our two comrades as they were, with nothing to wrap their bodies, neither poncho nor mat. I gathered some old newspapers and covered their faces. Then I picked up a few pebbles and lined them around their heads, and ever so lightly, I covered their faces.

That night, it was impossible for me to fall asleep. Around midnight, under the feeble light of our cell I clearly saw Nguyenvan Hien standing by the window, looking out with sorrowful eyes in an immense empty silence. I muttered quietly words of consolation: “Hien, dear, be gone in peace. Leave this cruel world behind.

You have paid your dues. Be free from anger and hate. Let your mind soar to immortal bliss.” And thus I kept repeating my pleas and prayers until Hien’s ghost blurred into nothingness. I then felt something, perhaps a body moving next to me. I turned around and found Dongquang Nhuong lying with me on something liked the floor of a moving train, our backs damp as we were lying on cattle dung. I whispered to him, “Where do you think they are moving us to?” He replied, “Do not fret, big brother, they’re taking you to the North, but everything will be all right with you. You’ll be then successful overseas.” He laughed. Nhuong was always optimistic. I laughed with him and asked, “What? The North has never been our country. It’s our enemy’s land. And talk about success? How do you expect an inmate, an invalid to boot, to succeed at anything on that forsaken land of those cruel communists? OK, big success considering anyway.” We both roared with laughter. I awoke. I was lonely by myself. It was just a dream, and I was awake in a nightmare.

A few months later, an order came concerning my condition: “This inmate is relieved from punishment and is allowed to enlist in a re-education camp.” I was moved to Le Loi Camp. Here, though no longer under shackles, inmates were kept away from the population. I recognized quite a few of my friends over the barbed wire, such as Ngoba Lai and Nguyenhuu Tao. We just acknowledged each other by a glint of the eye, feeling ashamed, confused and bitter. Ngoba Lai winked at me and walked to the direction of the outhouse. There crouching next to each other, we exchanged information. Lai asked if I really needed anything but I gratefully refused his help, his condition was not much better than mine. A month later, I was sent to camp Long Giao. My arms were again tied behind me with telephone wires. My feet were bare, and I had nothing on me other than a pair of flimsy shorts and a little bag hanging in front of my chest. My two classmates, Phamvan Bong and Tranngoc Hoan, voluntarily received me into their group. I shared the same camp with other friends Nguyenquyet Thang, Nguyen Nhu, Chunggia Phong. Buiduc Hung, Nguyenthanh An, Dangkim Cuong, Truong Hoi, and Phamduc Thinh. In a camp next to ours there was Nguyenduc Phuong. These Polwar classmates shared foodstuff and clothing with me. I finally got a pair of army pants, a gift from Pham Tue.

On May 23, 1977, I was sent to North Vietnam aboard the ship Songhuong. We debarked at Haiphong harbor. The trip from Haiphong to the ferry on the Red River was by train. On the floor of the train, as I laid my body down amid the water buffalo dung, my mind went back to my fellow combatants in the jungle, to the horrifying death of my two young soldiers, to my own fate, to my own people, and to the national tragedy that befell Vietnam. With much sadness, bitter tears pricked my eyes.

Tony Thang Nguyen

Editor’s note: Captain Nguyen endured over eight years of hard labor in concentration camps throughout North Vietnam. He says that he dropped in weight from one hundred and fifty pounds to ninety pounds. In all the time of his incarceration, he was allowed to see his mother and his younger sister twice, for less than an hour each time. He was released in 1983, and emigrated to the United States in 1992.

Captain Nguyen of the Republic of Vietnam Armed Forces is now a Major, the Executive Officer of the Interpreters Team, Oregon State Defense Force. He owns and operates Tigard Transmissions Center. He is married and has two daughters. He married his wife three months after his release from the prison camps. His wife is a niece of an RVNAF Chaplain incarcerated along with him a long time. This Chaplain introduced Nguyen to his relative’s family with strong recommendations. Nguyen graduated from the RVNAF Political Warfare College.

56 War, Literature & the Arts

  

Gặp gỡ 2 phụ nữ trong tuần

 Tuần này, chạy xuống gần Temecula để xem một cái vườn bơ mà chủ muốn bán. Mình có quen một bà chuyên viên địa ốc, tên Angela. Cứ lâu lâu gọi mình hỏi mua cái này cái nọ. Mình thì nghe ai bán nhà bán cửa thì chạy di xem liền dù không có tiền. Mụ vợ mình cứ la, không tiền mà cứ đòi đi mua nhà.

Càng già càng ít đòi hỏi. Khi xưa ra đường cái gì cũng muốn nhìn hết, nhất là mấy cô nay thì chỉ nghe đến nhà đất thì mình mới hồ hởi chạy đi. Hoá ra vườn bơ nằm cạnh cái làng phật tử ông thầy Nhất Hạnh tu. Đứng trên đồi, thấy bên kia thung lũng là làng tu. Thấy họ làm rất đẹp, có đường cho xe chạy lên đồi,…vài cái nhà nhỏ dưới các bóng cây lớn.

Mình gặp chủ vườn thì hỏi chuyện thêm về cách ông ta trồng trọt, chăm sóc vườn ra sao. Hoá ra ông ta còn theo cách xưa, chưa cập nhật hoá kỹ thuật mới như mình vừa xin tiền chính phủ thực hiện năm ngoái. Nhìn các vườn xung quanh thì họ đã bỏ trồng bơ (nước đắt tiền) và đa số trồng ổi, it tốn nước hơn. Nước vùng này đắt lắm. Vườn mình còn độ 4 mẫu chưa được khai thác, mình tính trồng thêm cây ăn trái khác, ít tốn nước nhưng nay có người muốn mua để xây 80 căn nhà.

Mình hỏi ông ta tiền nước bao nhiêu một năm, ông ta kêu $60,000, mình đoán là $70,000/ năm. Ông ta chỉ có 11 acres, xem như 55% của vườn mình. Lúc mình mới mua thì tốn nước độ $40,000-$50,000/ năm. Sau mình thay đổi hệ thống tưới, làm lại hoàn toàn với tiền của chính phủ nên bớt 40% tiền nước nên dễ thở hơn. Nay chỉ trả độ $25,000-$30,000 cho mỗi năm. Vấn đề chính là áp suất của nước hơi lộn xộn, thay đổi theo độ cao. Xung quanh có nhiều nhà vườn nên khi họ tưới vườn của họ sẽ khiến giảm áp suất nước. Chỉ có 90 PSI khi không có các vườn bên cạnh tưới nên khi trời nóng vào mùa hè là mệt, không tưới được hết vườn là chết cây, trái rụng.

Mình xem lời lỗ của ông ta ra sao thì thấy ông ta thua non nên phải bán. Ông ta thú thật là mua cái vườn này rẻ từ 3 năm nay nhưng phải chặt cây ngắn lại như mình đang làm nên thu nhập không nhiều. Ông ta nói có người đã trả giá ông ta muốn bán. Mình hỏi sao không ký thì ông ta kể là còn đợi mình và một người khác. Thật ra, họ trả giá mà phải đợi mượn tiền ngân hàng thì khó mà bán. Ngân hàng ít khi cho mượn tiền để mua đất nhất là khi họ xem Financial statement.

Mình mời bà chuyên viên đi ăn. Khu này thì có mấy sòng bài của người da đỏ nên mời bà ta vào sòng bài gần đó tên Pala ăn cho chắc ăn. Mỹ da trắng làm ăn chung với các bộ lạc người da đỏ, họ mua đất thì xem như tự trị, không phải đóng thuế lợi tức, mở sòng bài, giàu to. Bác nào ở Cali, lập gia đình với một người da đỏ là giàu. Mua nhà mua đất, làm ăn đứng tên người phối ngẫu, khỏi đóng thuế nhà đất, lợi tức gì cả.

Ngồi ăn, bà ta kể đang gặp khó khăn, đang mua một Mobile home ở San MArcos. Giá đâu $320,000, làm chủ đất luôn chớ không trả tiền đất mỗi tháng. Mình nói nếu bà không mua thì mình mua cho thuê, trả tiền huê hồng cho bà ta. Tiền thuê nghe bà ta nói độ $2,300/ tháng. Để xem có duyên hay không. Nghĩ lại nhà cửa sắp banh-ta-lông nên thôi. Mình nghe ông chủ trên 80 tuổi, gần đất xa trời, nên tính sẽ thương lượng trả 10% còn 90% ông ta cho vay. Khỏi mượn tiền ngân hàng gì cả. Mình không hiểu tại sao bà ANgela, không chịu đi đường này. Bà ta tham nên cộng thêm tiền Huê Hồng vào cái nợ nên gặp khó khăn vì giả định sẽ sai lệch rất nhiều. Khi tham người ta chỉ nghĩ đến số tiền nhận được mà không nghĩ cách binh khác.

Hôm kia, đi ăn cơm trưa, mình nghe tên bạn làm thẩm định giá cả nhà cửa thì hắn cho biết là ngân hàng kêu hắn xem trị giá của mấy nhà mà người chủ nhà không trả tiền vì Covid-19, dân tình không trả tiền nên chủ nhà không có tiền để trả nên ngân hàng định kéo. Có lẻ mình sẽ bán nốt căn nhà ở xa, rồi rồi giữ tiền đợi nhà xuống rồi tính. Có tên bạn nói bỏ vào I-bonds.

Từ hai tuần nay, có một cô gốc Việt đến dự họp Toastmasters. Cô ta cho biết lý do muốn gia nhập vì sắp sửa đi phỏng vấn công việc. Cô ta kể là học về Sinh Vật Kỹ NGhệ nhưng rồi thích làm trong gánh xiếc nên bỏ nghề kỹ sư đi theo đoàn xiếc trình diễn. Lấy ông chồng người Mỹ, làm công nghệ thông tin nhưng muốn viết phần mềm để dạy trẻ con học.

 Cô gốc Việt này chắc bị bố mẹ la nhiều vì không theo học làm kỹ sư hay bác sĩ như bố mẹ mong muốn, lại đi làm xiếc. Đại dịch xẩy ra nên không làm ăn gì được. Cô ta mới làm YouTube rồi lên tiếng tại sao người á đông rất khó được chọn các vai. Cô ấy nêu lên sự kỳ thị đối với các nghệ nhân da màu, không ngờ các nghệ sĩ của các cộng đồng khác cũng lên tiếng, khiến cô ta được mời tham dự các buổi nói chuyện và có công ty muốn mướn cô ta nên cần tập nói trước công chúng. Mình phục cô này vì dám đi ngược lại trào lưu của người Mỹ gốc việt tại Hoa Kỳ. Xong om

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Một ký ức Đà Lạt vừa bị xoá bỏ

 Mình định viết về tấm ảnh này từ lâu, về căn nhà đối diện hồ Xuân Hương của bà dược sĩ, kiêm dân biểu Nguyễn Thị Hai khi xưa. Không biết tác giả của tấm ảnh là ai, có thể chụp lén một cặp trai gái đang ngồi cạnh hồ Xuân Hương, nơi bệ xi-măng, xây tròn xung quanh những cây tùng, nhìn qua biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, mang tên Trang Hai. 

Biệt thự, mình ước mơ một ngày được ở trong đó khi còn bé. Nay thì thất kinh vì họ đã cho dẹp bỏ, xoá hết tàn dư của chế độ cũ. Chắc để xây khách sạn cao cấp tại đây. Chắc sẽ dện cả chục tầng cao hơn mấy cây thông. Có người cho biết là để nới rộng đường Trần Quốc Toản vì giao thông Đà Lạt bị banh-ta-lông. Dần dần đồi núi Đà Lạt sẽ bị xén đất hết, trở thành đồng bằng. Chán Mớ Đời 

Khi xưa, đường Hai Bà Trưng, khúc lên đồi bệnh viện Nhi đồng, cư xá viện Pasteur là đồi. Nay về thấy họ xắn đất, để xây nhà nên mình hơi lo là một ngày nào đó, đất sẽ bị trùi vì nước mưa đọng lại, bao nhiêu đất trên đồi sẽ phủ hết phía dưới đường Hai Bà Trưng tương tự như khu vực mới bị lỡ đất ở xóm Bà Thái khi xưa. Đất Đà Lạt toàn là đất sét thêm hệ thống dẫn thoát nước mưa khá thô sơ. Lâu ngày, nước tụ sẽ đẩy đất ở dưới vì bị đọng nước.

Gần nhà mình ở Cali, cách đây độ 15 năm có một cái tường talus xây cao độ 3 tầng lầu để chống giữ đất đồi bị trùi. Một năm bị El Nino đến thăm, mưa liên tu ti mấy ngày khiến đất bị trùi, kéo theo bức tường xi-măng dầy độ 30 cm và nhà cửa trên cao.

Hồi nhỏ, mình mơ có một ngày sẽ làm chủ căn biệt thự của ông bác sĩ Sohier và căn nhà này. Không hiểu tại sao, dạo học Văn Học, mình hay chạy xe lòng vòng Đà Lạt, xem các biệt thự thay vì đi ngắm gái, đánh bi-da như xưa với mấy tên bạn. Bên cạnh biệt thự này, phía tay phải, ngay cầu Ông Đạo đi qua, có căn biệt thự của gia đình một cô bạn học chung năm xưa 11B tên Hà, và một cô khác tên Vy Thị Thu Thuỷ ở trọ. Mình có đến nhà vì muốn xem bên trong nhưng không được cho vô nhà, chắc họ sợ mình chôm đồ. Mặt mình rất là gian gian từ xưa đến nay. Ít ai mời vào nhà họ.

Theo mình, kiến trúc biệt thự này không đẹp như các căn khác tại Đà Lạt ở đường Trần Hưng Đạo, Hùng Vương hay Huỳnh Thúc Kháng,… chắc không phải do ông kiến trúc sư tây vẽ. Cũng có thể chỉ là nhà nghỉ mát cho gia đình ở Sàigòn, lâu lâu lên Đà Lạt chơi nên không xây cất to lớn. Hình như mình có kể về ông tây này, đã thiết kế những căn biệt thự tại Đà Lạt xưa, rất đẹp. 

Sau này, thời đệ nhất Cộng Hoà, bổng nhiên có một thế hệ kiến trúc sư trẻ Việt Nam xuất hiện, thiết kế các công trình ở Đà Lạt rất đẹp, khá tân tiến và hiện đại cho vùng Đông Nam-Á thời ấy như chợ Đà Lạt, Giáo Hoàng Học Viện, trường Võ Bị Quốc Gia, viện đại học Đà Lạt,…

Thường thì văn học và nghệ thuật nói lên tư duy của người dân, trí thức trong hoàn cảnh hiện tại và những viễn kiến cho tương lai. Việt Nam Cộng Hoà, thời ông Diệm như một thời đại khai phóng, mở đường cho một Việt Nam mới hiện đại, sau khi dành lại độc lập. Nhờ đó mà kiến trúc và nghệ thuật thời ấy khá mới mẻ, đầy sáng tạo. Cộng thêm các nhà trí thức và văn nghệ từ Bắc di cư vào nam, tạo ra một nguồn lửa văn học và nghệ thuật rất đặc biệt và còn ảnh hưởng đến ngày nay, vẫn tồn tại trong người Việt.

Mình thấy tấm ảnh rất đẹp. Chụp trên đường Nguyễn Thái Học, gần đường lên Nhà Lao, nơi mẹ mình bị nhốt tại đây gần 6 tháng thời Tây. Cặp trai gái Đà Lạt trong tấm ảnh, chắc đang bàn về tương lai, sở hữu một căn nhà như biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, nằm trên đường Trần Quốc Toản mà khi xưa đi học, mỗi ngày đều chạy qua đây. Nhưng muốn đến căn nhà, phải làm sao qua hồ nước. Một thử thách của đời người. Bơi qua hồ hay đi vòng cầu Ông Đạo Trần Văn Lý. Có người cho biết là biệt thự mang tên “Trang Hai”, chắc mang tên tiệm dược khoa mang tên Trang Hai Dược Cuộc của bà Nguyễn Thị Hai.
Tấm ảnh này có lẻ khi mới được xây cất thời Tây, trước năm 1922, cùng thời với khách sạn Palace. Khi tây về nước, người Việt mua lại rồi làm vũ trường, nhà hàng. Mình nhớ hồi nhỏ có vào đây một lần với ông cụ khi có bạn ở đâu đến chơi, ngồi ngoài vườn, uống nước cam vàng dưới mấy cây thông khiến mình mê căn nhà này. Thấy tên tiệm là “Au Cabaret”. Sau này bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai, ở Sàigòn mua lại rồi cho xây thêm một gian bên tay trái, tương đối đẹp hơn trước. Thấy lạ, mặt tiền này hướng về hướng Bắc của Đà Lạt, có lẻ vì vậy mà họ xây cửa sổ cao hơn mấy cánh cửa ra vào, vì cái mái nhà và veranda che khuất ánh sáng.

Hình này cho thấy sau khi được xây thêm một phần bên tay trái, cái lan-can trên lầu 2, được phá đi chỉ còn chỗ phòng ngủ chính đi ra veranda, để đứng ngắm hồ Xuân Hương. Dựa trên ảnh trên thì mình đoán căn nhà được nới rộng thêm về hướng BẮc, so với bức tường của nhà bếp. Do đó họ làm một dàn Pergola để nói hai phần mới và cũ. Hướng bắc thêm nhìn ra hồ nên họ làm cửa sổ sát trần nhà để có cái nhìn rộng hơn về hồ Xuân Hương. Phần bên trái được xây thêm, mình đoán là cửa ra ngoài, cũng là cầu thang lên lầu gần đó, có cửa sổ tròn, không biết có phải nhà tắm tại đây hay không.
Có lẻ không có đất, địa thế trên đồi nên phần cho người làm ở và nhà bếp được xây dính liền. Thường thì mấy biệt thự lớn ở Đà Lạt, có xây phần của gia nhân ở phía sau như nhà của bác sĩ Lương ở đường Phan Chu Trinh thì phải. Cầu thang đi xuống đường Trần Quốc Toản, có lẻ được xây khi còn thời làm nhà hàng “Au Cabaret” để khách có thể đến thay vì đi vòng lên con đường phía sau lên kho bạc, nơi mà có vụ cướp xe ngân hàng của ông Nguyễn Tấn Đời, năm mình học 3ème hay Seconde thì phải. Mỗi lần chạy ngang con đường này, là mình hay liếc vào cổng căn nhà mộng mơ của tuổi trẻ.

Họ cho phá xập hết căn nhà ít nhất cũng trên 90 năm vì năm 1932 có lũ lụt thì hình ảnh cho thấy chưa được xây. Đường Trần Quốc Toản chỉ là con đường nhỏ. Một di tích lịch sử của hồ Xuân Hương. Có người cho mình thấy tấm ảnh chụp trước năm 1932, thấy căn nhà hai tầng này. Xin cảm ơn. Mình viết theo ký ức nên nhiều lúc không chính xác, bác nào thấy sai thì cho biết để em cập nhật hoá.
Đây tấm ảnh của một người tại Đà Lạt, mới gửi cho mình. Mình có tấm ảnh này nhưng không để ý. Hình này chụp trước năm 1932 vì cái đập-đê ngay chỗ Thuỷ Tạ (chưa được xây), đã thấy căn biệt thự có chấm đỏ. Cảm ơn người Đà Lạt đã chỉ cho. Theo giải thích thì năm 1922, khách sạn Palace được xây xong thì đã thấy căn biệt thự này rồi. Có thể là nhà của quản lý khách sạn Palace vì rất sơ sài.
Theo chú thích của anh người Đà Lạt, tấm ảnh trên vào năm 1932, khi khách sạn Du Parc vừa được xây xong (chấm xanh đậm) còn chấm đỏ là biệt thư sau này mang tên Trang Hai, chỉ hai gian nhà như tấm ảnh nhà hàng “au Cabaret”. Xem tấm ảnh này thì hoá ra khu bị lũ lụt năm 1932, nằm phía bên kia cầu Ông Đạo. Mình lại đoán phía bên nhà hàng Thanh Thuỷ. Để hôm nào, mình rảnh sẽ sửa lại. Không nhớ bài nào. Chán Mớ Đời 

Nhìn từ bên kia hồ sang (đường Nguyễn Thái Học). Phía sau căn nhà này là đường chạy lên bưu điện. Vấn đề là nới rộng ra nhưng xe chạy vào chợ vẫn phải đi qua cầu Ông Đạo nhỏ bé, vẫn gây ùn tắc. Chán Mớ Đời 
Xong om

Năm 1971-1972 mình đi bộ từ khu Hòa Bình tới Adran mỗi ngày cũng đi ngang ngôi nhà này và vài nhà khác trước khi leo lên những bậc thang Dalat Palace rồi xuống dốc xuống Adran, cũng mơ ước và thắc mắc ai là chủ những ngôi nhà trong mơ này.

Nhờ Sony NguyenUsa - Hoàng Tử Bé Đà Lạt - Le Dalat Petit Prince'S Me, mới biết chủ ngôi nhà là dược sĩ Nguyễn Thị Hai, chủ nhân viện bào chế Trang Hai, bà Hai cũng là dân biểu Nguyễn Thị Hai. Dược sĩ Hai cũng dính dáng xa gần với cô trình dược viên Nguyễn Thị Mai Anh (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Mai_Anh) là phu nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi cô lấy chồng, nghĩa là bà Hai là big boss và giàu có từ hồi bà Thiệu còn là con gái, hồi còn Tây mà đã làm chủ viện bào chế dược phẩm. (Dũng Le)

Bùng binh hồ Xuân Hương ngày nay. Chắc chụp trước rạp xi-nê Ngọc Lan, chỗ quán phở ngày xưa, bãi đậu xe Honda cho khán giả xem xi-nê. Mình nhớ có leo lên đây với ông cụ một lần khi về thăm Đà Lạt. Đó là lần cuối mình đi chơi với ông cụ. Lần sau về thì ông cụ yếu. Xong om

Năm 1995, khi mình thiết kế một dự án du lịch của tập đoàn Tân Gia Ba, phát triển khu Dankia. Tập đoàn này mướn công ty mình thiết kế khách sạn Equatorial ở Sàigòn. Mình có nghĩ về sự phát triển Đà Lạt trong tương lai. Theo mình thì Đà Lạt nên dời hệ thống hành chánh và kinh tế về Bảo Lộc, cũng thuộc tỉnh Lâm Đồng, cận Sàigòn, Long Khánh hơn là phải chạy thêm 150 cây số. Long Khánh, khi về Sàigòn, mình có chạy qua khi lên Đà Lạt, xa Sàigòn một tị, nên xây phi trường quốc tế để không gây kẹt xe tại sân bay trong Sàigòn.

Du khách quốc tế hay nội địa từ phi trường ở Long Khánh, có thể lên Bảo Lộc nhanh. Phi trường Liên Khương nhiều khi bị mây mù nên khó đáp xuống, làm trễ nải du lịch. Trong khi đó, cho phát triển các trung tâm du lịch và khách sạn cho du khách đến Đà Lạt về phía Đức Trọng, Tùng NGhĩa hay Đơn Dương vì du khách có thể đi tắm biển ở Ninh Chữ, Cà Ná, Phan Thiết hay Nhà Trang. Sáng đi chiều về, hay ngược lại vẫn hưởng được cái lạnh của Đà Lạt. Rau cải trồng xung quanh Đà Lạt như ở Tùng Nghĩa,..

Du khách đến Đà Lạt bằng xe buýt điện từ Đức Trọng, Trại MÁt, Đơn Dương lên trong ngày rồi chiều về lại. Biến Đà Lạt thành một thành phố như ở Thuỵ Sĩ với những phong cảnh, kiến trúc như ở Thuỵ Sĩ, sẽ làm du khách mê và trở lại. Tha hồ mà cho mướn phong cảnh Đà Lạt để các hãng phim quốc tế ở Á Châu mướn, khỏi đi qua Thuỵ Sĩ. Mình làm việc hai năm tại Thuỵ Sĩ, thấy hao hao Đà Lạt nên nghĩ sau này, có về Đà Lạt, sẽ thiết kế theo khung cảnh Thuỵ Sĩ nhưng vẫn giữ tâm hồn của Đà Lạt.

Các khách sạn sẵn có tại Đà Lạt thì trùng tu lại, nâng cấp lên, giá cao hơn. Ở Hoa Kỳ, muốn ngủ qua đêm các trung tâm du lịch, người ta phải đặt phòng trước cả năm hay 2 năm vì giới hạn phòng và giá rất cao, ít tiện nghi.

Các trung tâm du lịch trên núi tại Hoa Kỳ hay âu châu, thường họ không cho xe cộ vào nhiều quá. Đậu phía ngoài rồi đi xe buýt chở vào. Chỉ có những người sinh sống ở trong thì có thể vào hay các khách sạn sang trọng, đắc tiền. Dùng tiền du khách để tu bổ lại Đà Lạt. Đà Lạt sẽ thu hút du khách ngoại quốc nhiều hơn như Hội An. Nếu mình không lầm, ngày nay chỉ có đường Minh Mạng là còn chút gì của Đà Lạt xưa, từ khúc Nguyễn Biểu đi xuống chỗ quẹo. Không gian vẫn còn chút gì của Đà Lạt khi xưa.

Mai mốt, họ đập phá khu dinh tỉnh trưởng xong thì sẽ làm thịt luôn các khu phố xung quanh. Mình không rõ dự án xây khách sạn trên đồi dinh tỉnh trưởng, có thiết kế thêm về chỗ đậu xe cho du khách hay không. Mình chỉ nhớ là có lần ở Sàigòn, một anh bạn học cũ với đồng chí gái, dẫn mình đi ăn cưới con của một người bạn học cũ. Đến một nơi có đến 10 sảnh để tổ chức một lúc 10 đám cưới thì không có bãi đậu xe dưới hầm hay đâu cả. Phải chạy qua khu nhà dân, nhờ họ coi xe, trả tiền họ. Dưới hầm thì khó vì nước. Mình đọc tài liệu thì nước sông Sàigòn dâng mỗi năm mấy cm.

Khi xưa, mỗi lần có chợ Tết, mình thấy kẹt xe hơi rất nhiều ở dưới chợ. Nay dân đông gấp 3, 4 lần và thêm xe cộ nhiều thì Chán Mớ Đời.

Thật ra, người tây phương cũng lầm lẫn rất nhiều khi kiến thiết lại đô thị của họ sau đệ nhị thế chiến. Sau này, họ khám phá ra những lỗi lầm của họ nên đã thay đổi. Mình đi khắp âu châu khi xưa, nên có dịp viếng các trung tâm đô thị bị bom, chiến tranh tàn phá để xem thành phố nào đã tái thiết lại. Có lẻ chúng ta nên rút kinh nghiệm của họ để phát triển Đà Lạt thay vì đọc mấy cuốn sách cũ mèm từ 100 năm qua về thiết kế đô thị, để áp dụng kiến trúc xã hội chủ nghĩa sai lầm của thế giới vào Đà Lạt. Chán Mớ Đời 

Mình nghe nói là họ sẽ đóng cửa đèo Prenn để nới rộng con đường lên Đà Lạt để khỏi bị kẹt xe. Con đường đèo này, được xem là đẹp nhất Việt Nam. Adieu Đà Lạt. 

Làm như vậy để không phát triển Đà Lạt quá tải sẽ hết thu hút du khách. Du khách ngoại quốc đến Việt Nam, họ thích biển hơn là núi rừng vì xứ họ đã lạnh rồi. Hè chỉ muốn ra biển tắm nắng. Do đó muốn thu hút du khách thì Đà Lạt phải có đặc trưng về nét gì đó tương tự Hội An được thế giới biết đến vì Phố Cổ. Du khách nội địa thì chỉ đến vào các dịp Tết,… sau đó thì dân cư Đà Lạt ngáp ruồi, hay bị nhiễm Covid như mấy tuần lễ sau Tết nên chặt chém, làm 3 tháng sống 1 năm như các trung tâm du lịch gần biển ở âu châu.

Các tỉnh ở Đức quốc, bị bom đạn trong thời đệ nhị thế chiến. Ngày nay, người đức họ cho xây lại như xưa với kỹ thuật ngày nay. Đi viếng mấy chỗ này rất đẹp. Ngay Luân Đôn bị Đức quốc Xã dội bom, mình làm việc ở Luân Đôn được hai năm, đi đến những nơi được xem bị bỏ bom thì thấy vẫn như xưa, không có gì thay đổi cả.

Đà Lạt chỉ có xe buýt chạy bằng điện hay đi bộ trong thành phố. Trồng thêm hoa Anh Đào như ở Nhật Bản. Mấy phố như đường Minh Mạng, Hàm Nghi, Tăng Bạt Hổ sẽ như các thành phố nhỏ của Thuỵ Sĩ trên núi. Du khách trả tiền trước ở khách sạn nên không cần bán vé hay soát vé gì cả. Nay thì xong om. Chán Mớ Đời 

Đây là một thí dụ: thành phố Dresden của Đức quốc, khi xưa, quân đội đồng minh, dội bom gần như nát bấy nhưng họ vẫn xây lại như xưa thay vì huỷ bỏ, xây cái mới, rẻ hơn. Phố xá cho đi bộ, không có xe hơi chạy qua.
Hình ảnh thành phố Dresden năm 1968 và sau khi thống nhất được Tây đức bơm tiền để sửa chửa lại hết để người đức trở về. Khi tường Bá Linh sụp đỗ thì người Đông đức bỏ chạy hết qua Tây đức. 
Hình ảnh năm 1983, đông Đức (cộng sản) đói không có tiền tu sửa lại đến khi thống nhất, Tây đức bỏ tiền kiến thiết lại. May là bọn tư bản không dãy chết nếu không thì những ngôi nhà cũ khi xưa của Đức quốc sẽ không bao giờ được xây sửa lại, làm viện bảo tàn tội ác tư bản.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Webinar về an ninh mạng trên đài truyền hình Little Sàigòn

 Càng ngày chúng ta càng sử dụng Internet để chuyển tiền, trả nợ qua các hệ thống tài chánh và chúng ta có thể bị lừa. Mình có người em rể làm kỹ thuật thông tin cho một công ty bị hacker chiếm mất website rồi kêu trả tiền chuộc đâu $30,000. Anh ta phải bỏ thì giờ làm lại website nhưng tin tức, tài liệu của công ty đã bị người khác ăn cắp.

Một anh bạn khác bị ăn cắp số an sinh xã hội, rồi họ lần ra bằng lái xe,…và mua xe BMW dưới tên của anh ta. Phải mất cả năm hai năm mới bắt được thủ phạm làm trong ngân hàng, nên biết thông tin của mình hết.

Tuần này, nghe nói nhóm Hacker nào đã hack các website của Nga Sô. Do đó chúng ta phải cẩn thận. Mình đang do dự, chưa biết phải sử dụng phần mềm nào để giữ các mật mã khi vào các các trang nhà ngân hàng, bảo hiểm để trả tiền. Hy vọng, thứ 7 này mình sẽ hỏi anh chuyên gia về lưu trữ mật mã. Nay mình có nhiều trương mục lắm nên đầu óc hơi lộn xộn, khó nhớ hết mật mã.

Thứ 7 này, mình sẽ tiếp chuyện với ông Quan Đinh, một chuyên gia về an ninh mạng trong chương trình “Tài Chính” trực tuyến của đài truyền hình Little Sàigòn. Chương trình sẽ được trực tuyến qua Zoom. Nếu bác nào tò mò và muốn biết về Phishing, baiting, malware,… và đặt câu hỏi thì xin ghi danh trước qua đường link sau đây:

Where: 
Join Zoom Meeting
https://us02web.zoom.us/j/3683327266?pwd=K0JWN0VTU09rdkJJd29hK2R4R3FzUT09
Meeting ID: 368 332 7266
Passcode: LSTV

When: 
Saturday March 5th from 2PM-2:40PM 


Thân mời

Nguyễn Hoàng Sơn