Showing posts with label Văn nghệ. Show all posts
Showing posts with label Văn nghệ. Show all posts

Trứng tây Trứng mỹ

 Từ đầu năm nay, giá trứng tại Cali lên đến 40%, lại thấy đề trên các vĩ trứng “Free Range” (kiểu gà đi bộ, không nuôi trong chuồng), mình lấy làm lạ nên tìm hiểu. Hoá ra có Proposition 2, được 65% dân cư Cali bỏ phiếu thuận trong cuộc trưng cầu dân ý năm 2008, bắt đầu hiệu lực từ đầu năm nay. Có hiệp hội bảo vệ súc vật, chống cách nuôi gia cầm trong những điều kiện tồi tệ, đưa ra dự luật này và được dân cư Cali chấp thuận.

Dự luật 2 bắt các nhà chăn nuôi gà phải cho thêm 70% không gian cho mỗi con gà có thể di chuyển. Cho nên nghe “free Range”, không có nghĩa là gà đi bộ, được thả ra ngoài đồng mà có thêm chút chỗ trống để xê dịch. Xem các phim tài liệu, gà đứng một chỗ, được cho ăn no nên mập quá, đi không nổi, thậm chí bò cũng vậy.

Ngoài ra còn có chỉ thị cách thức nuôi gà mang số AB 1437, cấm bán gà nuôi trong chuồng chật hẹp. Các chuồng này gồm 90% gà nuôi tại Cali. Vấn đề này cũng áp dụng cho cách chăn nuôi bò và heo. Do đó có thể Cali sẽ không có thịt heo vì các nhà chăn nuôi chưa có khả năng tài chánh để cập nhật hoá theo các tiêu chuẩn chăn nuôi của Cali. Khi không phải xây thêm 70% chuồng nuôi heo, tốn tiền mà giá bán không lên.

Khi mình từ âu châu qua định cư tại Hoa Kỳ, rất ngạc nhiên khi thấy trứng bên mỹ phải để trong tủ lạnh trong khi bên âu châu thì để ở ngoài. Lúc đầu, mình tưởng để trứng ở ngoài vì sợ hư nhưng nhớ lại khi xưa ở Việt Nam, nhà mình có nuôi gà, gà ấp mất 3 tuần, đâu có tủ lạnh hay người ta ăn hột vịt lộn. Bên âu châu cũng vậy, mua hột gà về thì để trong tủ hay trên bàn tương tự các thỏi bơ cũng đâu thấy họ bỏ tủ lạnh. Mình ở âu châu 12 năm trời, đâu có tủ lạnh trong phòng Ô-sin, đâu có bệnh tật khi để bơ và trứng ở trên bàn học.

Sau này mới khám phá ra bên mỹ, họ bắt phải rửa trứng gà trước khi đem đi bán. Lý do: sợ bị nhiễm vi khuẩn Salmonella, do đó phải bỏ tủ lạnh để chống vi khuẩn tràn lan. Khi rửa trứng thì có khả năng làm vỡ vỏ trứng nên họ bắt phải bỏ tủ lạnh. Ngược lại bên Âu châu thì lại cấm rửa trứng gà vì sợ làm vỡ vỏ trứng và không được bỏ vào tủ lạnh. Thế lầy nà thế Lào?

Âu châu đúng hay Hoa Kỳ đúng? Chán Mớ Đời 

Trứng mua ở nông trại gần nhà ông nuôi ong, trứng gà họ mới lượm hồi sáng. Rẻ hơn ở siêu thị lại tươi như hoa 10 giờ.

Hoa Kỳ cho rằng gà được nuôi trong chuồng hay bị lây bệnh salmonella nên họ bắt phải rửa trứng gà trước khi đem bán. CDC cho rằng hàng năm có 79,000 vụ bệnh từ thực phẩm và có đến 30 người chết, bị ngộ độc vì ăn trứng dính vi khuẩn Salmonella Enteritidis. Ra lệnh phải rửa trứng và bỏ tủ lạnh khi di chuyển và trưng bày bán ở chợ. 

Ngược lại ở Âu Châu thì lại cấm rửa trứng. Lý do: có thể làm hỏng cái vỏ trứng, giúp các vi khuẩn có thể thâm nhập vào phía trong của trứng. Nói chung vỏ trứng rất đều, nội bất xuất ngoại bất nhập. Thậm chí dùng tia cực tím không thể xem là rửa. 

Người ta cho biết; trứng gà nuôi ngoài đồng, có nhiều sinh tố A, E, và D, omega-3, betacarotene  và ít cholesterol. Lý do là gà ăn côn trùng, ngoài đồng tốt, có nhiều sinh tố hơn là được nuôi bởi các bắp GMO,… các cholesterol trong trứng gà được xem tốt cho cơ thể. Tương tự bò được nuôi ngoài đồng, ăn thì thịt lại mềm, nhiều chất đình dưỡng tốt hơn là bò để nuôi trong mấy gian phòng, đứng một chỗ, ăn bắp GMO. Tương tự con người chỉ ăn mà không di chuyển.

Từ đầu năm đến giờ, mình mua hột gà ở trại gà gần vườn mình cho đồng chí gái ăn. Ăn trứng bổ, đủ các chất dinh dưỡng nên cô nàng ăn mỗi ngày. Mình nhận thấy sự khác biệt là trứng mua ở trại mới trong ngày thì tròng đỏ, màu rất đỏ như nghệ, còn tròng đỏ của trứng mua ở siêu thị thì màu vàng nhạt, lỏng le không dầy đặt. Trứng ở siêu thị thì nghe nói họ để tủ lạnh cả năm, nên có màn hạ giá khi gần hết hạn. Trước đây, mình thấy hạ giá là mua nhiều, nay thì sợ lắm rồi vì họ có thể để cả năm rồi.

Cạnh nhà ông nuôi ong, có trại gà của một gia đình Mễ nên mỗi lần mình đi lấy mật ong cho cô cháu hay bạn bè thì ghé mua cho vợ. Kệ chịu khó một chút nhưng bảo đảm chất lượng tươi. Mấy người này để cái quán ngoài đường bán, họ mua mật ong của ông nuôi ong và bán lại một thùng giá $60. Họ nói với mình, bán giá cao thì thiên hạ mới tin là mật ong nguyên chất, hữu cơ. Chắc mình cũng nên lấy tiền của bạn bè khi họ nhờ mua mật ong. Tốn tiền xăng, họ lại kêu rẻ quá, chắc không phải đồ thật.

Theo mình đoán là các công ty thực phẩm, lobby cho các cơ quan chính phủ, bắt rửa trứng để họ có thể bỏ lạnh, giữ lâu, chớ theo tiêu chuẩn y tế âu châu thì cấm rửa các trứng vì sợ truyền nhiễm. Chính phủ muốn nói sao cũng được để giúp các công ty thực phẩm làm giàu. Thôi mua trứng của các nông dân gần nhà cho chắc ăn. Vừa tươi vừa giúp họ có chút tiền thay vì các công ty thực phẩm ăn hết. Xong om.

Nguyễn Hoàng Sơn 


Chợ Cây (chợ gỗ) Đàlạt

 Thấy mấy tấm ảnh của Chợ Cũ Đàlạt khiến mình nhớ mại mại, không gian thời bé nhất là lúc ông cụ đi diễn hanh với đoàn Thanh niên Cộng Hoà của Ngô tổng thống ở quảng trường Hoà Bình. Ông cụ đi ngoài, ngậm cái còi huýt ét ét trong khi thiên hạ đi hàng 4, một hai một hai. Ai nấy cũng bận bộ đồ kaki màu xanh. Mình có viết nhiều về khu Hoà Bình rồi, đây chỉ tải lên mấy tấm ảnh, tìm được sau này.

Đây là Chợ Cũ Đàlạt, còn được gọi là Chợ Cây vì mấy cái đà làm bằng gỗ. Phía ngoài thì tô xi măng.
Mẹ mình bán ở phía tay phải của 3 cửa sổ thông hơi, sau này là chỗ tiệm đồng hồ Tiến Đạt
Người Đàlạt gọi là Chợ Cây hay Chợ Gỗ vì mấy cái đà làm bằng gỗ theo hình vòm, rất hiện đại về kỹ thuật vào thời đó, nhất là tại Đàlạt. Tây mới bắt đầu xây cất các toà nhà bằng gỗ ép. Hình chụp năm 1937, thấy mấy bà ngồi chồm hổm trên sập. Kiến trúc sư người Pháp tên Louis Georges Pineau thiết kế.

Mấy cái sập dựng trên mấy cái chân, tối thì dọn mấy thùng đựng đồ bán dưới sập rồi lấy bao bố trùm lại và buộc dây thừng.
Bưu thiếp nhìn từ tiệm thuốc bắc Con Cua, thấy quảng cáo rạp Eden, tiền thân rạp Ngọc Lan, chiếu phim Victor. Sau này, họ nới đường Duy Tân thành hai chiều thì cột trụ điện bên phải được dời đi.
Toàn dân đoàn kết ủng hộ Ngô tổng thống. Kinh chỗ này là nơi thiên hạ đi diễn hành khi xưa đi xuống đường Lê Đại Hành. Mình nhớ rõ như hôm qua, ông cụ bận bộ đồ xanh của Thanh Niên Cộng hoà, đi diễn hành từ đây xuống sân vận động Cộng Hoà.
Thấy tây toàn quyền bận đồ trắng thêm vài chức sắc người Việt, áo dài khăn đóng. Ngày lễ chi của tây, chắc lễ “cặt to ru dê”
Không ảnh cho thấy chợ tràn Lan ra ngoài luôn. Dãy phố dọc bên dãy photo Hồng Châu, che gió cho họp chợ. Sau này, họ phá bỏ, theo mình là điểm sai lầm vì tây thiết kế rất đúng về thiết kế đô thị và chắn gió. Sau này họ phá vỡ, khu này te tua, chỉ có phía bên dãy phố Việt Hoa, nhà hàng Mekong là nhộn nhịp. Xem hình dưới 


Dãy phố bên phải làm không gian của Chợ Cũ rất gọn gàng, sau phá bỏ Chán Mớ Đời 
Chỗ này mình chứng kiến ông cụ đi một hai một hai. Cựu ngự lâm quân của Bảo Đại nên đi đẹp . Nghe kể, không ai tập mọi người đi đúng nhịp nên họ kêu ông cụ làm. Mình đoán làm cái bùng binh nhỏ sau khi phá bỏ dãy phố bên phải. Lúc này Photo Hồng Châu chưa lên lầu. Nếu để ý thì bên trái của Chợ Cũ, có vẻ Randa dài ra để che nắng vì hướng Tây.
Thấy xe kéo ở Đàlạt, lên dốc chắc chết quá. Đây là hình ảnh vào những năm 1940, khi họ xây các kiosk bên phải. Sau đó lại phá bỏ để xây dãy phố bằng đá, có vòm như ở trên.

Họp chợ ở ngoài trời thấy nhộn nhịp. Chợ cũng trống như sau này họ xây Chợ Mới.
Tương tự
Chợ khoảng cuối thập niên 30
Tây thực dân đi ắt ê. Chắc hình chụp trong ngày lễ mẫu quốc hay toàn quyền lên viếng thăm Đàlạt. Thấy cả hướng đạo sinh
Xe thổ mộ, mình nhớ có đi một lần từ đây lên ấp Xuân An. Mình tiếc nhất là dãy phố xây bằng đá ong bên phải bị đập bỏ sau 1960.

Chợ đang xây thập niên 30. Xây bàng hắc lô, thấy chất đầy xe tải sau gia đình nào đứng chụp hình
Cảnh tượng với dãy phố bên phải mà sau này họ đập bỏ. Chán Mớ Đời 

Theo mình phá bỏ dãy phố bên phải là một sai lầm lớn trong thiết kế đô thị. Không biết ai ra lệnh dẹp bỏ. Theo mình đấy phố này đẹp nhất của khu phố này.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Sản phẩm của ong

 Hôm qua, mình dẫn thằng con đến nhà ông mỹ nuôi ong, cho nó mục thị về cách lấy mật ong, cũng nhiêu khê lắm. Từ các thùng ong để trong vườn bơ, ông ta phải bận quần áo, xịt khói để ong không chích, để chở mấy thùng tổ ong về nhà. Từ đó, mới bỏ vào cái máy, hớt các đầu xáp khỏi các thớt mật ong, nếu không thì sẽ không lấy được mật ong vì sáp của ong phủ kín các lỗ ong hình lục giác, hầu tránh mật ong chảy ra vì được dựng đứng trong tổ ong.

Sau khi hớt các mặt sáp phía ngoài của tổ ong, sẽ bỏ bào một cái thùng chạy máy ly tâm, để lấy mật ong ra. Mật ong chảy xuống một cái bể hứng mật ong, được sưởi ấm để bơm vào thùng phi. Từ thùng phi, ông ta sẽ chở đến nơi họ cho vào thùng. Chỗ này mình có đến, rất tinh khiết, được sát trùng kỹ lưỡng và được thanh tra hàng tháng bởi thành phố. Nhân viên bận đồ như trong phòng thí nghiệm. Sạch sẻ an toàn trên xa lộ.

 Thùng và nắp đựng mật ong, mua từ các công ty được phép bán và đã được khứ trùng trước đó. Lấy mật ong mà cứ thấy ong bay ào ào như phản lực khi xưa trên vùng trời để thả bom. Kinh

Mình học được sự bình tỉnh từ khi có cái vườn bơ. Đi qua các thùng nuôi ong thì đi từ từ, bình thường, không nhanh không chậm. Nếu đi nhanh thì chúng bay theo đốt ngay. Nay thì mình cầu cho cúng đốt, sẽ giúp hệ thống miễn nhiễm của mình mạnh hơn. Cái máy của ông ta hơi cũ vì loại mới ngày nay, có thể làm 4 lần nhiều hơn. Ông ta về già nên làm tà tà cho khoẻ cơ thể. 74 tuổi mà vẫn leo đồi, khiêng mấy thùng đồ nặng trong khi mấy tên cùng tuổi mình, lên vườn mình đi độ 50 mét là đứng hình, tạo dáng người nông dân anh hùng.

Khi xưa, ông ta có 2,000 tổ ong nay chỉ giữ lại độ 500. Mấy tên nuôi ong làm tiền mỗi năm nhờ đem tổ ong lên thung lũng San Joaquín, thủ đô hạnh nhân của Hoa Kỳ. Mỗi tổ ong sẽ được trả $225. Không có tổ ong thì hoa hạnh nhân sẽ không đậu trái. Có tên Mễ nuôi ong có đến 5,000 tổ, xem như được một triệu trong vòng 1 tháng nhưng vận chuyển 5,000 thùng tổ ong rất châm. Nhiều tên nuôi ong ở tiểu bang Florida, cũng lái xe chở hàng ngàn tổ ong trên xa lộ, chạy xuyên bang đến Cali để đặt tổ ong.

Tên này chỉ cho mình cái vườn trồng chà là ở Blythe, mà họ muốn bán nhưng mình không thương lượng được thêm mụ vợ cấm mua. Tên này có một vườn chà là, mỗi năm, đến tháng này mình mua chà là tươi của hắn ăn cực ngon, ít đường hơn. Mình leo núi, chỉ ăn có 5 trái chà là là khoẻ, không ăn cơm gì cả. Mỗi ngày làm 3 trái, có rất nhiều Potassium.

Tổ ong làm bằng sáp hình lục giác, mật ong nằm ở trong, sau đó được phủ lên một chất sáp khác. Do đó, phải bỏ vào máy, hớt phần sáp che tổ, hình lục giác. Loại sáp này dùng làm đèn cầy hay môi son để tránh bị khô môi. Ăn thì chả có chất bổ béo gì cả. Mấy tên nào khôn thì bỏ chút ít trong bình mật ong thì khách hàng tin hơn.

Mình mời hai vợ chồng ông nuôi ong đi ăn cơm trưa, nói với thằng con là lâu lâu nên mời họ đi ăn cơm để họ để tổ ong tại vườn, miễn phí. Thường các vườn bơ khác thì họ lấy $50/ tổ, đây không phải trả tiền nên phải ngoại giao một tí.

Ngoài mật ong ra, ong còn sản xuất những sản phẩm khác tốt hơn nhưng ít ai biết đến: sữa ong chúa, loại nguyên chất đắt tiền lắm, phấn hoa, khi ong đậu trên mấy cái hoa thì bụi phấn dính vào chân, từ từ khô nên khi bay về tổ thì chúng làm các phấn hoa thành những cục nhỏ khô, ăn hết chê, propolis cũng tương tự rất tốt cho cơ thể miễn nhiễm.

Sữa ong chúa, có màu vàng vàng, ăn rất the the, chua chua
Propolis hơi đắng
Phấn hoa, tròn tròn dính vào chân của ong, tha về tổ. Ai bị dị ứng thì nên ăn loại này, nhất là được sản xuất trong vùng mình ở vì phấn hoa của vùng sẽ giúp mình miễn nhiễm các bụi phấn sau này.
Glycemic Index của mật ong là 58, ít hơn đường chút đỉnh.

Mình có đọc mật ong có thể giúp giảm bệnh tiểu đường thì kết quả cho thấy chưa rõ ràng lắm. Bên Thổ Nhĩ Kỳ thì họ nghiên cứu với bệnh nhân có bệnh tiểu đường cấp 2. Họ cho ăn 5-25 gram mật ong mỗi ngày trong vòng 4 tháng, kết quả cho thấy giảm hemoglobin A1c (HbA1c). Một nghiên cứu khác ở Ai Cập thì lại cho thấy HbA1c lên. Tốt nhất là mình tự xem và thử lấy chính mình trước và sau khi thử máu. Mật ong có nhiều chất bổ sung tốt nhưng không nên dùng nhiều lắm vì đường.

Quan trọng là mua loại nguyên chất, đa số mật ong ngoài thị tường đều do Trung Cộng sản xuất, họ pha chế với đường nhiều lắm. Muốn biết mật ong nguyên chất thì cứ dốc ngược chai mật ong. Nếu mật ong chảy nhanh là đồ pha chế, còn nguyên chất như trong vườn mình thì đặt kẹo.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Rạp xi-nê Ngọc Lan


Có lần một anh bạn từ Đàlạt chở mình đến văn phòng của Phước “Ngọc Lan”, ở Bolsa, con ông bà chủ rạp xi-nê Ngọc Lan và Ngọc Hiệp. Anh bạn, thân với Phước Ngọc Lan từ bé, sau này anh bạn vượt biển sang Hoa Kỳ, Phước Ngọc Lan giúp đỡ lúc khởi đầu ở xứ Cờ Hoa. Mình có hỏi anh chàng về lịch sử của rạp xi-nê. Anh ta hứa sẽ email cho mình. Một ngày đẹp trời, anh ta gửi bài của mình viết về mấy rạp xi-nê của Đàlạt trước 75. Của Ceasar trả về Ceasar. Chán Mớ Đời 

Có ông nào còm trên Facebook. Bạn bè gọi là Phước Ngọc Lan vì tên Phước, con của chủ rạp Ngọc Lan.

Cám ơn Anh post bài viết về rạp hát Ngọc Lan, Ngọc Hiệp. Hai rạp nầy trước 75 thuộc về của em ông ngoại của tôi, ông Phạm Ngọc Sum.

Tôi rất ngạc nhiên trong bài báo ghi Họ là Phước thay vì Phạm. 

Hy vọng ông thần này cho mình thêm chi tiết vì tên Phước, gửi cho mình bài mình viết về 3 rạp xi nê thời xưa.

Cây che mất mặt tiền của rạp xi nê Ngọc Lan, chỉ thấy phần khách sạn Ngọc Lan. Nhìn từ Cầu Ông Đạo lên. Không phải trước rạp Ngọc Lan.

Theo mình hiểu thì rạp xi-nê Ngọc Lan, trước kia, thời Tây mang tên là rạp Eden nhưng khi tây về nước thì bố mẹ Phước Ngọc Lan mua lại và đặt tên tiếng Việt, có lẻ con gái tên Ngọc Lan. Dạo ấy, Đàlạt có rạp Kinh Đô ở đường Hàm Nghi, rạp LangBian ở đường Phan Đình Phùng, rạp Ngọc Hiệp thì không biết trước xưa tên gì. Ai biết cho em hay. Mình có học với một cô tên Ngọc Chân, nghe nói là con gái của rạp Ngọc Lan, sau 75 lấy tên bạn học chung Quang Hà, nay đã qua đời.

Có người kêu là rạp Lang Bian là tiền thân của rạp Ngọc Hiệp thì không đúng vì hai rạp nằm gần nhau, giữa hai rạp là hai tiệm ăn Như Ý và Kim Linh. Rạp Lang bian rất nhỏ, theo trí nhớ của mình khi mường tượng lại cây xăng Ngọc Hiệp, nơi họ phá bỏ rạp để xây cây xăng, chỉ độ phân nữa rạp Ngọc Hiệp, chỗ có con hẻm đi vào quán mì quảng nổi tiếng của ông Bắc Kỳ, mình có ăn vài lần ở đây. Mình có viết về hai rạp này rồi.
Nhìn tấm ảnh này khiến mình nhớ lại những lần đi xem xi-nê tại rạp Ngọc Lan. Đi từ đường Thành Thái đến, có con dường dốc bằng xi-măng đi lên bên phải rồi vào rạp. Hình như phòng bán vé ở bên phải nơi thiên hạ đứng đầy. Đối diện mặt tiền là các thang cấp, xem hình trên, đi ra bãi đậu xe. Những phim ấn tượng nhất, mình xem tại đây là Love Story, Woodstock, Les Deux Gamins, Cleopatre, mùa hè 42,…

Hồi nhỏ mình nhớ là họ có bán nước ngọt, đậu rang, cạnh chỗ bán vé.
Hình này chụp cho thấy họ làm phòng ngủ thêm sau này. Chỗ này bị đặt chất nổ một lần vì cho lính mỹ thuê. Về Đàlạt, nghe mấy cô học chung ở Yersin cho biết là một cô học chung tên Nguyệt Thu, nằm vùng, là người đặt chất nổ. Mình chả nhớ cô Thu này là ai. Kinh chỗ này có gửi xe gắn máy khi đi xem xi-nê đầy đặt.
Hình này chụp từ dốc Mình Mạng, cho thấy rạp Lang Bian bị dẹp bỏ, thấy tường bên hông của tiệm Đức Lập, bán vật liệu xây cất. Rạp Ngọc Hiệp có gánh cải lương Thủ Đô từ Sàigòn lên. Giữa 2 rạp là một con đường nhỏ đi vào sau chỗ sửa xe, có ông tàu bán xắp xắp,… thấy 2 tiệm ăn tàu Như Ý và Kim Linh rồi đến rạp Liang Bian, sau này bị đập bỏ, thế vào đó là cây xăng Ngọc Hiệp (Shell).
Thấy tờ chương trình cho thấy số điện thoại của rạp Langbian là 190, như vậy Đàlạt dạo ấy chỉ có vài trăm người có số điện thoại.
Đây rạp Langbian, người lớn nói là hát bội và cải lương nhiều hơn là xi-nê. Rạp giáp tường nhà tiệm Đức Lập, khi phá bỏ rạp thì có con đường đi vào hẻm phía sau, chỗ có mấy cái quán, một trong những quán bán, là mì quảng của ông bắc kỳ. Bắc kỳ không bán phở lại bán mì quảng. Chán Mớ Đời 

Phim này mình có đi xem, năm học Seconde thì phải. Mê Ali MacGraw từ đó, sau này thấy hình cô ta về già Chán Mớ Đời 

Tờ chương trình mà khi xưa hay xin về làm kỷ niệm. Hồi bé thì bà bán vé không cho vì con nít, sau này hình như họ không in nữa thì phải.
Rạp Kinh Đô ở số 55 đường Hàm Nghi. Mình chưa bao giờ xem ở đây. Sau này thì họ dẹp bỏ. Mình đoán là quá nhỏ để có lời, phải làm lớn ra như rạp Hoà BÌnh để chứa thêm khán giả để trả tiền mướn phim, thêm ghế cũ thiên hạ không đến.
Mình nhớ xem phim này ở rạp Ngọc Lan (Cleopatre) phim dài lê mê. Hai rạp đều chiếu chung phim này nên khi hết cuộn này thì họ cho người đem xuống rạp Ngọc Hiệp để đổi cuộn kia. Thiên hạ đợi lâu, họ bán nước cam vàng BGI hay xá xị. Mình không có tiền, khát nước nóng như điên. Thiên hạ la ó. Ở rạp Ngọc Hiệp thì không có chiếu phim với cảnh hun hít như ở rạp Ngọc Lan.

Ở đây có màn kiểm duyệt như phim “Mùa hè 42”, lúc chiếu cảnh cô vợ được tin người chồng chết, tên con nít hàng xóm đang ôm nhảy đầm rồi cúp mất. Họ lấy cuốn vỡ che ống kính lại rồi khi họ mở ra thì thấy tên con nít bỏ chạy thụt mạng xuống đồi. Sau này ra Hải ngoại, mình ó xem lại thì có cảnh rờ mó hun hít. Chán Mớ Đời 

Vé đi xem phim thời xưa ở rạp Eden, tiền thân của rạp Ngọc Lan. Thôi ngưng ở đây, hôm nào rảnh mình kể tiếp.

Hehe
I see the house where I lived with the brown little duck house on top of picture 
My uncle in law raised about 10 ducks for eggs 
The house behind the Ngoc Lan
Thanks 


Có người cho biết là mình có dùng hình ảnh của anh ta trong bài. Thú thật mình không biết của ai. Lý do là có người gửi cho mình 700 tấm ảnh xưa của Đàlạt. Xem tấm nào có kỷ niệm thì mình viết, rồi tải lên. Ảnh của ai thì cho mình biết để ghi tên của họ. Cảm ơn 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Ty Công Quản Nước Đàlạt

 Hôm trước, thấy tấm không ảnh của hồ Đội Có, khiến mình nhớ đến ông cụ. Bố mình làm việc ở ty Công Quản Nước, nhà máy lọc nước và bơm nước cho thị dân Đàlạt dùng. Ông cụ mình là công chức của ty Công Chánh Đàlạt, nhưng sau Mậu Thân, ông cụ được đổi qua ty Công Quản Nước, mình đoán cũng trực thuộc Khu Công Chánh Cao Nguyên Trung Phần. Trưởng ty là ông Nguyễn Văn Tùng, người Bắc, bố của tên Huân, học trên mình một lớp ở Yersin, nghe nói đã qua đời mấy năm rồi.

Tấm không ảnh cho thấy bên trái là đường Đinh Tiên Hoàng, từ đường Bà Huyện Thành Quan, chạy lên Giáo Hoàng Học Viện. Bên tay phải có đường Võ Tánh, từ Phan Bội Châu chạy xuống đến bùng binh ngay bờ hồ. Chỗ này là nơi bố mẹ và Thịnh, học chung với mình ở trường tiểu học Thanh Ngọc, tập lái xe, xuống dưới này rồi mẹ nó hoảng, đạp thắng không đạp, đạp ga bay xuống hồ, chết đuối cả 3. Sáng đó, mẹ mình sai người chở 5 tấn gạo vào cho bà ta ở đường Hàm Nghi, chưa kịp lấy tiền nên mất 5 tấn gạo. Chán Mớ Đời 

Thật ra khi lái xe mà có vợ ngồi bên cạnh hay gây tai nạn lưu thông vì đàn bà không muốn lái xe nhưng thích lái tài xế. Khiến tài xế nổi điên đâm vào lề.

Từ đường Bà Huyện Thanh Quan, có con đường nhỏ chạy vào bên cạnh hồ Đội Có, đến nhà máy lọc nước của Đàlạt. Mình có vào đây vài lần. Nếu nhìn kỹ thì sẽ thấy ống nước lớn từ hồ Xuân Hương, để bơm vào nhà máy nước. Nếu mình không lầm thì có ống thông nước từ hồ Xuân Hương vào hồ Đội Có, để thoát bớt nước cho hồ Xuân Hương vào mùa mưa. Ông Đội Có giàu, có dãy nhà ở khu Hoà Bình đối diện nhà sách Hoà Bình, phía sau là bến xe Tùng Nghĩa.

Tìm ra rồi, hình chụp thấy hồ Xuân Hương, và hai hồ nhỏ bên kia đường: hồ Đội Có và hồ Tống Lệ

Mình vào đây thường là buổi tối, ông cụ đi thanh tra các nhân viên gác trực nhân dân tự vệ ban đêm. Mình đi ké vào xem. Ông cụ là đoàn trưởng nhân dân tự vệ của nhà máy nước nên chỉ xem xét, phát súng trong kho, ghi tên ai có mặt và ai vắng mặt rồi về nhà ngủ. Cũng vì cái chức này mà sau 75, ông cụ đi tù 15 năm.

Số là trước khi di tản khỏi Đàlạt vào tháng 3 năm 1975, ông cụ được lệnh chôn súng của các nhân viên của đoàn nhân dân tự vệ. Sau khi Việt Cộng vào Đàlạt, ông cụ trở về Đàlạt, rủ các người bạn quen, in truyền đơn chống Việt Cộng, bị bắt với súng ống của nhân dân tự vệ đã chôn khi xưa.

Dãy phố của ông Đội Có, phía sau lưng là bến xe đò. Mình bỏ trên đây để khi mình giải thích dễ nhận ra chỗ nào.

Hồ Đội Có và Hồ Tổng Lệ nằm đối diện bên đường hồ Xuân HƯơng, để hứng nước mưa từ trên đồi cù xuống, tránh kéo theo chất dơ, rác thải từ thành phố xuống hồ Xuân Hương. Mình đoán là do người Pháp thiết kế. Ở  âu châu hay Hoa Kỳ, mỗi thành phố đều có một hay nhiều hồ chứa nước mưa, sau đó họ lọc để tưới cây cỏ lại, gọi nước tái sinh. Thứ nhất là để tránh lụt lội vào mùa mưa vì nước ở trên cao đổ xuống các thung lũng.

Đàlạt xưa khi trời mưa thì các ống cống, mưa từ trên đồi chỗ Hàm Nghi, Mình Mạng chảy xuống Phan Đình PHùng, rồi xuống suối từ Số 6 chảy về. Nước thoát không kịp nên làm ngập hết các khu vườn rau ở  xung quanh. Xe mình bị ngập nước một lần ở cầu Cẩm Đô, phải sửa tốn khá nhiều tiền bà cụ. Bao nhiêu rác rưỡi thị dân ở Phan Đình Phùng, mang ra đổ nơi con suối, làm nghẽn con suối. Vào mùa khô, rác chất cao thành núi, đi ngang mấy cái cầu là hôi thối, ruồi nhặng đầy. Mùa mưa thì nước suối chảy siết bị nghẹt, khiến ngập nước. Mình thắc mắc khi về Đàlạt là rác thải ở đâu. Ống cống, rác đủ trò. Chỉ nghe là xứ Đan Mạch có viện trợ làm chỗ phế thải rác cống ở Cam Ly.

Khi xưa, khi trời mưa, cống rãnh từ Khu Hoà Bình đỗ xuống thung lũng trồng rau, sau này người ta xây Chợ Mới. Ống cống đều chảy ra suối Cam Ly, chỗ ấp Ánh Sáng. Nước cống rãnh ở đường Mình Mạng và Dốc Nhà Làng đều chảy xuống Phan Đình Phùng, thải xuống suối nước chảy về Cam Ly.

 Mình nhớ như in, khi đi lên Dốc Nhà làng là ống cống thối không thể tả, đen xì, ruồi nhặng. Vào mùa mưa thì đỡ hơn. Rác thiên hạ đổ ngay suối sau lưng đường Phan Đình Phùng nên mùa khô, chất thành núi rác, mùa mưa thì làm nghẹt suối nên nước dâng lên làm ngập ruộng vườn của mấy người làm vườn, xung quanh đó.

Nhìn tấm ảnh này mới để ý là con đường dẫn vào Thuỷ Tạ, nằm ngay trục của con đường đi thẳng lên Hôtel du Lac. Hình như không phải đường Võ Tánh ở khúc này, chỗ Phan Bội Châu chạy xuống là đường tên khác thì phải, quẹo phải là đường Nguyễn Thái Học. Có nhiều biệt thự rất đẹp. Hình như có nhà ông luật sư nào bị giết chết. Chắc Việt Cộng.

Vấn đề của cư dân Đàlạt khi xưa là nước. Khi tây thành lập thành phố sương mù này thì họ chỉ giới hạn ít dân số nên hệ thống nước đều đưa về những nơi người Pháp sinh sống như đường Trần Hưng Đạo, Yersin, Hùng Vương,…khu người Việt sinh sống thì xài giếng nước, chỉ có khu Hoà BÌnh là có. 

Sau Mậu Thân thì người dân đổ xô vào Đàlạt sinh sống khiến hệ thống nước của pháp xây dựng không đủ cung cấp cho khắp nơi Đàlạt. Thêm hạ tầng cơ sở bị sét rỉ, nghẹt ống. Nhà mình dạo ấy, ở trên đồi nên nước chảy như thằn lằn. Một đêm chưa đầy một thùng thiết nước. Phải đi gánh nước giếng. Dạo ấy mình đi xách nước mệt thở cho em út xài. Nước mưa thì để nấu ăn còn nước giếng thì để giặt quần áo,…

Hình như phía Chi Lăng cũng có một nhà máy nước nhỏ hơn để bơm nước từ hồ Than Thở cho thị dân vùng đó và trường Võ Bị. Mình thu thập được một số hình ảnh của tường võ bị, để hôm nào mình bỏ lên cho bà con xem lại.

Ông cụ mình có kể là dinh tỉnh trưởng ở trên cao nên nước không lên được. Ông Nguyễn Hợp Đoàn, kêu ông cụ lên xử lý. Ông cụ cho làm một cái château d’eau rồi hẹn giờ, chặn ban đêm, khi khu Hoà BÌnh đi ngủ, không xài nước, áp suất mạnh dành để bơm lên cho cả gia đình ông ta xài. Ông Đoàn khoái chí lắm, kêu ông cụ ra ứng cử hội đồng thị xã , bảo đảm đắc cử 100%. Ông cụ kể đi giám sát bầu cử, khi xe nhà binh đến chở thùng phiếu tại các trường học, thấy các thùng phiếu khác đầy nhóc phiếu, họ đổi thùng phiếu cho vẻ dân chủ nên các ứng cử viên của Đảng Dân Chủ thắng to. May ông cụ mình không nghe lời ông Đoàn nếu không đi tù lâu hơn thay vì 15 năm. Chán Mớ Đời 

Nghe nói ông Đoàn sang Mỹ, mở tiệm bán đồ trang trí nội thất, khá lắm, ở vùng Đông Bắc. Ở Quận Cam cũng có một ông tướng kinh doanh ngành này, giàu có, mới qua đời thì phải. Thằng con ông ta, học chung với mình, làm luật sư, nay đã về hưu.

Sau này Tây Đức viện trợ cho hệ thống ống nước mới để giúp giải quyết vấn đề nước trong thành phố. Đường Hai Bà Trưng, Duy Tân, được gắn hệ thống nước mới nên khá hơn, thêm máy lọc nước được nâng cao năng xuất. (Còn tiếp) 

Có người hỏi mình còn tiếp đâu. Mình có kể trong bài “ngày xưa Fan thị “ hôm nào rảnh, sẽ kể thêm. Chán Mớ Đời 

Chỗ hai ống nước lớn hút vào nhà máy nước gọi là cầu đen , ngày xưa đi học xong hay ra Thuỷ tạ bơi qua cầu đen , đứa nào bơi giỏi bơi qua thì quay đầu bơi về lại luôn không cần nghỉ .


Nguyễn Hoàng Sơn 

Cuộc giải cứu Bat 21 Bravo với Biệt Hải Việt Nam

 Lâu lắm rồi, mình có xem phim giải cứu Bat 21, một trung tá phi công mỹ Hambleton tại chiến trường Việt Nam, có nói đến một ông mỹ thuộc lực lượng đặc biệt và một người biệt hải của Việt Nam Cộng Hoà, chèo xuồng đi cứu thoát ông phi công mỹ bị bắn rơi, lẫn trốn trong vùng địch tạm chiến. Cuộc giải cứu phi công mỹ này được xem là cuộc giải cứu lâu nhất và đắt giá nhất vì họ phải hy sinh 11 người mỹ chết, 5 chiếc máy bay khác bị bắn rơi, chưa kể lính Việt Nam Cộng Hoà bị chết và bị thương vì họ ra lệnh vùng cấm khai hoả (no fire zone) trong vòng 27 cây số, để họ có thể tìm kiếm để giải cứu phi công của họ trong khi quân của Hà Nội , vượt vỹ tuyến 17 với 30,000 bộ đội chính quy.

Nay tình cờ đọc được bài của một biệt hải, có mặt trong cuộc tiếp cứu này nhưng không được nhắc đến trong phim nên kể lại đây.

Trong cuộc tiếp cứu hai phi công mỹ trong phi vụ Bat 21 này, Hoa Kỳ ra lệnh không được khai hoả trong chu vi 27 cây số, để họ đi tìm 2 phi công bị bắn rơi, vẫn còn liên lạc với cấp chỉ huy khiến quân đội Việt Nam Cộng Hoà bị Việt Cộng tấn công gây tổn thất khá nhiều trong 2 tuần lễ vì không được khai hỏa, yểm trợ của không lực, chống sự xâm nhập của 30,000 bộ đội tràn sang vĩ tuyến 17 nhưng không thấy người Mỹ nói đến. Chán Mớ Đời 

Phi công Hambleton, người được cứu sống sau khi nhảy dù ra khỏi máy bay bị phòng không Việt Cộng bắn hạ, trốn trong rừng đến 11 ngày, bị săn đuổi bởi cán binh Việt Cộng. Cuộc giải cứu này được dựng thành phim do tài tử Gene Hackman đóng vai Hambleton.
Bản đồ, địa điểm của hai viên phi công mỹ được giải cứu, ông Clark thì ngay bờ sông còn ông Hambleton thì cách bờ sông Miếu giang độ gần 1 cây số. Hai người lính Biệt Hải, 1 Mỹ và 1 việt, chèo ghe lên và đi tìm ông Hambleton, bỏ lên ghe, chèo xuống lại, cải trang là nông dân Việt Nam. Điều hay là ông Norris người Mỹ rất cao mà qua mặt được Cộng quân. Lâu quá không nhớ rõ chi tiết.

Theo người Mỹ thì cuộc tìm cứu ông phi công Iceal Gene Hambleton, bị bắn rớt khi lái chiếc EB-66 trong vùng tạm chiếm của Việt Cộng dài nhất trong chiến tranh Việt Nam. 5 máy bay khác bị bắn hạ trong cuộc tìm cứu ông Hambleton, khiến gây tử thương thêm 11 người mỹ, 2 người bị bắt tù binh và một phi công khác, đi tìm cứu chiến hữu bị bắn hạ.

Máy bay EB-66, có 6 phi hành đoàn, loại này được sử dụng để phá rối hệ thống phòng không SA của Liên Xô, nhưng mãi lo phá rồi hệ thống phòng không để phòng bị các pháo đài B 52, họ không kịp tránh đạn hoả tiễn của Việt Cộng. 5 người chết khi máy bay nổ tung khi lãnh quả hoả tiễn thứ 2, ông Hambleton kịp nhấn nút ghế bung ra sau khi máy bay trúng đạn thứ 1, được giải cứu sau 11 ngày.

Ngày 2 tháng 4 năm 1972, 2 chiếc phi cơ của không lực Hoa Kỳ EB-66 do hai phi công Robert Singletary, BAT 20 và Hambleton BAT 21, hộ tống 3 chiếc B-52 bay thả bom. Hai chiếc EB-66 này có nhiệm vụ phá rối hệ thống phòng không của bắc Việt. Chiếc BAT 21 bị hỏa tiễn SA-2 bắn rơi trên vùng đóng quân của Bắc việt. Ông Hambleton là người sống sót duy nhất trong số 6 người của phi hành đoàn, nhảy dù xuống vùng địch. Sau đó một ông phi công khác, tên Mark Clark đi kiếm ông Hambleton bị bắn hạ và được giải cứu bởi toán biệt nhái người Việt và ông Norris, cố vấn lực lượng đặc biệt. Dạo ấy, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút lui, chỉ còn độ 10 người cố vấn lực lượng đặc biệt mỹ.

Máy bay B 52 bay trên cao còn EB-66 bay thấp hơn để phá rối hệ thống hoả tiễn SA

Ông Hambleton, 53 tuổi sắp về hưu, chuyên gia về chống hoả tiễn SAM, và biết về hệ thống vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ (USAF ICBM). Nếu ông ta bị bắt, dịp may cho Liên Xô. Theo ông này, nếu bị bắt thì chắc chắn sẽ không được đưa đến Hoả Lò mà đưa thẳng sang Liên Xô. Do đó bằng mọi cách không lực Hoa Kỳ phải giải cứu ông này. Để khỏi bị bắn nhầm, họ ra lệnh không được bắn trong chu vi 27 cây số, (No Fire Zone) trong thời gian tìm kiếm hai phi công còn sống sót, chưa bị Việt Cộng bắt làm tù binh; Ông Hambleton và một phi công khác tên Mark Clark, bị bắn rơi khi thi hành nhiệm vụ tìm kiếm ông Hambleton.

Trên nguyên tắc ông này không nên tham dự phi vụ này vì biết nhiều tin tức về quốc phòng Hoa Kỳ nhưng vì thiếu người, dạo ấy quân đội Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam nên ông ta phải tự lái. Xin nhắc lại là sau hiệp định Paris thì Việt Cộng xua quân qua vỹ tuyến 17 để đánh Việt Nam Cộng Hoà.

Đọc tài liệu mới hiểu hệ thống phòng không của Liên Xô trang bị cho bắc Việt khá chính xác nên họ mới bắn rơi rất nhiều phi cơ của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Bù lại Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ khá nhiều chiến xa của Liên Xô nhưng máy bay đắt tiền hơn. Nếu mình không lầm thì Hà Nội cho người sang Iraq để giúp quân đội Sadam Hussein, sử dụng súng phòng không để đối phó với không lực Hoa Kỳ, khi cuộc tấn công của Hoa Kỳ.

Trong cuộc giải cứu thành công hai phi công này, ông Thomas R. Norris của Navy SEAL được nhận huy chương Medal of Honor của Hoa Kỳ và người biệt nhái Nguyễn Văn Kiệt được tặng huy chương Navy Cross, người Việt duy nhất được tặng huy chương này trong chiến tranh Việt Nam. Có nhiều người Mỹ xem phim tài liệu về cuộc giải cứu này, thắc mắc lý do nào ông Nguyễn Văn Kiệt có công ngang như ông Norris, sao không được nhận Medal ờ Honor , có người giải thích là có luật chỉ có quốc tịch mỹ mới được nhận huy chương này. Nếu mình là con cháu của ông Kiệt thì sẽ làm đơn xin, vì ông ta đã đến bờ tự do, vào quốc tịch mỹ năm 1984. Có huy chương này thì con cháu sẽ nhờ đó mà vào các trường lớn và học bổng vì có công lớn cho Hoa Kỳ.

Theo mình được biết thì thiếu tá Phong của đại đội 302 Đàlạt xưa, khi sang định cư tại Hoa Kỳ, có mấy người đồng ngủ mỹ khi xưa ở đại đội 302, làm giấy tờ lại và được cấp lại 3 huy chương của quân lực Hoa Kỳ đã trao tặng trong thời gian chiến tranh Việt Nam.

Thật ra trong cuộc giải cứu hai phi công mỹ, phim diễn lại chỉ có hai người, 1 mỹ và một Việt, không nói đến một toán biệt nhái của Việt Nam, gồm 5 người khác ngoài ông Kiệt, đi cùng toán ông Norris. Chắc để tiết kiệm tiền.

Trong cuộc Việt nam hoá chiến tranh của chính quyền Nixon, các cuộc tham chiến của quân đội Hoa Kỳ giảm rất nhiều tại Việt Nam. Bắc Việt ra lệnh tổng tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, khởi đầu cho chiến dịch Nguyễn Huệ của Hà Nội, Việt Nam Cộng Hoà gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, tràn qua sông Bến Hải, tiến chiếm Đông Hà với 30,000 lực lượng chính quy. Họ đem theo 2 tiểu đoàn thiết vận xa T 54 và PT-76, 75 chiến xa với hoả tiễn phòng không, 47 đại bác 130mm cộng với hoả tiễn SAM.

Khoảng thời gian này, đài Sàigòn phát thanh cứ mở những bài hùng ca như Cờ Bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu,… những địa danh lạ tai như Đông Hà, Cam lộ được người Sàigòn tiếp thu.

Thiếu phi công để tháp tùng các pháo đài B-52 nên ông Hambleton, sĩ quan cao cấp phải bay để phá rối hệ thống phòng không của Bắc Việt khi B-52 bỏ bom đèo Mụ Già. Vì lo phá rối hệ thống phòng không nên máy bay của ông Hambleton, không kịp thấy hoả tiễn SAM, bị SAM bắn hạ. Ông ta ra lệnh mọi người nhấn nút ghế thoát nhưng chỉ có mình ông ta là thoát còn 5 người kia tử nạn trên không.

Cuộc tìm kiếm ông Hambleton bắt đầu và sau 10 ngày thì không quân Hoa Kỳ bị tổn thất rất nhiều nên có một tướng quên tên, hình như Abrams ra lệnh ngưng cuộc giải cứu và một ông tá khác, đề nghị cho lực lượng đặc biệt, theo đường bộ vào khu địch chiếm đóng để giải cứu. 

Dạo ấy lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ đã rút về gần hết, còn độ 10 người cố vấn nên họ liên lạc với quân đội Việt Nam Cộng Hoà, xin giúp sức. Họ gửi 2 người: 1 thiếu tá Andy Anderson, và thiếu uý Tom Norris, Việt Nam Cộng Hoà có 5 người, ông Phong Trần, ông Tất, ông Châu, ông Nguyễn Văn Kiệt và ông Thọ, toán trưởng.

Theo ông Phong Trần, thuộc lực lượng BIệt Nhái của Việt Nam Cộng Hoà, tham gia cuộc tìm kiếm hai phi công mỹ này kể lại:

Mình đoán là hình của ông Phong Trần, tác giả bài viết kể lại sự tham gia của biệt nhái người Việt trong vụ giải cứu ông Hambleton và Clark. Ai có tin tức thì cho mình biết. Cảm ơn

Trưa ngày chủ nhật 8 tháng 4 năm 1972, ông ta đang ngồi ăn uống tại nhà người bạn tại Đà Nẵng thì một xe Jeep chạy đến và cho biết ông và ông Châu được lệnh trình diện bộ chỉ huy gấp. Khi đến bộ chỉ huy thì được biết là ngày mai, có công tác xâm nhập vào vùng địch để giải thoát hai phi công mỹ, bị bắn rơi tại vùng Quảng Trị, sông Cam Lộ. Máy bay Cessna để thả đồ tiếp tế và liên lạc với hai phi công còn sống.

Trưởng toán Thọ cho biết là tránh xa các thùng C-ration vì có gài chất nổ, chỉ có Cessna mới biết thùng nào với ám số để phòng bị khi bộ đội Hà Nội phát hiện. Trước khi đi họ nhận quần áo bộ đội, súng AK-47 để cải trang và lương khô cho 4 ngày…. Theo người Mỹ thuật lại thì họ thả bom bi, xung quanh khu vực ông Hambleton lẫn trốn. 

Ông ta liên lạc với phi cơ Cessna mỗi tiếng đồng hồ. Ông ta núp trong ruộng của người dân, ăn đậu bắp ngô của người dân để sống. Sau 11 ngày, ông ta mất 45 cân Anh.

4 giờ sáng ngày 9-4-1972, lúc 4:30 sáng có hai trực thăng do phi hành đoàn mỹ lái, bay từ đâu đến, để bốc toán Biệt Nhái người Việt , trong số người Mỹ có trung tá Andy Anderson và đại uý Tom Norris cố vấn cho nhóm Biệt Hải. Sau mấy giờ bay, trực thăng đáp xuống bộ chỉ huy tiền phương, 2 người mỹ và đại uý Thọ đi vào bộ chỉ huy, trong khi 4 biệt nhái người Việt ngồi đợi ở ngoài. Có một chuẩn tướng Việt Nam đi ngang cho biết sẽ có một chiếc M113 đến đón họ đưa đến vùng gần phi công mỹ bị bắn rơi. Trực thăng sẽ không được dùng vì phòng không của địch. Ông tướng này được lệnh giúp đỡ cuộc giải cứu nhưng không tin là hai phi công còn sống hay chưa bị bắt. Ông ta nói đang lo cả sư đoàn 3 bộ binh của ông ta, đang bị Việt Cộng đánh trong khi người Mỹ chỉ lo có 2 người của họ. Hình như ông tướng này tên Vũ Văn Giai, ông Phong chỉ nói tương chỉ huy của sư đoàn 3, nhưng người Mỹ nói tướng Vũ Văn Giai.

Không biết là hình ảnh chụp vào lúc ấy hay trong phim, thấy ông đại uý Norris., có biệt nhái người Việt bên cạnh. Chắc là phim vì dạo ấy không có phóng viên chiến trường tại đây.

 Độ 11:30 sáng; có chiếc xe thiết giáp M113 đến, họ cho lên xe tất cả ba lô, súng đạn rồi xe đưa đến điểm hẹn. Đại uý Norris muốn cho toán xuất phát vào 5 giờ chiều trong khi trưởng toán Thọ đề nghị xuất phát vào ban đêm thì tốt hơn. 7:00 tối thì toán gồm 6 người bắt đầu lên đường, di hành mỗi người cách nhau 3 mét. Ông Phong và Tất đi tiền sát, cách 15 thước thì đại uý Thọ, Norris sau đó thì đến Châu và Kiệt đi sau hậu vệ. Xem như toán chỉ có 6 người. Ông Anderson ở lại để liên lạc với máy bay Cessna và toán.

Họ lần mò đến Miếu Giang, độ 12:30 sáng thì toán đã đến mục tiêu và đợi. Được cho biết là tối nay sẽ có một trong 2 phi công sẽ thả trôi theo sông, khoảng từ 12 đêm đến 3:00 sáng. Việt Cộng nghe truyền tin của người Mỹ nên họ phải dùng ngôn ngữ để báo tin cho hai phi công bị bắn rơi. Như Shake (con rắn) là con sông, Esther Williams Go to Boston (đi về Boston là đi về hướng Đông) giúp phi công hiểu là bơi theo con sông về hướng Đông. Esther Williams là một nữ vận động viên bơi lội nổi tiếng Hoa Kỳ khi xưa, sau này có đóng phim đình đám. Các người truyền tin của Hà Nội, chắc không hiểu khi nghe họ dùng những nhân vật tại Hoa Kỳ nếu không thì họ đã cho người lục soát ven sông.

Bổng họ thấy giữa dòng sông có một chấm đen trôi nhanh đến chỗ họ núp, nghe cả tiếng thở. Ông cho Tất báo cho trưởng toán Thọ và ít lâu sau, ông Norris đeo chân nhái, bơi theo, độ 20 phút sau thì ông ta trở lại. Có lẽ dòng nước mạnh nên ông ta không bơi theo vật nổi kia nên quay lại. Lúc này ông Norris và ông Anderson nói chuyện qua điện đàm về sự việc này, trưởng toán Thọ ra lệnh rút lui.

Bổng nhiên họ thấy cách đó 8-10 thước có thân cây và mặt nước dao động nên theo dõi độ 10 phút sau đó ông Phong bò lại để xem xét tình hình thì nghe tiếng “no, no’ bằng anh ngữ. Ông thấy phi công mỹ đang ôm gốc cây và trông thấy hai người bận đồ bộ đội nên chới với. Ông ngồi đợi vì không biết anh ngữ, lại sợ ông mỹ rút súng ra bắn thì lại mệt, báo động cho bộ đội trong vùng và cho Tất về báo cho trưởng toán Thọ. Sau đó thì ông Norris và trưởng toán Thọ đến, ông ta chỉ vào bụi cây, ông Norris đi lại phía bụi cây, ông phi công và ông Norris ôm lấy nhau mừng rỡ. Sau 10 ngày bị truy lùng, ông này mừng như điên. 

7:00 sáng thì họ đưa ông phi công mỹ này đến vùng lính Việt Nam Cộng Hoà đóng, cho uống cà phê,… 10 giờ sáng thì M113 đến đón ông ta về hậu cứ. Mọi người kiếm thức ăn rồi ngủ để chuẩn bị cho đêm hôm sau đi tìm tiếp viên phi công mất tích còn lại.

Bổng nhiên Việt Cộng pháo kích thì họ thấy trung tá Anderson và đại uý Thọ từ ngoài chạy vào hầm, bị thương. Sau đó thì M113 đến chở hai người này và Châu về đơn vị. Theo các lính bộ binh cho hay, hồi chiều, thấy 2 người đứng trước hầm, xem ống nhòm, có thể đề-lô của Việt Cộng thấy nên pháo kích. Xem như toán mất đi 3 người, chỉ còn lại 4 người. Ông Phong, ông Tất, ông Kiệt và ông Norris.

Đại uý Norris thay thế đại uý Thọ làm trưởng toán khiến mấy người Việt lo ngại vì không biết tiếng anh, trong đêm khuya, không hiểu nhau, có thể bị lộn xộn khi di chuyển khiến ông Norris hiểu lầm, cho rằng họ không muốn đi giải cứu viên phi công mỹ còn lại. 4 người lên đường và theo lời Kiệt, ông Norris nói là phi công kia kiệt sức sau 11 ngày nên chắc họ phải đi lên phía trên chỗ hôm qua để tìm kiếm. Mình đoán là ông Kiệt hiểu anh ngữ hơn.

Họ đi lại con đường hôm qua nhưng cách xa độ 50 mét vì ngại địch quân theo dõi hôm qua, và gài mìn. Theo lời Kiệt thì ông Norris bảo tối này ông Hambleton sẽ thả trôi theo dòng nước như ông Clark hôm qua. Họ đến điểm đợi và chú ý hơn hôm qua.

Ngồi đợi, đến 4 giờ sáng không thấy gì cả nên đại uý Norris bảo qua lời của Kiệt, ông Phong và ông Tất trở về tiền đồn đợi lệnh, còn ông ta và Kiệt, đi tìm ghe để chèo ngược dòng sông lên tìm kiếm ông Hambleton.

Ông Phong và ông Tất về đến tiền đồn bộ binh vào lúc 7 giờ sáng. Ngày hôm sau, 13/4/72, độ 9 giờ sáng, thấy Kiệt đi vào hầm, kêu xuống đỡ ông Hambleton vào vì bị thương và kiệt sức. Ông Norris và Kiệt, kiếm được ghe, chèo ngược lên dòng Miếu Giang, cuối cùng tìm được ông Hambleton và đem về như kể trong phim. Nếu mình không lầm thì ông Hambleton bị thương, yếu lã người nên không di chuyển được, khiến hai người đi cứu phải dấu thuyền rồi đi tìm ông ta, đưa đến ghe, hình như có cộng quân đuổi theo bắn.

Theo mình hiểu thì ông Hambleton được hướng dẫn thoát khỏi sự truy lùng của cộng quân bằng cách đi theo lộ trình đánh cù trên sân Golf, được hướng dẫn qua vô tuyến. Ông này có chơi đánh cù nên hiểu được cách đi lòng vòng 18 lỗ sân golf tại quê nhà của  ông. Để tránh truyền tin của hắn nghe và biết địa điểm của ông Hambleton, họ hỏi ông này thích môn thể thao nào, ông này nói đánh cù và từ đó họ liên lạc với nhau qua ngôn ngữ chơi cù. Nhờ vậy ông ta mới thoát vòng vây của Việt Cộng.

Có điều mình không rõ là người Mỹ nêu tên Kiệt, người đi chung với ông Norris trong khi ông Phong kể, chỉ viết đến K. Không biết có phải ông Kiệt còn sống tại Việt Nam lúc ông này viết, để tránh Việt Cộng tìm kiếm ông Kiệt hay vì một lý do nào đó. Theo bài mình đọc trên trang của Nha Kỹ Thuật thì ông Phong Trần viết đăng ngày 23 tháng 6 năm 2009.  Mình lại đọc trên mạng của người Mỹ thì ông Kiệt đã đến Hoa Kỳ, vào dân mỹ năm 1984.

Đâu 1 tháng sau cuộc giải cứu này, ông Phong và toán của ông ta, trên 30 người được gửi sang Phi luật Tân, tại Subic Bay để được huấn luyện thêm mấy tháng.

Theo lời ông Phong kể khi xưa, lúc ông ta được lệnh đi giải cứu hai phi công Hoa Kỳ, chỉ đi vì nhiệm vụ được giao. Chỉ khi sang Hoa Kỳ sau bao nhiêu năm ở tù cộng sản, xem được phim Bat-21, nên kể lại những gì ông ta và người Việt chứng kiến trong vụ đi giải cứu phi công, như một chứng nhân của cuộc giải cứu tốn kiếm nhất của không lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Thường thì đại uý Thọ dẫn đường, biết anh ngữ, khi ông ta bị thương thì ông mỹ Norris làm trưởng toán nên lo ngại vì anh ngữ chớ không phải vì lo ngại mà không muốn đi tiếp cứu.

Khi Hoa Kỳ cấm không được yểm trở pháo binh cũng như không kích trong vòng 27 cây số, thì xe tăng của địch di chuyển thoải mái, và họ pháo kích các tiền đồn, cũng các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà trong vòng 2 tuần lễ mà chúng ta không được trả đũa, khiến lính Việt Nam Cộng Hoà bị thương và chết khá nhiều để cứu hai người Mỹ. Người Mỹ chỉ quan tâm đến sinh mạng của lính họ, không để ý đến sự tổn thất của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Làm phim họ nêu cao tinh thần của đại uý Norris, còn 7 người lính biệt nhái Việt Nam Cộng Hoà, không được nhắc đến ngoài trừ Kiệt, xem như tên chèo đò.

Ông ta chỉ viết để cho người Việt biết về cuộc giải cứu đó thành công, nhờ sự hy sinh của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Mình đọc trên mạng là ông Nguyễn Văn Kiệt này được vào công dân mỹ năm 1984. Làm cho Boeing ở Seattle, và về hưu năm 2015.

Theo trung tá Hambleton kể lại thì khi ông Norris và Kiệt đưa ông ta lên xuồng, chèo về phía Việt Nam Cộng Hoà đóng quân thì ông cho biết Kiệt có đôi mắt nhậy bén nhất. Ông Kiệt ra lệnh ngưng vì thấy súng ông của Việt Cộng núp bên sông chờ đợi. Ông Norris mới cho máy bay mỹ thả bom và đạn khói để  che phủ cả vùng để họ chèo xuồng trốn về về phía Việt Nam Cộng Hoà. Không có ông Kiệt hôm đó thì cũng chết hết.

Cuộc giải cứu ông Hambleton, đã làm thiệt mạng 11 người mỹ khác, vài người Mỹ bị bắt làm tù binh, 1 người Mỹ bị thương ông Anderson và 1 người Việt là đại uý Thọ và Hoa Kỳ mất thêm 5 phi cơ khác trong cuộc giải cứu 1 phi công Hoa Kỳ. Còn lính Việt Nam Cộng Hoà bị hỏa lực Việt Cộng pháo kích chết vô số nhưng không được nhắc đến. Cho thấy người Mỹ bằng mọi cách để giải cứu người của họ, khi ra trận người Mỹ đều tin tưởng là nếu có vấn đề, họ biết là cấp chỉ huy sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.

Hiện đang có một chương trình truyền hình Hawai 5-0 đang được yêu chuộng tại Hoa Kỳ, các diên viên gốc á châu tuyên bố ngừng đóng phim vì họ được trả lương thấp hơn các diễn viên da trắng. Có một anh diễn Gốc Việt, lên truyền hình kêu không muốn xem phim chiến tranh về Việt Nam. Lý do là cứ thấy cả đám người việt nằm chết la liệt, rồi chiếu mặt Tom Cruise buồn rầu.

Mình sẽ dịch ra anh ngữ để các cựu chiến binh mỹ tại Việt Nam đọc để hiểu thêm về người lính Việt Nam Cộng Hoà.

Xem link kể về vụ giải cứu này của người Mỹ

https://youtu.be/VehjTmZDUHA

Nguyễn Hoàng Sơn 


Nguyễn văn Bé là ai?

 Mình nhớ dạo trước Mậu Thân, ban ngày nhất là cuối tuần, thường hay thấy máy bay bà già bay trên trời, từ phi trường Cam Ly qua xóm mình để rãi truyền đơn, kêu gọi Việt Cộng nằm vùng ra hồi chánh trong chương trình Chiêu Hồi, Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Nếu mình không lầm thì danh ca Bùi Thiện, trong một lần đi biểu diễn tại Lào thì phải, đã đào thoát, được Việt Nam Cộng Hoà đem về Sàigòn. Sau này ông ta hát chung với Sơn Ca, sau 75 thì di tản sang Hoa Kỳ.

Mỗi lần nghe máy bay bà già thả truyền đơn, con nít trong xóm, từ đường Thi Sách, xóm Địa Dư, xóm Công Chánh, xóm Bưu Điện, chạy đi lượm truyền đơn. Thường là rớt trong vườn cạnh nhà ông Ngọc số 49 Hai Bà Trưng. Mình với mấy đứa trong xóm chạy vào vườn, bị ông này cầm cuốc xẻng chạy đuổi vì dẫm lên mấy luống rau của ông ta. Mình và thằng Khánh có ăn cắp buồng chuối của gia đình ông ta, bị bà vợ chửi cả tháng trời, phải đem trả lại vì chuối dú trong lu gạo không chín. Trả lại bị chửi tiếp.

Dạo ấy đài phát thanh Sàigòn, cứ mỗi tiếng lại có ông thần nào tên Nguyễn Văn Bé, kêu ông ta còn sống mà Việt Cộng lại kêu ông ta đã chết, phong làm anh hùng nhân dân chi đó. Lý do mình nhớ vì ông này mỗi ngày cứ lãi nhãi kêu ông ta còn sống. Ngoài những truyền đơn, người ta có in mấy cuốn truyện nhỏ kể về mấy ông lính, anh hùng diệt cộng nào đó, do ai đó ở sở thông tin đi từng nhà phát. Mình tập đọc tiếng Việt nhờ đọc mấy truyền đơn, truyện kể anh hùng biệt Động Quân nào đó. Hình như cũng có máy bay bà già bay trên trời, với máy phóng thanh, cũng cho mở giọng ông Nguyễn Văn Bé này, nói oang oang. Lâu quá mình không nhớ rõ. Ai nhớ thì cho em xin.

Mình chỉ nhớ có lần, một ông lính nào, tự tử bằng lựu đạn, chết ngay cột đèn trước nhà ông Kham, chỗ dốc lên đường Thi Sách và Calmette. Sáng vừa thức dậy thì nghe cái ầm, thiên hạ réo nhau chạy xuống đường, thấy có ông lính, đầu bị bay đi một nữa, nằm giữa đường Hai Bà Trưng. Từ đó mỗi lần đi về nhà, ban đêm là mình sợ té đái, khi đi ngang cột đèn. Con nít hay lấy ná bắn bể bóng đền đường nên khu này lại càng tối. Cũng mất mấy năm mới quên cái đầu bị bay của ông lính, tự tử vì tình phụ. Chán Mớ Đời 

Sau này lớn lên một chút thì mới biết vụ ông Nguyễn Văn Bé, theo Việt Cộng rồi hồi chánh nhưng Việt Cộng lại ca tụng ông ta là anh hùng nhân dân, một mình đặt trái mìn phá chiến xa khiến mấy trăm tên giặc mỹ ngụy chết. Mình thuộc dạng ngu lâu dốt sớm nên không hiểu, tại sao một người cho nổ trái mìn chết mấy trăm mạng mà cứ lãi nhãi “tôi là Nguyễn văn Bé, hiện còn sống đây,…” Chán Mớ Đời 

Các anh hùng liệt sĩ được Việt Cộng tung hô như Lê Văn tám,…khiến mình thất kinh vì thấy tinh thần hy sinh của mấy người này quá cao. Về Việt Nam thấy trường học, đường mang tên Lê Văn Tám nên tò mò hỏi lý lịch mấy người này nhưng chả ai giải thích được cả. Sau này lại đọc bài ngay của ông thần tạo ra huyền thoại Lê Văn tám, kêu cần phải nói rõ cho nhân dân là chúng ta đã bựa ra trong thời chống pháp để động viên tinh thần kháng chiến diệt người Pháp.

Cái nguy hiểm của người Việt mình là cái bệnh nổ, tạm gọi là hội chứng Phù Đổng. Trong thời kỳ chiến tranh, chúng ta cứ bựa chuyện để huy động tinh thần chiến đấu của bộ đội nên đến thời bình, chúng ta cũng bựa đủ thứ chuyện nhưng chả làm được gì cả. Vì quen được huấn luyện tinh thần Phù Đổng trong thời chiến tranh từ bé, nên chúng ta cứ nổ mệt thở cả đời sau này. Rồi thêm cái bệnh tự hào quá Việt Nam ơi.

Trong chiến tranh Việt Nam, người ta tận dụng chiến tranh tình báo, ngoài ra người ta cũng sử dụng chiến tranh tâm lý để tuyên truyền, làm lũng đoạn tinh thần chiến đấu của binh sĩ đối phương.

Mình đọc bài của mấy người bộ đội hay văn nghệ sĩ vào nam trong thời chiến tranh. Họ kể là khi nghe đài Sàigòn, truyền thanh nhạc Trịnh Công Sơn hay các nhạc sĩ khác của miền nam thì họ đều tự hỏi, làm sao dân miền nam bị kềm kẹp bởi bọn đế quốc Mỹ, có thể làm được những ca khúc này. Họ được định hướng sáng tác các bản nhạc, để nuôi căm thù. Có lẻ như vậy họ mới là kẻ thắng cuộc trên chiến trường nhưng về tư duy thì họ thất bại. Ngày nay, ngay cả nhạc sĩ Trần Tiến cũng kêu gọi quên đi các bản nhạc đỏ. Ai nấy đều nghe nhạc vàng của miền nam. Có ông gì nghe nhạc vàng bị đi tù 10 năm, bạn bè ông ta có người chết, kể sau khi mãn tù, về Hà Nội thì nghe nhạc vàng hát khắp nơi. 

Tương tự khi xưa quân NGuyên chiếm đóng xứ Trung Hoa nhưng dần dần kẻ thắng cuộc lại bị nền văn hoá của kẻ thua cuộc thu phục họ. Họ thắng người Tàu về sức mạnh, quân sự nhưng về văn hoá thì họ đầu hàng vô điều kiện.

Hình vẽ tuyên truyền về sự hy sinh của anh hùng Nguyễn Văn Bé, một mình đặt mìn phá nát xe tăng giết trên một trăm tên lính mỹ.

Ông thần Nguyễn Văn Bé được đài Sàigòn thu âm rồi cứ phát thanh trên đài phát thanh mỗi ngày như quảng cáo ngày nay. Chán Mớ Đời 

Mình còn nhớ giọng Nam của ông này: “Kính thưa đồng bào cả nước, tôi là Nguyễn Văn Bé,….”. Tuổi thơ mình chỉ nhớ giọng ông Nguyễn Văn Bé này và quảng cáo kem Hynos, anh yêu kem , yêu luôn em, yêu luôn anh bảy chà da đen…. Ông này sinh tại Kiến Tường, mình chả biết là ở nơi nào, nhưng cùng quê với điệp viên X 92 của Việt Nam Cộng Hoà, cứ xem là quê hương đầy Việt Cộng.

Đi xi-nê có phần chiếu phim thời sự, cũng có màn chiếu chương trình chiêu hồi, các cán binh Việt Cộng trở về với chính nghĩa quốc gia, vối bản nhạc “tung cánh chim về miền tổ ấm,…”. Nghe nói có mấy ông lớn tham nhũng, thổi phồng số người hồi chánh để bỏ túi tiền, ngoài ra Việt Cộng lại cho người họ về đầu thú, để làm điệp báo trong thành nên cũng mệt.

Lâu lắm rồi mình có vào trang nhà của cựu lính mỹ tại Việt Nam, đọc về chiến tranh tâm lý thì khám phá ra chính người Mỹ đã thực hiện chương trình này. Mình có thấy họ tải trên mạng họ những truyền đơn,… mình có trả lời là có nhớ đến ông Nguyễn VĂn Bé này. Mấy tên mỹ có hỏi lại vài thứ nhưng lâu quá không nhớ trang nhà của họ.

Hình chụp gia đình ông Nguyễn Văn Bé đoàn tụ, không biết sau 75, cuộc đời ông ta về đâu. Ai biết cho em xin.

Họ có nói đến chiến tranh tâm lý, sử dụng một hòn đảo nào ngoài Đà Nẵng, để thành lập một chiến khu gọi là MẶT TRẬN GƯƠM THIÊNG ÁI QUỐC. Hồi nhỏ mình hay ghé sang nhà hàng xóm, có chị Gái, hơn mình đâu 5, 6 tuổi, ngồi học nghe đài Mẹ Việt Nam, và Gươm Thiêng Ái Quốc. Dạo ấy mình lại nghe lầm Hương Thiêng Ái Quốc. Cứ nghe cô phát ngôn viên kêu “ sinh Bắc tử nam với bản nhạc truy điệu, rùng mình. Mình nghe nói có đến trên 200,000 cán binh Việt Cộng hồi chánh, chứng tỏ chương trình này hữu hiệu. Chỉ tội là sau khi mỹ rút quân thì hết tiền, chương trình này được bỏ. Để mình sẽ kể rõ hơn trong một bài về mặt trận này.

Việt Cộng phát hành tem liệt sĩ Nguyễn Văn Bé khi ông ta còn sống nhăn răng, đoàn tụ với gia đình.

Cho thấy chúng ta khác với loại thú là biết tưởng tượng, tạo ra những câu chuyện, chỉ khác một điều là chúng ta phải nghe ai. Bên nào cũng tạo ra những hình ảnh để giúp mình chiến thắng. Đâu là sự thật?

Cù Lao hòn, nơi mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc, sử dụng làm căn cứ

Về già bổng nhiên lại nhớ đến mấy chuyện khi xưa. Có bác nào nhớ gì khác ở Đàlạt hay không. Để em viết về Mặt Trận Gươm Thiên Ái Quốc vì nhớ chị hàng xóm, nay ở cali, ngồi học bài mà nghe nhạc và đài này.

Có bài thơ tìm trong túi áo của một bộ đội miền Bắc, sinh Bắc tử nam, khá cảm động, xin ghi lại đây:” Bài thơ sau đây được nhặt từ túi áo một chiến binh miền Bắc tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969. Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương. Bài thơ được đăng trên báo chí VNCH thời đó. Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại.”

Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào, rồi dấn bước vào Trung
Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ
Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy
Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh
Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con nhợt nhớ quê mình
Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!
Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương
Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào
Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng
Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ
Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?
Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ
Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca
Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật
Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng
Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà
Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ
Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ
Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.”

Trên mạng 

Nguyễn Hoàng Sơn