Showing posts with label Đàlạt. Show all posts
Showing posts with label Đàlạt. Show all posts

Phố người Việt đầu tiên tại Đà Lạt

 Từ khi bắt đầu xem hình ảnh Đà Lạt xưa, có một khu vực, mình không thể hình dung được. Cứ thắc mắc hoài, không hiểu tại sao lại biến mất. Xem phong cảnh xung quanh thì biết nằm ngay hồ Xuân Hương ngày nay. Tò mò, mình tìm tài liệu đọc thì mới được khám phá là khu phố người Việt mà tây gọi là khu thổ dân (indigènes) này bị trận bão lụt ngày 4 tháng 5 năm 1932, đã cuốn trôi đi. Sau đó, chính quyền thực dân đã dời khu dân cư người Việt lên khu Hoà Bình ngày nay. Mặc dù khu này cũng như các khu đồi ở Đà Lạt, đều được dành cho người Pháp hay âu châu. Mình sẽ tải hình dưới đây để giải thích.

Có anh bạn cho biết là gia đình ông ngoại anh ta là 1 trong 100 gia đình đầu tiên được người Pháp cho đến lập nghiệp tại Đà Lạt. Nhờ ông ngoại đi lính cho Tây, sang đánh giặc ở trời Âu, sống sót trở về nên được thưởng công. Cho lên Đà Lạt lập nghiệp. Mình đoán là gia đình của anh ta lập cư tại khu vực này trước khi dọn về đường Hai Bà Trưng. Khu vực đường Phan Đình Phùng, trước kia được gọi đường Cầu Quẹo, vì có chiếc cầu ngay cây xăng Ngã Ba Chùa, chỗ lên ấp Mỹ Lộc, có một chiếc cầu, có ống cống xi măng, gần nhà Nguyễn Đắc Hớn, bán phân cá.


Hình trên, theo mình đoán là được chụp từ khách sạn LangBian. Nhìn xuống khu phố người Việt mà ta thấy thấp thoáng cái dốc Ấp Ánh Sáng và đường Thành Thái sau này. Thấy chiếc xe hơi chạy trên con đường, sau này là Trần Quốc Toản, về đường Phạm Ngũ Lão, lên dốc nhà Thờ Con Gà.

This photograph was taken from the Palace Hotel. You can see the first Vietnamese quarter. You can see the street Thanh Thai. You can see a vehicle on the street Tran Quoc Toan toward the Main Church and Pham Ngu Lao street

Nhìn góc độ khác ta thấy chiếc cầu gỗ, bắc ngang con suối Cam Ly chảy khu vực Ấp Ánh sáng sau này. Con đường nhỏ này sẽ dẫn đến cái dốc nhỏ từ Ấp Ánh Sáng lên đường Thành Thái, chỗ góc xi-nê Ngọc Lan sau này.

A closer image showing the wooden bridge, I used to see several like this one in Đà Lạt.the Cam ly river (spring) running through the first Vietnamese quarter

Đây là bản đồ của thành phố Đà Lạt, lúc khởi đầu. Có hai hồ nước. Hồ lớn (Grand lac) và hồ nhỏ (Petit Lac). Hồ lớn để cho người Pháp sử dụng, to lớn, còn hồ nhỏ để giữ nước cho người Việt dùng. Đến khi cái đê của hồ lớn bị vỡ và ngày 4 tháng 5 năm 1932 thì ngập lụt hết khu vực người Việt. Có một đoạn, suối Cam Ly rộng ra, Ấp Ánh Sáng sau này. Cái đê, đập đầu tiên bị vỡ nên họ cho xây Cầu Ông Đạo nơi cái đập thứ nhì. Lúc này thì Thuỷ Tạ chưa được xây, chỉ khi cái đê đầu tiên bị phá mới được thực hiện. 
Khu phố Việt, là dãy nhà được tô màu đỏ, có chợ.
This is an old map showing the Vietnamese quarter near the Grand Lake and Small Lake. The Grand Lake was reserved for French people, Small Lake was for Vietnamese people. When the flood (May 4, 1932) broke the dam, destroyed the Vietnamese area, killed 15 people. Then the French moved the Vietnamese quarter to the Peace area nowadays. The market was painted in red.
Thấy dân xưa, không có guốc mà mang. Bận áo dài thì đoán là người gốc Huế và người Thượng, đeo gù
Old Vietnamese didn’t wear the sandals, wearing the Áo Dai, i think people from Hue and mountaineers carrying their backpack.
Đây khu chợ người Việt, thấy xa xa cái dốc, có thể đó là dốc Lê Đại Hành sau này
The first Vietnamese quarter, you can see the future Le Dai Hanh street

Hình bản đồ này cho thấy rõ hồ lớn, dành cho người Pháp sử dụng còn hồ nhỏ thì mùa khô cạn nước, nhưng mùa mưa thì để hứng nước. Có con đê-đập, chạy từ Thuỷ Tạ (được xây sau này), chạy từ khách sạn LangBian qua bùng binh Đinh Tiên hoàng và Võ Tánh.
Map showing the grand lake, reserved to the French people. You can see the dam, street from LangBian hotel through Đình Tien Hoang Street. THe grenouillere has not been built yet. (Floating restaurant)
Hình chụp cái đê- đập chạy từ khách sạn LangBian qua bùng binh Điên Tiên Hoàng và Võ Tánh. Xa xa trên đồi cao là dinh tỉnh trưởng. Hình con đê và đập từ khách sạn LangBian chạy qua. Chỗ chiếc xe bò, sau này là cây xăng Esso
Picture showing the dam from LangBian hotel to Dien Tien Hoang St and Vo Tanh. You can see the mayor palace on the hill. The location where the the chariot , later was built a gas station Esson
Chụp từ ty Bưu Điện. Hồ nhỏ này mình đoán là hồ dữ trữ, hứng nước mưa từ trên đồi (nhà thờ Con Gà hay Nazareth  chảy xuống. Nhìn kỹ bản vẽ trên sẽ thấy một hồ nhở dài tô bằng màu xanh lơ. Người Pháp gọi Petit Lac, hồ nhỏ.
Picture taken from the Post Office, in front of the main Church

Hình này, chụp cận cảnh, nhìn từ nhà bưu điện, trước mặt nhà thờ Con Gà, nhìn xuống. Ta thấy chiếc cầu khác, bắt ngang con suối Cam Ly. Đặc biệt khi qua chiếc cầu, thấy một dãy phố người Tàu bên tay phải. Sau này mình tìm được mấy tấm ảnh sau đây. Hồ do nước mưa chảy từ nhà thờ Con Gà xuống đọng lại vào mùa mưa. Phía dưới cầu là con suối Cam Ly chảy từ hồ lớn xuống thác Cam Ly.
A close look of the previous picture showing  the wooden bridge, a mini truck running a longthe Cam Ly river. I guess the small lake where it stored the rainwater come down form the hills (church)

Bản đồ cho thấy hạ lưu của suối Cam Ly là khu người Việt, thấy dinh tỉnh trưởng. Con suối từ Đa Thiện, Thung Lũng Tình Yêu, chảy về, nhập với Suối Cam Ly chỗ Abattoir, chảy về Thác Cam LY.
Map showing the Cam Ly river and another river, spring from Love valley, connecting then go to Cam ly falls.
Hình chụp từ đồi khách sạn LangBian, thấy khu nông nghiệp của người Việt, xa xa trên đồi là dinh tỉnh trưởng 
Picture taken from LangBian hotel showing the old Vietnamese quarter that has been destroyed by the flood. Your an see faraway the Mayor Palace
Hình chụp chiếc cầu bắc ngang con suối Cam Ly, bên trái là khu người Việt ở. Trên đồi phía trái là dinh tỉnh trưởng. Chỗ sau này được thay thế bởi cầu Ông Đạo. Chúng ta có thấy chút chút con dốc Lê Đại Hành và căn nhà cua rông Quản Đạo do triều đình Nguyễn cử vào đây để quản lý các người Việt.
Picture take where the latest dam has been built after the flood 5/4/1932 that Dalatois called Ông Dao Bridge
Sơn đen dạo chơi ngày xưa với ngựa. Dãy phố người Việt phía dưới sau này bị phá bỏ sau trận lụt làm thiệt mạng 15 người Việt.
Myself long time ago :)

Tương tự chụp tại khách sạn LangBian. Thấy phu người Việt đang làm việc. Bên phải là con đê-đập chạy từ bên hồ này sang hồ kia, chạy lên Võ Tánh và Đinh Tiên Hoàng. Sau này được phá bỏ để nhập hồ Lớn và hồ nhỏ lại, đỡ tốn tiền xây hai cái đập.
Same location, taken from LangBian hotel
Hình này cho thấy tổng thể khu người Việt sinh sống, sau bị phá huỷ bởi trận bão lụt 4/5/1932

Taken from LangBIan Hotel, you can see the old Vietnamese quarter before th flood.
Thấy hai chiếc cầu bắc ngang suối Cam Ly, nàh cửa người Việt đông đúc tại đây, sau trận bão lụt, được dời lên khu Hoà BÌnh. Chỗ này được lấp nước thành hồ Xuân Hương sau này.
Bản vẽ thiết kế đô thị Đà Lạt lúc đầu, cho thấy khu Hoà Bình, được dành cho người Pháp. Khu vực Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng sau này, nằm thấp nên họ dành cho người Việt (quartier annamite). Sau khi vực người Việt bị trận lụt phá hủ , người Pháp mới dời chợ khu phố người Việt lên trên Khu Hoà Bình sau này.
This map showing the the areas reserved to Vietnamese (quarter Annamite), usually flat. Peace are, was previously reserved for French people, you can see the mayor palace has been built in that area. Due to the flood, French People had to move the Vietnamese to that area.

Một tấm ảnh khác, giúp mình giải mả được những thắc mắc về khu người Việt cũ xưa.
One of the picture helped me to discover what happened to that area.
Điêu tàn sau trận bão lụt 4/5/1932, bị bỏ phế. Chỗ chiếc cầu, được xây lại cầu Ông Đạo
After the flood, houses abandoned.
Khu phố cũ bị ngập lụt, được người Pháp phá bỏ. Flooded zone
Chỗ này là chiếc cầu của người Việt sử dụng. Sau trận lụt thiên người Pháp phá bỏ cái đê chỗ Thuỷ Tạ, để xây cái đập lớn và cầu Ông Đạo tại đây.
This is the bridge where they would build the latest dam and road which called Ong Dao bridge later 
Hình này cho thấy họ xây nhà hai tầng bằng gỗ, tầng trệt để buôn bán còn tầng trên để ngủ. Phía sau là bếp. Có mấy tấm gỗ để đóng cửa tiệm mà mình hay thấy khi xưa tại Đà Lạt trước khi các cửa sắt ra đời.
Chinese stores have been built there. First floor for store and living area upstairs

Cửa tiệm bán tạp hoá, nồi chảo, thấy vui, mấy cây chổi được gắn nào là chổi chà, chổi lông gà,…

Hình này cho tấy mấy tấm gỗ dùng để đóng cửa tiệm mà mình  hay thấy khi xưa ở các cửa tiệm tại Đà Lạt.

You can see the wooden shutters used to close the stores in the evening. I saw a lot of those when i was kid until they made the iron shutters.

Hình này chú thích Lò Gạch nên mình đoán là trong Hoàng Diệu. Khi xưa, Đà Lạt hay bị lụt chỗ abatoir vì sau chỗ này là đường Hoàng Diệu mà người Đà Lạt xưa hay gọi khu Lò Gạch nơi có cái lò gạch để làm gạch cho việc xây cất các nhà cửa Đà Lạt.
Flood showing the area called LO Gach, Hoang Diệu street later. Where they have a brick oven to make bricks.

Hình này, mình thấy đâu không nhớ nhưng đề ngày 4 tháng 5 năm 1932. Cái đê chắn hồ lớn bị vỡ nên ngập hết khu người Việt ở. Mình đoán là chụp từ trên đường Trương Vĩnh Ký. Thấy nhà ông Quản Đạo bên tay trái. Nhờ tấm ảnh này mới giải mả được những thắc mắc của mình trước đây về khu phố người Việt đầu tiên tại Đà Lạt.

Ai có nhận xét gì mà thấy em sai thì cho em biết. Em mò mò để tìm lại dấu chân của thế hệ trước mình đi. Nên khó mà chính xác.

Nguyễn Hoàng Sơn 



Nhà tôi, con dốc nhỏ

 Hôm trước, viết về những con hẻm Đà Lạt xưa, bổng nhớ đến bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, nhà ở gần xóm mình trên đường Calmette. Bài hát mang tên “tình tôi, con dốc nhỏ”. Anh ta nói về những con dốc nhỏ của Đà Lạt, những con đường rất ngắn, bụi đỏ. Anh ta lồng 1 cuộc tình vào đó. Anh ta nói đến những con dốc nhỏ của Đà Lạt xưa kia như Dốc Nhà Làng, Dốc Nhà Bò,… nhưng mình lại hình dung đến con dốc nối liền ba con đường của Đà Lạt. Tạm gọi “Dốc nhà Sơn Đen” cho dễ nhớ. 

Mình có tấm ảnh này nhưng không rõ lắm. Đà Lạt xưa chắc đã dùng phần mềm để làm cho rõ lại nên đưa lên đây, để mấy người hàng xóm xưa, có đọc thì nhận ra nhà họ. Thấy rõ cột điện mà mình sẽ nhắc phần dưới và nhà mình. 

Có người kêu mình sao không viết về con hẻm từ trường Đa Nghĩa băng qua Phan đình Phùng. Chỗ hãng cưa Xu Tiếng và ga-ra Phan Xứng. Chỗ này mình hay đến thăm thầy Hồ Thanh Tâm.  Không thấy anh nhắc hẻm Cơ đốc Phục lâm trên đường PĐP, và con hẻm gần đó băng qua suối tới trường Đa Nghĩa trên đường HBT.  Có đường hẻm đi từ cổng trường Bồ đề, đi ngang Lữ quán Thanh niên, lên tới cổng Dinh Tỉnh trưởng nữa. Mình chỉ viết về những con hẻm khi xưa thường đi qua. Mấy bác nào nhớ hẻm khác thì cứ ghi vào đây, em sẽ bổ túc.

Đây hẻm từ garage Phan Xứng, đường Phan Đình Phùng qua đường Hai bà Trưng. Mình mới kể hôm trước .

Từ nhà anh ta, phải đi qua con dốc nhỏ này hàng ngày đi học, hay ra phố. Bố anh ta làm gì ở nhà thờ Tin Lành trên đường Hàm Nghi. Mình có chơi nhưng không thân lắm với em trai của anh ta, tên Nguyễn Đức Vinh, trong xóm hay gọi Vinh Kennedy, học trên mình một lớp ở trường Trần Hưng Đạo.

Con dốc này đã để lại cho mình rất nhiều kỷ niệm, của tuổi thơ và tuổi dậy thì. Khởi đầu từ đường Hai Bà Trưng, nằm giữa nhà ông Hiển số 43B Hai Bà Trưng, nay là gia đình ông Châu ở và số 45A của nhà ông Quán. Chỗ này lúc đầu chỉ có mấy thang cấp do ty công chánh làm để cho công chức ở trên đi lên xuống dốc. Dần dần, thiên hạ chạy xe gắn máy, xe đạp, lấn vào khúc đất của nhà ông Hiển, biến thành một con dốc nhỏ để xe gắn máy, xe đạp chạy, khỏi phải dắt xe lên thang cấp. Nay thì họ làm rộng thêm con đường mòn này để xe hơi có thể chạy xuống từ đường Thi Sách.

 Đi lên đường Thi Sách, sau nhà ông Q là cái ga-ra để chiếc xe Peugeot 203 của ông. Sau này, ông ta đánh bài thua, bán mất. Đối diện cũng có một cái ga-ra khác, của nhà ông Hiển. Hình như sau này, ông cụ mình với ông Q có choảng nhau vì ông ta lấn đất vào sân nhà mình, từ ga-ra của ông ta. Ông ta rào xung quanh ga-ra không có xe, cách vách độ 2 mét và chiếm luôn dàn xu của nhà mình. Hai căn nhà đầu của cái dốc, trấn yểm nhà mình vì cãi nhau với ông cụ mình.

Sau đó là nhà mình, đối diện là nhà bà Phú, sau này dọn qua Phan Đình PHùng, cạnh nhà thuốc Tây Lâm Viên. Gia đình bà R, em ông Phú hay bà Phú dọn đến. Ông Tước muốn xin dọn vào nhà này nhưng bà R xin trước. Gần đây, mình liên lạc lại được với Chị Mẫn, con gái đầu của bà Phú, ở Seattle. Chị nói cả gia đình hiện ở Seattle. Xứ mưa gió quanh năm suốt tháng. Hồi tháng 5 vừa rồi mình lên vùng đó chơi thì chị ta lại đi Texas thăm gia đình.

Chị có hai em trai tên Phúc với gì đó quên tên. Hồi nhỏ mình hay qua sân bên nhà chị bắn bi với hai tên này. Sau này, gia đình chị dọn qua Phan Đình Phùng thì hết liên lạc. Chị này bạn học với chị Gái, con bà Tước, phát hiện ra mối tình hữu nghị với anh bà con của chị Gái, ở Sàigòn, học Kiến trúc, lên Đà Lạt chơi. Sau này, mình ở Pháp thì nhận thư của anh Đức gửi, nhờ chuyển về cho chị Mẫn. 

Nhớ thằng Hậu, con bà H, một hôm chạy sang nhà mình, kêu lại nhà bà Tước, nhìn qua cửa sổ, thấy hai anh chị đang mớm nhau như trong xi-nê. Thằng Hậu nay chết lâu rồi, mình có gặp lại Hiếu, làm cho khách sạn Novotel. Hai tên này có bà chị đầu tên Hợp, học Văn Học, mình có gặp một vài lần khi về Đà Lạt, chị ta bán chui ở phố Hoà Bình, chị hỏi đổi đôla cho chị kiếm lời. Sau này, có cô em bán vàng nên nhờ cô em đổi. Nghe nói chị Hợp đã qua đời. Lần cuối về, mình không qua nhà vì bà H đã chết.

Để kể thêm nếu không thì không ai hiểu, ngoại trừ dân xóm xưa. Nhà của ty công chánh ở đường Hai Bà Trưng, thường được xây 2 căn nhập một, bên Anh quốc người ta gọi “semi-detached” , do đó căn nhà ông Hiển mang số 45B, vì là căn thứ 2. Căn bên cạnh là nhà bà K số 45A. Mình có gặp lại T, con của bà K tại nhà mình, trong buổi họp mặt cựu học sinh Văn Học. Cô này, mình đặt tên là Thánh Nữ Văn Học, vì khi xưa, ngày nào cũng đi nhà thờ cả. Sáng mình tập võ, thấy cô nàng đi chánh niệm lên nhà thờ bệnh viện Đà Lạt, gần nhà xác, chiều cũng vậy. Nay ở Ohio. 

Tấm ảnh này, đoán chụp từ đường Hàm Nghi, rồi ai đó, thâu ngắn lại. Chấm đỏ là nhà của mình, hiện bà cụ và cô em út ở. Phía trước có 3 dãy cư xá Địa Dư, đối diện là dãy nhà cư xá Pasteur và cư xá Công Chánh.

Phía trước ảnh, có con đường mòn, nối đường Hai Bà Trưng và Phan Đình PHùng, phải đi băng qua mấy vạc đất của gia đình Võ Đình Dung, cho người làm vườn mướn. Đến cư xá Địa Dư, gồm 3 dãy nhà. Dãy bên tay trái có nhà ông Thạc, dãy giữa có nhà Phạm Ngọc Liên và Văn tài Phát, học chung với mình khi xưa. Bên phải là dãy nhà có gia đình ông Lào, mẹ chú Be và nhà của đối tượng của Huỳnh Kim Sang, nay làm lớn ở Việt Nam. Mình có kể gặp cô ta khi về Hà Nội lần đầu tiên.

Trước cái chấm đỏ (nhà mình) có 3 căn nhà lớn (semi-detached). Căn đầu tiên gồm hai gia đình ở số 41 A, nhà ông Mai, em ông Lào, ba của thằng Banh và nhà ông Tân Ù số 41B, có cô con gái tên Trần Hoàng Giang, cùng tuổi mình. Sau đó đến số 43A, nhà ông K, bố của T và 43B, nhà ông Hiển, sau này chết thì gia đình ông Châu dọn đến. Ông Châu mới qua đời, còn lại bà vợ, thường gọi là cô giáo Thanh, hay đi chơi với bà cụ mình. Căn thứ 3, số 45A là nhà ông Q, còn số 45B là nhà ông N, hay chứa bài. Có lần 302, đột nhập vào nhà chỉa súng lấy hết tiền mấy ông công chức đang binh xập xám.

Sau đó là căn 47A, nhà của bà T gầy, mẹ của Đôn, Chị L, rồi đến hai người em tên Ân Ái, hình như có cô út tên gì quên rồi, hình như Tú. Mình có gặp một lần khi về Đà Lạt, cô ta chăm sóc mẹ ở nhà. Căn 47B thì người ra người dọn vô nhiều lắm không nhớ rõ. Sau đó là căn cuối số 49A, B của nhà ông Hân và ông Ngọc. Mình có liên lạc được với hai cô con gái của ông Ngọc, hiện sinh sống tại Úc.

Nhờ bờ-lốc Sơn Đen mà mình tìm lại được khá nhiều hàng xóm ngày xưa. Nay mình khám phá ra căn nhà xây sau Mậu Thân, ngay vườn ông Bắc kỳ mang số 49 C. Ông thần ở nhà này không biết có nhớ thằng Hiếu, khi xưa học với mình ở Yersin, ở nhà 2 căn, ngay dốc hẻm đi vào khu nhà Cò đào.

Thấy cột điện trước nhà ông Hiển mà tên lính cho nổ lựu đạn chết theo cuộc tình vớ vẩn. Kế bên chấm đỏ là nhà bà Phú (Ron) và bà Ngà. Sau lưng là nhà ông Đề, giám đốc trung tâm thẩm vấn đến mấy căn nhà bà Ấm Thảo, bà Phúc, Hồ Thanh Hy,… mờ mờ thấy nhà anh Nguyễn Đức Quang, Vinh Kennedy, cạnh nàh Thạch, sau này đánh lộn bị ai đâm chết, bên tay phải gần Domaine de Marie là nhà thi sĩ Lệ Khánh (em là con gái trời bắt xấu).

Dạo mình mới qua Tây, đến nhà cậu Võ Quang Miên, con ông bà Võ Quang Tiềm, có gặp một tên trung uý, con của ông bà bán quán ở đường Trương Vĩnh Ký, người Huế, quen với mẹ mình. Tên này đánh bài, thua, biển thủ lương của đại đội, dọt qua Miên, lúc Việt Nam Cộng Hoà đánh vào Cao Miên, rồi dọt đi Tây luôn. Qua Pháp làm bồi. Dạo ấy, có một tên đại uý, đánh bài thua, lấy gạo của đại đội, đem bán cho mẹ mình. Lần sau, hắn lấy tiền trước nhưng không giao gạo. Mẹ mình có kiện như tiểu khu trưởng xin tha vì hắn hết tiền.

Trước nhà ông K và ông Hiển có một trụ điện. Khi xưa, có một tên lính “yêu người mà người chẳng yêu tôi” bò lại đây, trước nhà đối tượng. Mở chốt lựu đạn vào 7 giờ sáng, sau hết giờ giới nghiêm, nổ cái đùng. Mình mới thức dậy, nghe cái đùng, chạy xuống đường thì thấy thiên hạ bu quanh cái xác ông ta. Nữa cái đầu bay mất tiêu. Cái xác ông ta nằm trên đường với nữa cái mặt, ám ảnh mình cả chục năm. Mỗi lần ban đêm, đi về nhà phải đi ngang cái trụ điện này, mình khấn chết bỏ, để ông ta đừng bắt mình chết thế để ông ta đi đầu thai vì tình phụ. May quá, ông này chết không linh thiêng nên không ai lập am, thờ cúng. Cũng có thể vía mình được bán cho Ông Chín ở am Mệ Cai Thỏ ở đường Nguyễn Công Trứ nên không có thánh thần nào dám đụng tới mình, ngoại trừ Ma Cái.

Ông H, người Nam, ghét bố mình lắm, hình như ông ta là nguyên nhân khiến bố mình bị đổi lên Ban Mê Thuột. Ông này uống rượu nhiều lắm, sau này đau gan chết. Bà H, trả nhà lại để gia đình ông Châu đến ở. Bà H, mới phá cái ga-ra, cắm dùi xây căn nhà 2 tầng. Bà có mấy cô gái, Đ học Yersin, thằng S cũng học Yersin, L H thì không nhớ. Nghe nói LĐ sau 75, lấy ca sĩ Duy Quang. Con trai đầu tên K, an ninh quân đội, lấy vợ, chiếm miếng đất của nhà Bà R, xây cái nhà. Bà R với tên này, cãi lộn hoài. Tên này có lần, vác súng ra bắn đùng đùng, khiến bà R im re. 

Bà R này tội lắm. Ông chồng theo vợ bé, một mình bán cơm ở chợ Đà Lạt, nuôi đàn con. Ông chồng chạy chiếc xe Vespa, lâu lâu ghé nhà. Nhà có mấy cô con gái và một thằng con trai tên Cu L thì phải. Có một cô bị câm, con gái đầu tên P, thì phải. Không biết bệnh gì mà bôi vôi trên đầu. Con pH này ghét mình lắm vì mình hay bợt tai thằng Cu L, em nó. Nghe nói nay là đại gia tại Sàigòn. Thằng Cu l vẫn sống tại Đà Lạt, xây nhà trong sân khi xưa mình chơi bắn bi, tạt lon. Có cái cổng to đùng nên không mò lại hỏi thăm.

Từ đó, tên K và Bà R không cãi nhau nữa. Giặc ngoài đã bình định xong thì giặc trong nhà nổi dậy. Bà vợ tên K, người Nam, bà H về quê ở đâu đó, cưới đem về. Bà này, dữ lắm. Có lần mình thấy cãi nhau với tên K, hắn bỏ chạy, bà này rượt theo, kêu “đụ má mày, chạy hả” rồi cầm cái dao bầu đang thái rau, phóng theo. Con dao bay tới trúng cái lưng của hắn, mình nghe hắn kêu cái hự. May quá cán dao trúng lưng hắn, cắm xuống đất nghe cái phụt. Hắn bỏ chạy vào nhà mẹ, bên cạnh bụi Hoa Quỳ. Vài hôm sau, thấy hai vợ chồng ôm hôn thắm thiết lại. Vở tuồng K an ninh quân đội lâu lâu tái diễn lại cho con nít lối xóm xem miễn phí. Sau này, đi kiếm vợ, mình không bao giờ đụng mấy cô gốc miền nam.

Bà H, không làm gì, chỉ cho vay tiền ăn lời. Mỗi ngày, thấy bà ta xách cái giỏ, đi qua chợ Nhỏ ở đường Phan Đình Phùng, chỗ nhà thuốc Tây Lâm Viên, ngồi xuống trước mấy gánh hàng rong, lấy tiền lời. Chắc bà ta cho vay 2%/ tháng. Rồi từ từ đi lên Chợ Mới, thấy mấy bà ngoài chợ, gạt nước mắt, trao tiền lời cho bà ta. Đà Lạt dạo ấy mấy tên du đảng theo bà này, giựt tiền là trúng mánh. Nhà mình không chơi với nhà bà H vì có mối thù khi xưa. Ông H làm ông cụ mình bị đổi lên Ban Mê Thuột mấy năm.

Bây giờ nói đến nhà bà Q (số 45A, nhà ông Ngần 45B). Mình chỉ nhớ bà Q hay làm bánh tráng khoai lang. Tới mùa khoai lang, là thấy bà ta làm bánh tráng bằng khoai lang Đà Lạt, sau đó phơi khô trên mái nhà, ruồi bu đen nghịt nhưng mà rất ngon. Mình hay mua của bà ta. Có lần, một con hoảng chạy lạc đâu từ Lãnh Địa Đức BÀ xuống, chắc của mấy bà sơ nuôi. Chạy sao lọt vô nhà bà ta, họ đóng cổng lại. Tối đó, họ đem lên nhà mình một miếng thịt hoảng, lấy thảo. Ăn ngon cực.

Bà này sinh con cũng nhiều. Mình chỉ nhớ 4 người con trai. Ông đầu chết trận thì phải sau đó tên Đ, Đ, Đ, và Đ, còn mấy cô con gái thì chị H, chị N, chị L (có liên lạc được với chị này qua Facebook), chị M. Hình như M cùng tuổi với mình. Nếu mình không lầm thì mấy chị em này đẹp lắm, trai đến nhà đông như ruồi. Nhà này, khi xưa có nuôi một con chó berger, nó cắn mình một lần, phải lên viện Pasteur chích 21 mũi. Kinh

Khi xưa, trong xóm, có nhà bà Tước, bà Hân đông con gái nhưng nhà bà Q thì trai đến đông như ruồi. Có lần mình thấy hai tên bạn của thằng Đ, đánh nhau trước cửa nhà này. Sau đó thằng Đ chạy ra can. Hình như một tên chạy xe lạng qua mặt tên kia nên rượt nhau tới nhà ông Quán, đánh nhau. Một tên có học nhu đạo vì thấy hắn ra đòn nhu đạo, căn bản thứ 1. Chắc hai nhà kia cấm không cho trai đến nhà trồng cây si. Để hôm nào hỏi mấy bà hàng xóm xưa xem.

Mình về Đà Lạt, có lần gặp chồng của chị M ở Thuỷ Tạ, anh ta kể gia đình sắp đi định cư tại Hoa Kỳ, nói tên Điệp, khi xưa hay chơi với mình, sau này đi hải quân, 75 chạy qua Mỹ. Không biết ở đâu. Tên Đ này lớn hơn mình đâu 2, 3 tuổi, học Việt Anh, bắn ná hay lắm. Hắn dạy mình bẩy chim sẻ, lấy cái thúng, để cái que chống cái thúng lên, cột sợi dây dài rồi núp, khi chim sẻ đậu xuống, nhảy đến dưới thúng để ăn gạo thì giựt cái sợ dây, cái thúng úp lên con chim. Chỉ tội là khi mình mở hé cái thúng thì con chim bay đi.

Nhà ông Q có cái chuồng bồ câu. Nhà mình dạo ấy cũng nuôi bồ câu, và gà. Có cái chuồng bồ câu. Vấn đề là chim Bồ câu nhà mình hay bay đi ăn mỗi ngày, đậu lại chuồng Bồ câu của nhà ông Q, rồi không bao giờ trở lại. Mình sơn phết chuồng lại cho đẹp thì chim nhà ông Q bay lại. Mình chộp, đem ra tiệm Chic Shanghai bán. Chị L đọc bài của mình nên kể lại đây để nhớ lại một thời nghèo đói khi xưa trong xóm. Nay nghe nói con gái chị N, xây nhà bên dốc, chị L cũng ở đó, hay ghé thăm bà cụ mình. Hôm tước, sinh nhật bà cụ có nói chuyện với chị ta ở nhà hàng qua điện thoại.

Cạnh nhà bà Phú, có nhà ai mình quên tên, trước khi bà Đàng dọn đến. Có thằng con tên Hoàng thì phải. Chị nó học Bùi Thị Xuân, to béo lắm. Chị ta nghe ai, uống dấm trừ cơm, rồi lăn đùng ra chết. Thằng Hoàng hay hát bản nhạc “cớ sao buồn này Kim,..” sau này gia đình này dọn đi đâu. Xong phần mấy nhà cạnh “tình tôi, con dốc nhỏ của Sơn Đen”.

Mình chỉ kể những gia đình thời anh Nguyễn Đức Quang còn đi học tại Đà Lạt. Vì sau Mậu Thân thì thiên hạ đến cắm dùi khắp nơi.

Từ Hai Bà trưng, con dốc dẫn đến đường Thi Sách. Chỗ này trước Mậu Thân, toàn là Vệ Đường Hoa, hoa Quỳ mọc đầy, con nít trong xóm ít dám bò tới đây vì sợ rắn. 

Hôm qua lên vườn, thấy con rắn giữa đường. May chớ đi vào trong mấy cây bơ, tối tối khó thấy.

Từ đường Thi Sách đi lên dốc về hướng đường Calmette, có mấy thang cấp. Bên phải là nhà bác của tên Bi, ở trường gọi là Đinh Gia LÀnh. Sau này, ông ta đi Pháp để để lại căn nhà này cho bố hắn là đại uý Hải, làm việc trong trường Võ Bị. Nhà tên Bi này, cũng nằm trên đường Thi Sách, cạnh nhà ông Tô. Căn nhà to đùng. Mình có gặp lại 2 lần tại Bolsa, anh chàng ở cách 3 tiếng lái xe thành phố Seattle.

Đối diện nhà bác của thằng Bi, là nhà của ông Đề, giám đốc trung tâm Thẩm Vấn. Lâu lâu, ông ta đem tù Việt Cộng về nhà, phát mấy bụi hoa Quỳ, làm hàng rào kẽm gai, sợ nằm vùng vào ban đêm thịt gia đình ông ta. Mình chỉ nhớ con gái đầu ông ta, học HÙng Vương, tên Thu, hay xuống nhà mình xách nước. Sau này, nó bồ với thằng nào, sai xuống xách nước mệt thở.

Đi lên thì bên trái, cạnh nhà bác thằng Bi là nhà của ông ấm Thảo. Mỗi lần lên nhà này, mình ra trước sân nhà, để vái cái trang. Mẹ mình xẩy thai một lần, chôn cái nhau ở đây. Mình nhớ có thằng Thọ, thằng Hậu, còn mấy cô con gái thì chịu. Hình như một cô tên Chi. Chỉ nhớ anh Ngữ, con đầu, hướng đạo sinh Lâm Viên. Hồi nhỏ, thấy anh ta điều động đám hướng đạo sinh LÂm Viên, xây cái cầu gỗ bắt qua con suối ở xóm Địa Dư. Sau này, anh đi Thuỷ Quân Lục Chiến. Trong trận đánh vượt sông Thạch Hãn, chiếm lại Quảng TRị, anh ta bị thương, hư mất một con mắt, giải ngủ. Nay không biết trôi dạt về đâu. Mình về Đà Lạt, có ghé thăm bà Ấm Thảo và thằng Thọ.

Đi lên chút nữa thì gặp nhà của tên Hồ Thanh Hy, anh của Hồ Thành Hải. Bố hắn làm ở Địa Dư hay ty Kiến Thiết. Sau này dọn qua Phan Đình Phùng, chỗ ngã ba chùa, cạnh nhà Nguyễn Đắc Hớn. Hắn học Yersin trên mình một lớp. Có lần hắn liên lạc với mình trên Facebook, mình như bò đội nón, không nhớ hắn, chỉ nhớ em hắn. Nghe nói ở San Diego. Bố hắn hay đi chiếc xe Lambretta, chở cả đám con phía sau. Sau này, Đinh Anh quốc nói thì mới nhớ hắn học chung với mình khi xưa ở Yersin. Có nhắn tin cho hắn nhưng không thấy trả lời.

Sau này, nói chuyện với Đinh Anh quốc, một nghiên cứu sinh về gia phả các gia đình Đà Lạt. Tên này, người độc nhất nhớ tên ông cụ mình. Hắn nghiên cứu gia phả dân Đà Lạt hay sao đó. Khi hỏi hắn về tên nào, hắn kể ra bố thằng này tên gì, ông nội cô kia họ gì. tên này, nhắc lại Hồ Thành Hy, mình mới nhớ bố hắn đi chiếc xe Lambretta. Khi xưa, trong xóm, người ta cấm con họ chơi với mình nên quên. Trước 75, hàng xóm đã cấm con họ chơi với mình, thành phần bất hảo, không cùng giai cấp. Chán Mớ Đời 

Bên cạnh là nhà bà Cúc hay Phúc, bán len ngoài chợ. Có mấy đứa con nhỏ hơn mình nên không nhớ tên. Hình như có một cô con gái, bằng tuổi mình, học BÙi Thị Xuân. Một tên đi vượt biển chung ghe với em mình. Sau đó, định cư bên Úc Đại Lợi, mở tiệm bánh mì, nghe nói giàu lắm.

Sau đó thì có một nhà của một chị lớn tuổi, dáng người mập mập, hay bận váy, mang giày cao góc, đi ngang nhà mình, để lại dấu ấn của nhưng gót giầy escarpin. Đến nhà ngay góc dốc và Calmette là nhà của thằng Thạch, học Yersin trên mình mấy lớp. Sau đi 302, rồi sau 75, đánh lộn với ai bị đâm chết. Nhà của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang ở trên đường Calmette, hình như căn số 2 hay bên tay phải của nhà thằng Thạch. Đối diện, phía góc đường Thi Sách và Calmette, sau lưng nhà Ông Đề có một căn nhà đầu tiên của đường Calmette nhưng mình không biết nhà ai.

Mình chỉ nhớ có gặp anh Nguyễn Đức Quang một hai lần khi vào nhà anh ta vì hay đánh bóng bàn với Nguyễn Đức Vinh, em trai của anh ta, con nít trong xóm hay gọi Vinh Kennedy, vì hắn giống Tây Lai. Tên Vinh này học chung lớp với anh bà con mình tên Thành, mà dân Trần Hưng Đạo gọi là Bồn Lừa, vì đá banh hay. Vinh Kennedy chơi thân với Đinh Gia Lành trong xóm. Năm Mậu Thân bắt đầu đánh bóng bàn trong xóm với anh Toàn, con ông Tô, ông Đức, em của ông trồng răng Nguyễn Văn NGhi,… lúc đầu mình học đánh bóng bàn với thằng Vinh Kennedy. Sau đó thì mình hạ hết mấy người khác trong xóm. Lớn nhỏ đều hạ hết.

Mình thấy tên Vinh Kennedy học đánh đàn dạo ấy. Mình nghe nói anh hắn là Du Ca chi đó nhưng không rõ lắm. Lớn lên thì mới biết về phong trào Du Ca Việt Nam dạo ấy. Khi ông Kennedy lên làm tổng thống, với câu nói bất hủ “đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho tôi,…” có thành lập một đoàn thanh niên mang tên Peace Corps, gửi các thanh niên mỹ đi sang các nước nghèo để phục vụ về y tế, dạy anh ngữ,… chắc là để chống lại các đoàn thanh niên cộng sản của Liên Xô, đi nghĩa vụ quốc tế tại các nước anh em.

Dạo ấy, có một cuốn sách viết về người Mỹ mang tên “the ugly American” (người Mỹ xấu xí) mà tân tổng thống Hoa Kỳ, bắt các nhà ngoại giao, trước khi được bổ nhiệm tại các nước, phải đọc cuốn sách này. Phong trào này nhằm nối kết tình hữu nghị hai nước, thông hiểu nhau hơn. 

Tại Việt Nam, có nhiều phong trào kêu gọi các thanh niên về nông thôn, xây cất các trạm y xá, đào giếng,..được sự ủng hộ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà.

Sau này, ở hải ngoại, tò mò mình tìm đọc về phong trào du ca này. Có nhiều bản nhạc sinh hoạt khi xưa mình nghe mà không biết xuất xứ từ đâu. Mình thích nhất bài “Người Anh Vĩnh Bình”, mới hiểu thêm về ông cụ. Du kích trong làng bao vây nhà ông bà nội mình vào ban đêm. May ông cụ mình phòng bị từ hồi chiều, nên vượt tường nhà, nhảy qua hàng rào nhà bà cô bên cạnh rồi trốn vào nam. Nếu ông cụ có kết cuộc như người anh Vĩnh Bình thì Sơn Đen không có mặt trên đời. Và bài “chiều Tuy Hoà”, nghe buồn não ruột. Thôi mệt rồi, ngưng đây.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Đôi mắt người xưa

Có cô nào gốc Đà Lạt, cắc-cớ hỏi đối tượng ngày xưa ở Đà Lạt là ai? Thời biết nhìn con gái dưới ánh mắt khù khờ thay vì chửi lộn như xưa, mình thích nhiều cô như vào tiệm ăn bao bụng. Đến năm 12 B thì trung kiên với một đối tượng rồi thì đi tây. Hết phim.

Có phim “Đôi mắt người xưa” thì phải, quay cảnh ở Đà Lạt. Mình nhớ hồi nhỏ, nhà ở ấp Ánh Sáng, ai đó dẫn mình ra chỗ Thanh Thuỷ để xem người ta quay xi-nê, hình như tài tử Lê Quỳnh đóng với Thanh Nga thì phải. Đạp Pédalo trên hồ Xuân Hương. Sau này về Đà Lạt, mình có đạp Pédalo với mấy đứa con, gió thổi ngược , đạp hoài không vào bờ được. 

Hình như quay theo một tuồng cải lương, cùng mang tựa đề. Câu chuyện, nói về anh chàng đi du học bên tây, học y khoa rồi về, gặp lại “đôi mắt người xưa” khi cô ta ở dưới quê, đọc báo thấy quảng cáo phòng mạch, đem con rơi của ông bác sĩ ở Tây về. Ông bác sĩ làm cô nàng có bầu rồi đi tây, về Việt Nam thì lấy vợ và mở phòng mạch hộ sinh ở Sàigòn. Xong om

Sau này, mình đi Tây nhưng khác với ông Lê Quỳnh thay vì 5 phút như trong phim, mấy chục năm sau mới trở về Đà Lạt, bắt chước Út Trà Ôn ca bản: “20 năm sau, tôi trở về bến nước năm xưa để tìm lại đối tượng một thời,..”. Đối tượng một thời vẫn còn sinh sống tại Đà Lạt nhưng mình không dám bò lại tiệm cô nàng để chào. Mấy tên hàng xóm khi xưa, gặp lại, mình chào, chúng đưa mặt như bò đội nón, ngơ ngác, kêu không nhớ. Mình bỏ mộng đi tìm lại người quen khi xưa.

Viếng Hội An lần đầu, gặp mấy cô bạn cũ của đồng chí vợ. Có người kể, một ông di tản năm 75. 20 năm sau, trở về Phố Cổ. Bao nhiêu trăn trở, ông quyết định, đi tìm lại cô bạn gái ngày xưa. Ông ta lần mò vào xóm xưa, thấy một bà cụ, ngồi bán xôi bên đường thì hỏi nhà “cô Mai”. Bà cụ bán xôi đáp giọng Hợi En: “doạ em đơi ” khiến anh chàng thất kinh, bỏ đi về một lèo. Về nhà chắc sẽ hát: “giết người đi, giết người đi”.

Sau bao nhiêu năm, sống với Việt Cộng trong thời bao cấp, cô nàng già, răng rụng xuống nồi xôi đậu, lên chức bà ngoại. Như trường hợp thi sỹ Hoàng Cầm, mê chị Vinh, để rồi mấy năm sau, gặp chị ta lại, te tua sau khi lấy chồng, ông ta xé bài thơ ấp ủ, tâm đắc từ bé “lá Diêu Bông”.

Cô bạn kể tiếp, một anh khác, mần mò tìm lại đối tượng một thời. Nay cô nàng to như con gà mái mệ, con đàn cháu đống. Kinh hãi. Rồi quay sang hỏi mình có gặp lại đôi mắt người xưa thì nói không dám. Nghe kể là đã hãi rồi.

Rời Việt Nam lâu, nay về lại quê xưa, ai đi tìm lại đối tượng một thời như đi tìm Lá Diêu Bông. Vì chỉ có hình ảnh của ký ức ngày xưa, đụng chạm thực tế thì hơi phiền. Khó mà đứng vững khi cuốn phim chiếu chậm, bổng nhiên cái vèo như xem phim trên mạng, bị cắt xén, chạy tới đoạn kết. 

Vào những năm 1972-1973, ông Hoàng Đức Nhã, làm tổng trưởng Dân Vận, có thực hiện được 2 chương trình, cho sinh viên, kiều bào tại âu châu và Hoa Kỳ về thăm quê hương trước khi Sàigòn mất. Nhằm giải độc tuyên truyền của Cộng Sản tại xứ người. Mình nhớ có lần, gặp con trai cụ Sâm, dạy hè mình, ở đường HÙng Vương. Nhà cụ từ đường Hùng Vương, đối diện trường Petit Lycée , có con dốc đi xuống, băng qua cái vườn rau, đến nhà gỗ của cụ. Mùa mưa hay bị lụt dù nhà cụ được xây trên nền cao. Hình như cháu ngoại hay cháu nội của cụ học chung với mình khi xưa. Hình như tên Thanh thì phải. 

Con trai cụ Sâm, du học bên tây, lấy vợ đầm. Năm đó về thăm Đà Lạt, có ghé nhà dì Thanh, con bà Phúng, học chung khi xưa. Dì Thanh khi xưa cũng thuộc dạng xinh đẹp, con bà Đàng như dì Luận thì đẹp có tiếng Đà Lạt. Con cụ Sâm chắc xem phim đôi mắt người xưa nên về tìm lại dì Thanh. Không biết tâm trạng của ông ta ra sao. Chỉ nhớ bà vợ đầm, ngồi bên cạnh, ngáp ruồi Đà Lạt, bay vo ve xung quanh. Mình thì sợ ngoại quốc, không dám mở mồm với tiếng Tây Bồi. Chỉ biết Bonjour, xong là tịt, đứng nhìn họ như người trong sở thú.


Năm 1994, mình được một tổ chức NGO, trả tiền về Hà Nội, dự một hội thảo về phát triển Việt Nam trong thời kỳ Đổi Mới. Trong phái đoàn từ phía Việt Nam, có một chị, đại diện đoàn thanh niên cộng Sản HCM, tự nhận là người Đà Lạt, nói biết bố mẹ, em gái của mình khiến mình thất kinh. Chị ta nói gia đình khi xưa, ở bên cạnh nhà ông bà Lào, cư xá Địa Dư.

Mình bổng nhớ đến một cô gái, đối tượng của Huỳnh KIm Sang. Có lần, hắn bảo mình chở hắn đi đâu, rồi trên đường về trên đường Hai BÀ Trưng. Hắn bổng kêu mình chạy chậm chậm lại, rồi nói xem mặt cô nữ sinh, đi chánh niệm trên đường. Mình chạy ngang, rồi lén quay lại để xem mặt cô gái. Dạo ấy, mình đã bị cận thị nhưng chưa đeo kính. Thấy cô nàng, tóc dài, gây gầy. Thằng Sang hỏi đẹp không, mình nhất trí ngay. Sau đó, đảo xe lại thì khám phá cô nàng đi vào xóm khu Địa Dư, cạnh nhà ông Lào.

 Xóm Địa Dư, gồm 3 dãy nhà, xây 2 tầng. Từ đường Hai Bà Trưng, có mấy cái cầu gỗ đi vào mấy căn hộ, nên không thể lộn được. Cầu cô nàng đi vào chỉ có nhà Ông Bà Lào, sau đó là nhà Chú Be và nhà thằng Hùng, đá banh với mình khi xưa. Chú Be khi xưa đi lính với ông cụ mình, sau này chú đi tàu hàng hải, lâu lâu mới về nên mình biết mẹ của Chú.

Sau mùa hè Đỏ Lửa, đôn quân, thằng Sang đi lính vì sinh 1955. Mình không còn để ý đến cô này vì có nhiều đối tượng khác. Mấy tên học chung thì kết mấy cô khác, nên bàn chuyện mấy đối tượng khác. 25 năm sau, mình như Từ Thức trở về quê, gặp lại một bà, tự xưng là đối tượng ngày xưa của HUỳnh Kim Sang, lại hát bài Mimosa của dân Đà Lạt, khiến mình thất kinh! Mình hỏi có phải em gái của thằng Hùng, thường đá banh với mình khi xưa. Cô nàng kêu dạ đúng. Choáng vánh luôn! Viết tới đây thì nhận được điện thoại của Huỳnh Kim Sang sau 48 năm. Cứ viết nhắc đến ai thì tìm lại người đó. Kinh

Đối tượng một thời. Hình chụp cô nàng làm kỷ niệm trước khi tây. Có người Đà Lạt hỏi mình đối tượng một thời ở Đà Lạt là ai nên mình đăng hình cô nàng ngày xưa lên cho thiên hạ xem. Kỷ niệm một thời ta đã yêu em. 

Từ độ ấy, mình không dám nghĩ đến chuyện, đi tìm đối tượng ngày xưa. Hãi hùng! Về Đà Lạt, mấy người em, kêu đi thăm đối tượng một thời, vẫn còn ở Đà Lạt nhưng mình sợ, không dám đối diện thực trạng của 25 năm, thời gian đã lão hoá, tàn phá tuổi thanh xuân của chúng ta. Chúng ta, ai cũng bị lão hoá. Thường ký ức của chúng ta dừng chân lại ngay từ khi lên máy bay, hay xuống thuyền vượt biển. Khi gặp lại bạn bè xưa hay đối tượng thì như con cá, mình chặc cái đầu và cái đuôi rồi ráp nhau lại, bỏ phần giữa, rồi ráp lại cái đầu và cái đuôi nên không ăn khớp lắm.

Cách đây mấy năm, mình về Đà Lạt, tìm ra được một tên bạn học cũ, trên diễn đàn Văn Học nên nhắn tin. Hắn kêu, sẽ tổ chức họp mặt với các bạn học khi xưa, sau đó hắn chêm thêm, đối tượng một thời sẽ có mặt khiến mình nổi da gà. Trước khi về Việt Nam, mình có gặp lại tên HÙng Con Cua. Nhờ tên này, mình mới biết chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, cho mình đi du học. Hắn ở Sàigòn, gửi một bản nghị định của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà lên cho mình. Hôm sau mình về Sàigòn, làm giấy tờ, sổ thông hành, và xin chiếu khán của toà đại sứ và 1 tuần lễ sau là khởi đầu cuộc phiêu lưu dài 20 năm mới trở lại Đà Lạt.


Để nhắc lại gia phả tên Hùng COn Cua này. Bố mẹ hắn có tiệm thuốc bắc tên Dưỡng An đường thì phải, có huy hiệu hai con cua ở đường Duy Tân, ngay góc Trương Vĩnh Ký. Đi học để khỏi lộn với Hùng khác thì chúng bạn hay gọi HÙng COn Cua. Anh hắn cũng tên Hùng, chỉ có chữ lót là khác nên khi gọi Hùng Con Cua thì hay nhầm lẫn anh em nó. Nhà nó ở dưới chợ Đà Lạt, cạnh nhà Nguyễn Văn Thuận, rể bà Ngà, bạn của mẹ mình và nhà ông Đàng, sau này dì Mỹ Dung ở và buôn bán tại đây. Sau 75, thì tiệm trên Duy Tân bị chiếm, em hay con gái nuôi mới mở tiệm thuốc bắc dưới chợ. 


Mình kể đây vì đọc trên mạng, có nhiều người cãi nhau về tiệm thuốc bắc này, người nói trên Duy Tân, người nói dưới chợ. Ngoài ra, có người BÁc và Cô không lập gia đình, mở tiệm ăn và khách sạn mang tên Cẩm Đô. Sau này, di dân sang Pháp, hiến cái khách sạn to đùng cho Việt Cộng. Ông bác nó, tội lắm đi tìm mình, để lại tin nhắn. Lúc đó mình đang ở Ý Đại Lợi. Khi về Paris, mình có ghé thăm hai người này vài lần rồi đi làm ở Thuỵ Sĩ. Nghe nói ông bác đã qua đời, còn người cô thì vào viện dưỡng lão.


Người Đà Lạt xưa rất chân tình. Ông bà đi Pháp, quen với mẹ mình. Mẹ mình nhờ ghé thăm mình. Bà gác dan của khu mình ở, kêu họ như có một trách nhiệm tìm ra mình.


Hắn được đi du học ở Gia-nã-đại, còn mình thì đi Tây. Hắn qua Mỹ, đón đối tượng của hắn ngày xưa, chở chị em cô này với ông chồng, trên xe đi khắp 4 vùng chiến thuật. Mấy bà chị này kinh hoàng lắm. Gặp mình là hỏi bú xua la mua, hỏi ngày xưa, đặt tên cúng cơm của em họ là gì, khai ra ngay, khiến mình không biết ất giáp gì cả. Hoá ra, họ đọc i-meo những bài mình viết về tuổi học trò ngày xưa ở Đà Lạt.

Gặp lại đối tượng, đại gia Đà Lạt nên rất mừng cho cô nàng 

Thấy tên này tỉnh bơ như Con Cua, hiệu thuốc Bắc của bố mẹ hắn khi xưa, không ngại ngùng gì cả. Cứ như Tây nên khi về Đà Lạt mình cũng bớt ngại gặp lại Cái Bớt Ngày Xưa, nhưng cũng lo trong lòng. Nói chung thì cũng không sợ thất vọng vì đã thấy hình bóng đương đại cô nàng trên diễn đàn Văn Học rồi.


Biết cô nàng sống sót sau 75 là vui rồi. Thấy tên HÙng Con Cua và đối tượng hắn ngày nào, tỉnh bơ bên ông chồng mỹ nên cũng làm liều đi dự hội ngộ học sinh Văn Học xưa.


Mình lấy xe taxi đến chỗ hẹn. Mình khám phá ra họ xây một con đường nối liền đường Lê Quý Đôn khi xưa, băng qua đường Hùng Vương, qua luôn trường Petit Lycee, con đường chạy lên đến gần viện Pasteur. Con đường mà học sinh hay đi tắc đến trường thay vì đi bộ theo con đường xe chạy, quẹo vô trường. Chỗ này mình hay mục kích thằng Khoa và thằng Tuấn Trung, hai tên dân Số 4 đánh nhau. Chúng đánh nhau ở Số 4 chưa đủ, tranh thủ lên trường đánh tiếp.


Chương trình hẹn ở tiệm cà phê, để gặp riêng thầy An và mấy tên học chung với mình để nói chuyện. Tối thì có bữa cơm với nhiều học sinh Văn Học khác. Mình gặp lại thầy An, dạy Việt Văn mình năm 11B. Thầy ở Bảo Lộc, nhưng phải dậy sớm từ 4 giờ sáng, lấy xe buýt lên Đà Lạt để gặp lại mình. Lý do thầy tò mò xem mặt thằng học trò ngày xưa ra sao. Thầy không nhớ mình, lại đọc bài mình kể khi xưa học với thầy ra sao.

Gặp lại thầy Phạm văn An, dạy việt văn năm 11B.

Mình kể khi học về Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Mình mê khi thầy giảng về luật khoa, khi Loan bị ra toà về tội đâm ông chồng chết. Mình nhớ nhất; thầy khuyên học sinh có Bồ, nên chở nhau lên Thác Cam Ly, đem theo lon sơn Bạch Tuyết với cái cọ. Viết tên hai người trên vách đá, rồi vẽ thêm một mũi tên đâm thủng hai quả tim vàng. Rồi nắm tay cùng thề trước thác Cam Ly, đầy rác từ Đà Lạt trôi về: “sông có cạn, núi có mòn xong mối tình hữu nghị của đôi ta luôn luôn bền vững đến khi nào hãng sơn Bạch Tuyết bị xụp tiệm”. Ai ngờ 2 năm sau, Việt Cộng vào. Đứt phim.


Mình mới bước vào thì thầy An kêu: “nhận ra rồi, nhận ra rồi”. Thầy nhận ra mình, một trong những tên phá trong lớp ngày xưa. Viết sai lỗi chính tả tùm lum. Quay qua thì nhận ra mấy tên học chung khi xưa. Có mấy cô khác thì chịu vì học bạn A. Ban B năm lớp 12 B, chỉ có độc nhất một cô nữ sinh tên Song Kim. Toán khô khan nên mấy cô theo ban C hết. Ngồi nói chuyện vài phút thì Cái Bớt Một Thời đi vào. Mình đứng dậy chào, thấy vẫn xinh như xưa. Hú vía!

Ngồi với mấy tên học chung khi xưa năm 11 B, lên 12 B thì chúng bỏ chạy sang ban À, và Cái Bớt Một Thời

Mình có gặp lại một cô học chung 3 tháng khi xưa, không nhận ra mình. Cô này mình đặt tên là “Người đẹp Song Pha” vì nhà ở Song Pha, lên Đà Lạt, trọ học. Cô nàng là nguyên nhân Nguyễn Đình Tài bị 302 đánh. Năm 12, cô này sang ban A  học nên mình không biết, chỉ nghe tên Tài kể lại, sau 41 năm. Hắn kể trong lớp có tên Châu, khi xưa học chung với mình ở Yersin, nhà ở phía sau lưng trường Petit Lycée. Nay hắn ở Úc. Hắn kết người đẹp Song Pha, trong lớp cũng có một tên khác kết cô này. Thế là hai tên choảng nhau, thằng Tài nhảy vào can. Thằng Châu mét lính 302 quen, chận đầu thằng Tài đánh. Chán Mớ Đời 


Cô này khi xưa, thuộc diện xinh gái, nay thì te tua thêm đối tượng của một tên học Văn Học, hắn hay kể. Mình gặp lại, chụp hình cô nàng, gửi cho hắn. Hắn té xỉu. Kinh


Tên Tài rất có tình với bạn bè. Em thằng Dương Quang Trí, con ông Marcel. đi chọc gái ra sao, thiên hạ đè đầu nó đánh trước cửa trường Văn Học. Tài nhảy vào đánh giải vây nếu không thằng Trí bị rạch mặt. Sau này đậu tú tài hạng Bình, nó cho tên nào mượn bằng tú tài và thẻ căn cước để nộp đơn di du học. Mình về Đà Lạt lần đầu, đi tìm nó nhưng không gặp. Chỉ gặp em nó kêu là nó đang chạy xe hàng ở Hà Nội. Tài tập võ chung với mình ở Ngã BA CHùa với anh họ hắn là Sỹ, học Trần Hưng Đạo, sau đi nhảy dù chết.


Mình được bố trí ngồi cạnh cô nàng. Cô nàng cho mình xem ảnh con gái, ở San Jose, cháu ngoại ,… xong gọi điện thoại cho Người Đẹp Phao Câu để mình nói chuyện. Cô này thì có gặp tại nhà mình với HÙng Con Cua vì em của đối tượng hắn, mà mấy bà chị đè đầu mình xuống tra tấn để khai đặt tên cô nàng là Người Đẹp Phao Câu. Khi xưa, cô nàng có cái Mông Cực Đỉnh,  xàng xê trước đám con trai mỗi lần ra chơi nên mình đặt tên cho nó dễ nhớ.


Khi xưa, mình làm cô Mụ, đặt tên mấy cô nàng trong lớp hay trong trường để dễ nhớ khi bàn tán về gái gú. Nào là Chị HAi, CHị Sui, CHị Cả, Thuỷ Dâm, Phi Liên Xô, người đẹp Song Pha, …. Khiến nhiều tên cứ hỏi mình hoài về mấy tên này. Có cô học chung tên Vy Thị Thu Thuỷ, đám trong lớp đặt tên trước khi mình vào Văn Học, là Vê Tê Tam Thừa cho có vẽ dân ban B. Cô này xinh, lớn tuổi hơn mình, hay mượn vỡ của mình để sửa chính tả. Sau này, mình bắt đầu viết về những kỷ niệm Đà Lạt thì Chị Cả hay sửa lỗi chính tả cho mình trước khi công bố cho thiên hạ đọc. Sau này, mình viết nhiều quá nên cô nàng đầu hàng, không có thì giờ để sửa lỗi chính tả. Chán Mớ Đời 


Cô nàng mời đi ăn sáng với mấy người bạn của cô nàng ở Đà Lạt và giới thiệu mình là “người đặc biệt”. Kinh! Có một cô là em gái của một cô rất xinh ngày xưa ở Văn Học. Có thể gọi đứng thứ 3 của trường sau Cái Bớt Một Thời và Trần Thị Ánh Nguyệt. Tên Vũ Văn Tùng, nhà ở ngay dốc Cẩm Đô, lên nhà thương, mê cô này lắm. Hắn hay ngồi khi ra chơi, nhìn theo cô nàng.


Nói chung thì gặp lại đôi mắt người xưa thì rất vui. Vui vì cô nàng còn sống. Thứ hai cô nàng là đại gia Đà Lạt, không cực khổ. Cô nàng kể là lưu lại hết mấy bài mình viết về Đà Lạt. Có đi tìm mình sau 75. Lúc đó mình đang mê đầm, mắt xanh tóc vàng thì chịu. Gặp lại bạn xưa, thấy họ sung sướng, giàu có là một cái mừng. Mình có gặp lại vài người bạn học cũ, vì lý lịch gia đình nên cuộc đời có kết cục khá buồn, vì không được đi học đại học tiếp.


Nguyễn Hoàng Sơn






Hai tấm ảnh Đàlạt trước và sau 1975

 Thấy trên báo Việt Nam, có đăng tấm ảnh về Đà Lạt ngày nay khiến mình thất kinh. Mò tìm một tấm không ảnh trước 1975 tại cùng địa điểm khiến mình ngỡ ngàng.

Tấm không ảnh này chụp Đà Lạt ngày nay, thấy dinh tỉnh trưởng bé nhỏ. Không còn nhiều không gian xanh nữa. Xung quanh dinh tỉnh trưởng, nhà thờ Tin lành, còn lác đác vào cây thông. Tương tự cạnh trường Couvent des oiseaux, chỗ nhà thương Đà Lạt khi xưa, ngoài ra thì nhà cửa phủ đầy. Thấy phi trường Cam Ly đàng xa.

Đọc lại tài liệu của người Pháp, thấy bản thiết kế của kiến trúc sư Hébrard, dự đoán cho 300,000 người dân tại Đà Lạt. Chia rõ ràng các vùng thiết lập ra sao nhưng không hiểu sao lại ra nông nổi.

Khi xưa, thủ tướng Anh quốc Winston Churchill, rất giỏi động viên toàn dân Anh quốc, có công rất lớn chống giặc trong thời chiến tranh. Khi hoà bình đến thì người ta dẹp ông ta qua một bên. Đánh giặc khác với phát triển, tái thiết đất nước. Người ta cần các chuyên gia tài giỏi, có viễn kiến để quy hoạch, kỹ thuật, tái thiết và phát triển.

Thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà, dưới thời ông Trần Văn Phước làm thị trưởng, Đà Lạt được phát triển rất hay, các công trình lớn như Chợ Mới Đà Lạt, sửa sang lại Khu Hoà BÌnh, đại học Đà Lạt, giáo hoàng học viện, trung tâm nguyên tử lực, thao trường, sân vận động Cộng Hoà,… sau khi ông Diệm bị giết hại, mấy người tự xưng là hội đồng quân nhân cách mạng, cách chức ông Phước, điều tra. Cuối cùng không tìm ra dấu vết của sự tham nhũng gì cả, dù là 1 đồng. 

Ông này, dám đứng ra ký giấy mượn nợ để xây chợ, sau đó thì bán các sập, hàng trong chợ để lấy vốn lại. Nay, mình về thấy họ xây hai cái chợ to đùng ở đường Phan Bội Châu, màu nâu đen xì, chắc là màu “Đà” theo tên của thị xã. Họ làm mấy chợ như ở các xứ trời lạnh ở ngoại quốc.

Khi xưa, ở Anh quốc, mình có thiết kế hai trung tâm mua sắm. Ngày xưa, lối mua sắm khác, nay với Internet thì lại khác nên phải thay đổi nếu không là mệt. Mình có cô em, bỏ buôn bán ở chợ vì người ta mua trên mạng nhiều. Nếu muốn thu hút du khách thì phải thiết kế theo các thành phố du lịch ở trên thế giới. Cứ xây như 2 toà nhà, thương xá màu đà như ở Phan Bội Châu là hỏng.

Ngày nay, họ không xây các trung tâm mua sắm khác với xưa. Các thương xá, ngày nay được thiết kế xây theo kiểu The Block hay Terra Bella như ở Quận Cam. Người ta không xây theo kiểu kín mít nữa mà để người đi mua sắm đi ngoài trời. Thường xá thành phố Westminster như chùa bà Đanh, không hợp thời nữa.

Bù lại, họ nhận tiền hối lộ của nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu, người thầu xây cất chợ mới Đà Lạt, để làm ngơ trước sự việc, ông này xây khách sạn Mộng Đẹp, cao hơn một tầng mà kiến trúc sư Ngô Viết Thụ chỉ định, khiến khách sạn của ông ta, che mất quang cảnh của thị dân từ khu Hoà Bình, nhìn về hồ Xuân Hương.

Sau 1965, chiến sự gia tăng tột điểm, người dân từ các vùng quê, bỏ chạy vào Đà Lạt cùng với các thương phế binh, theo chương trình Người Cày Có Ruộng, họ kêu Phế Binh có nhà. Mấy ông không có nhà nên họ cắm dùi đủ nơi để xây nhà lộn xộn. Mình nhớ đường Hai Bà Trưng, cạnh cư xá Địa Dư, chủ đất, cho ủi bằng miếng đất để xây nhà theo bản thiết kế của Tây để lại. Nơi mình hay đến đây đá banh với đám con nít ở xóm Địa Dư.

Đùng một cái, thương phế binh chiếm đất, xây nhà rồi dân thường cũng a-dua chiếm luôn. Dạo ấy đi đâu cũng thấy xây nhà, tiếng búa cóc cóc,.. Khu Cường Để cũng bị xâm chiếm, cắm dùi hay khu chỗ Am Sohier, Cô Bảy.

Trong xóm mình thì khởi đầu, anh Bình cắm dùi miếng đất phía sau cầu tiêu công cộng của cư xá, xây căn nhà gỗ, rồi đến bà Vinh, chiếm luôn miếng đất giữa nhà bà ta và cầu tiêu xây nhà, chừa lại một mét để thiên hạ đi cầu.

Trên đường Thi Sách, ông Rị và hàng xóm, cũng cắm dùi, xây nhà, xây chuồng heo,.. phía nhà mình thì có bà Hành, bà Phúc, bà Thới chiếm đất xây nhà quán. Mẹ mình mua hụt căn nhà số 13 Duy Tân, nên bỏ tiền ra xây căn nhà nhỏ hai tầng trên miếng đất bên cạnh.

Bổng chốc, các bụi hoa quỳ, bìm bịt maù vàng màu tím, biến mất, thay vào đó những căn nhà gỗ xây tạm xây vội. Có lẻ vì vậy mà nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, cho ra đời một bản nhạc:”tình tôi, con dốc nhỏ”, để ghi lại những căn nhà lụp xụp, được xây cất vội vã sau Mậu Thân.

Nói chung là xây cất không xin phép, hay có bản vẽ gì cả. Người giàu thì mướn kiến trúc sư vẽ biệt thự còn bình thường thì cứ làm đại. Nhà mình được xây do ông cụ thiết kế. Hơn 50 năm mà mình vẫn thấy sai vì cái nhà tắm được chiếm vào phòng khách thay vì cho vào phía phòng ngủ. Không gia phòng khác, khúc bị nhà tắm lấn chiếm, không sử dụng được gì ngoài để xe gắn máy. Chán Mớ Đời 

Tấm hình chụp vào năm 1968-1969, của người Mỹ chụp từ trực thăng, chắc do ông Bill Robie chụp.

Hình cho thấy dinh tỉnh trưởng Đà Lạt Tuyên Đức nằm trên ngọn đồi cao nhất, hình như cao độ là 1,600 mét, vì mặt đường chỗ bồn binh Đinh Tiên Hoàng là 1,500 mét cao độ. Từ đó lên dốc Phan Bội Châu rồi dinh tỉnh trưởng là 100 mét.

Bên trái, phía dưới có một khúc đường Võ Tánh, xưa kia họ tên khác thì phải. Đi lên bên trái là khu Chợ Mới. Hai dãy phố bên hông chợ do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. (Xem bài mình viết về chợ Đà Lạt, có bản vẽ). Thấy chiếc cầu nối từ Chợ Trên Đà Lạt đến Khu Hoà Bình, chỗ dãy phố photo Hồng Châu, đến dãy phố ông Đội Có, bến xe Đà Lạt khi xưa.

Từ đó, chạy vòng vèo đường Hàm Nghi, chỉ nhớ có Phở Bằng ở đây, với tiệm hớt tóc mà ông cụ hay dẫn ra đây cắt tóc. Hình như nhà may Tân Tân cũng nằm trên đường ngày vì có cô con gái học chung. Một cô nữa, gốc người Hoa, mình có gặp lại tại Bolsa, nay làm bác sĩ có đến nhà mình ăn uống. Thấy nhà thờ Tin Lành. Không hiểu họ ủi đất nơi đồi để làm gì, chắc làm nhà. Dinh tỉnh trưởng, nằm chình ìn trên đồi, bao quanh các cây thông để chắn gió. Trời Đà Lạt khi mưa bão, gió thổi tàn canh khói lửa.

Đây là bản vẽ thiết kế đô thị của người Pháp cho thủ đô Đông Dương. Màu xanh là vòng đai để bảo vệ rừng, màu vàng là vùng không được xây dựng.

Trong vòng 8 năm năm ngắn ngủi, đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà đã sử dụng người tài giỏi để quy hoạch Đà Lạt, đã tạo ra nhiều dấu ấn đẹp, hài hoà với thiên nhiên. Người dân lên Đà Lạt sống khá đông.

Mình có mấy mẫu đất, tính để xây mấy căn hộ. Thành phố cho phép xây 75 căn nhưng mình tìm cách để xây cho bằng được 128 căn. Đó là tư bản! May là thành phố có những quy luật, vùng nào được xây bao nhiêu, cao thấp,…nên cũng đỡ. Nếu không thì các nhà đầu tư sẽ làm tan hoang hết.

Mình thấy tấm ảnh này trên mạng về Đà Lạt, không nhớ của ai tải lên. Thấy dán nhãn hiệu người Đà Lạt. Hoá ra miếng đất ủi để xây lữ quán thanh niên

Hình như mình có viết về tấm ảnh này rồi. Ai tò mò thì tìm trên bờ lốc của mình. Chán Mớ Đời 

Có ông nào, mấy tuần trước có tải lên mạng, những hình ảnh thời đệ nhất cộng hoà, chính quyền Ngô ĐÌnh Diệm, khuyến khích người dân Đà Lạt, trồng cây. Nhờ đó mà khi mình lớn lên mới thấy nhiều cây cối ở Đà Lạt. Những cây ANh Đào, từ hồ lên đường Lê Đại Hành, trên sân cù đầy thông,..


Những hình ảnh cũ thời tây, ít thấy bóng cây trên đồi ở Đà Lạt.

Nguyễn Hoàng Sơn 

Những tiệm ở Khu Hoà Bình Đà Lạt xưa

Khu Hoà Bình Đàlạt  *


Tháng trước, mình có kể về xóm Bà Thái, ai ngờ tuần vừa rồi, thấy đất khu này bị sạt lỡ đủ trò. Hình như họ không xây mấy cái piloti để làm móng cho mấy căn nhà ở trên đồi. Mấy căn nhà chỗ đó coi như tiêu tùng. Tội nghiệp họ ghê. Tài sản có bao nhiêu, nhà thầu xây bậy.


Bài này mình viết đã lâu, dạo chưa có mấy tấm ảnh Đà Lạt cũ. Nay có mấy tấm ảnh nên bỏ lên để cho mọi người hình dung những gì mình kể. 

 

Mình nhớ năm thi đậu BEPC (Brevet D’ études du Premier Cycle, Trung học Pháp), ông cụ mua cho cái đồng hồ không người lái, hai cửa sổ và ba mái chèo hiệu Citizen ở tiệm đồng hồ Tiến Đạt ngay bên rạp xi-nê Hoà Bình. Đứng trước rạp Hoà Bình thì tiệm Tiến Đạt nằm phía bên trái, sau mấy cái panneau gắn hình ảnh của phim sắp chiếu trong nay mai, có rào lưới sợ dân chúng buồn buồn đập kính để lấy hình đem về nhà treo. Rạp xi-nê Hoà Bình to nhất trong ba rạp chiếu bóng ở Đà Lạt, xung quanh rạp là các cửa hàng nhỏ được coi là trung tâm của thành phố. 


Điểm đặc biệt là có một cái chuông cao để gắn cái còi ụ, báo động giới nghiêm hay máy bay dội bom thời Nhật Bản chiếm đóng Đông-Dương. Nhà mình ở đường Hai bà Trưng mà còn nghe nên không hiểu dân ở trên phố chắc nghe rất to. 

Các tiệm hàng xung quanh rạp xi-nê Hoà Bình. Tiệm Tiến Đạt là nơi bố mình mua cái đồng hồ đầu tiên trong đời, hiệu Citizen, không người lái, 2 cửa số với 3 cái chèo. Ông cụ dạo ấy đeo đồng hồ Bulova. Hướng phố này hướng về phía Tây nên buổi chiều phải che mấy vãi che nắng. Được biết là ông chủ tiệm nhà hàng Chic Shanghai, thầu 25 năm để sửa chửa lại rạp xi-nê Hoà Bình. Đất vẫn của thành phố Đà Lạt.

Nhìn kỷ tấm ảnh, thấy chiếc xe Lam hút cầu tiêu. Mấy chục năm mới thấy lại hình ảnh này. 

Khu này, trước khi mình ra đời là chợ chính của Đà Lạt. Năm 1961, Chợ Mới được xây cất, khu chợ này được đập phá để xây lại được dân địa phương gọi là Chợ Cũ hay Khu Hoà Bình. Sau này, KTS Ngô Viết Thụ thiết kế thêm cái cầu nối liền khu Hoà Bình tới lầu 2 của chợ Mới và cái cầu thang từ góc Lê Đại Hành và Thành Thái xuống chợ Mới ngay bến xe Lam, Chi Lăng. Trước hội trường Hoà Bình là công trường khá lớn của hai đường Thành Thái từ rạp Ngọc Lan đến và đường Lê Đại Hành từ cầu ông Đạo lên. 


Mỗi lần có mít tinh chống cộng sản thì được tổ chức tại đây. Hồi nhỏ thời đệ nhất Cộng Hoà, mình thấy các cuộc mít tinh của đoàn Thanh niên Cộng Hoà, áo xanh mà ông cụ là đoàn viên được tập họp tại đây. Sau này thời chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, có cho dựng một pháp trường bằng bao cát gần khu bán Lan, phía sau vũ trường Tulipe Rouge. Nghe nói để xử tội các gian thương như Tạ Vinh ở Sàigòn. Không biết mấy ông gian thương người Tàu ở Đà Lạt có sợ hay không.

 

Cửa vào rạp xi-nê Hoà Bình được nâng cao lên vì cái nền của rạp bên trong được xây cao từ cửa ra vào và nghiêng thấp từ từ xuống màn ảnh để người ngồi dãy ghế phía sau không bị cái đầu của khán giả phía trước che khuất cho nên phải bước lên mấy bậc thang cấp mới vào foyer của rạp, bên trái là phòng bán vé mà mình từng chen lấn như đi ăn cướp để mua vé nhất là ba ngày Tết. Mình xem hình của chợ Cũ thì không thấy mấy nất thang cấp nên suy ra.

 

Thường mấy ngày Tết họ chiếu phim tồi nhất vì ai cũng chen chúc đi coi. Sau đó vài tuần khi khán giả hết tiền lì xì thì mới chiếu phim hay. Đối diện phòng bán vé là nơi quảng cáo các hình ảnh của phim đang chiếu hay sắp chiếu. Sau khi chen lấn mua được vé thì phải bước lên vài thang cấp mới vào được hội trường. Bên trong được chia làm hai dãy ghế. Hình như có ba loại vé cho ba loại ghế xanh vàng đỏ. Vé đắt nhất là màu xanh, gần cửa ra vào, sau đến vàng thì phải, rồi đỏ gần màn ảnh. Hồi nhỏ mình hay mua vé bình dân, ngồi hàng ghế đỏ nên coi xong, bước ra khỏi rạp là đói meo, mắt hoa, chóng mặt. 

Mình coi ở đây lần đầu tiên phim Tần Thuỷ Hoàng với bố con anh Bình và thằng Đắc, Thái, Trâu. Nhớ nhất là phim Dr. Zhivago, Le Cid, Tần Thuỷ Hoàng, La colère d' Achille, Tân Độc Thủ Đại Hiệp có Khương Đại Vệ đóng, Thập Tam Thái Bảo mà cuối cùng KĐV bị tứ Mã phân thây... 

Hình chụp từ đường Lê Đại Hành chạy lên, hội trường Hoà Bình. Thấy cái tháp chuông gắn còi hụ giới nghiêm.

Sau năm Mậu Thân, mình nhớ có lần lính Lực Lượng Đặc Biệt của Mỹ gồm toàn người Nùng, gốc Tàu,...được Mỹ trả lương đi lùng các lính cảnh sát dã chiến đánh. Mình đang ở chợ dưới thì nghe súng liên thanh thì ngạc nhiên vì dạo đó lính VNCH xài toàn M1 hay Garant bắn từng viên, chỉ có AK 47 mới bắn liên thanh được nhưng tiếng nổ nghe khác, nhìn ra thì thấy vài ông lính cảnh sát dã chiến chạy từ cầu thang chợ xuống bến xe lam rồi chạy vào dưới chợ núp, trong khi mấy tên lính LLĐB ôm súng ẢR17 chạy đi lùng. Lính này không trực thuộc quân đội Việt Nam Cộng Hoà mà chỉ nghe lệnh cấp chỉ huy Hoa Kỳ.


Sau này mới hiểu lí do; có một tên LLĐB gốc Hoa đang đứng chơi với tên soát vé ở rạp Hoà Bình thì có mấy tên lính cảnh sát dã chiến muốn vào coi cọp nhưng tên LLĐB không cho bị CSDC đánh. Anh chàng này chạy về trại kêu lính LLĐB mà mình có biết vài tên vì trên đường Thi Sách có tên Dũng đầu bò, người Nùng, nói giọng bắc cả dòng họ nó đi LLĐB hay lái xe Jeep Mỹ về, đeo súng AR 15, lựu đạn cá nhân mini loại nhỏ,... hình như sau này, lính 302 cũng hay đánh lộn với Cảnh Sát Dã Chiến.

Hình như sau này tỉnh trưởng can thiệp, cả lính LLĐB kéo đến trung tâm huấn luyện Cảnh Sát Dã Chiến ở đường Trần BÌnh Trọng.

Hình chụp cuối hội trường Hoà Bình, để quẹo qua bên trái khu tiệm Bùi Thị Hiếu, nhà Hàng Mekong. Tiệm Mỹ Lợi, không nhớ là nhà của Nam Trân hay ANh Đào, học chung với mình khi xưa. Bên tay trái là khúc đi vào khu tiệm bánh Thành Nhàn, tiệm sách Hoà Bình…


Cuối rạp thì có hai cửa thoát phòng cháy, bên phải thì chạy thẳng ra ngoài cạnh tiệm bazar của một ông người chà và còn cửa bên trái thì chạy thẳng ra bên tiệm kính Anh Lân. Phía sau chỗ tiệm Thanh Nhàn, nơi có con đường đi xuyên khu Hoà Bình từ tiệm Mekong xuống cầu thang vô lầu hai của chợ Mới thì có một cái cửa đôi phòng cháy. Hậu trường của rạp này nhỏ nên các gánh hát cải lương không mượn chỗ này vì không làm sân khấu được nên chỉ có tổ chức đại nhạc hội của Phi Thoàn, Tùng Lâm thôi. Trường Văn Học thường mướn rạp này để chiếu phim hay văn nghệ cho học sinh của trường xem. Mình nhớ coi phim Nắng Chiều có người đẹp Bình Dương đóng và một lần trường Văn Học tổ chức văn nghệ có mời ban nhạc Rolling Wheels chơi.


Ông chủ tiệm đồng hồ Tiến Đạt, người Bắc, có cái tiệm coi như rộng nhất ở khu này vì ba căn nhập lại, sát góc bên trái của rạp Hoà Bình. Lúc mới xây thì chia ra từng căn cở tiệm sửa radio Việt Quang nhưng dần dà có người bán thì mấy hàng bên cạnh mua, nới rộng thêm tiệm của họ. Mỗi lần đi bát phố ở khu này, mình hay ghé lại xem đồng hồ Seiko, Bulova, Citizen,.. Mình thích nhất hiệu Seiko nhưng ông cụ mua hiệu Citizen vì rẻ nhưng cũng là niềm hạnh phúc vô biên. Tối ngủ, cứ đeo để xem dạ quang. Sung sướng chơ tề.

Hình chụp ngay tiệm Lê THị KHiêm, thấy tiệm giày Tân Việt, hình như học Yersin, tiệm sách Liên Thanh, tiệm may Đoàn Mừng, có bác Mừng gái bán chén đĩa ở chợ trên lầu. Khu bên cạnh tiệm vàng Bùi Thị Hiếu, nhà sách Liên Thanh có cô con gái học chung với mình thì phải. Đi tới chút là tiệm  giày Tân Việt, phở Bắc Hương, cà phê Tùng, nhà in Lâm Viên,… 

Sau này sang tây thì cái đồng hồ không người lái chết máy nên cũng không đeo đồng hồ tự dạo đó. Năm ngoái về thăm Đà Lạt mình vẫn thấy cái đồng hồ con gà treo tường mà 50 trước bà cụ mình mua ở tiệm này, nay không còn chạy nữa. Năm 3ème mình bắt đầu không thấy rõ chữ trên bảng nên phải xin lên bàn đầu ngồi nhưng ông cụ không cho đi khám mắt đến khi sang Văn Học thì oải quá năn nỉ ông cụ đưa ra tiệm kính Anh Lân để đo mắt thì thấy cận trên 4 độ. 

Có lẻ ông cụ mình là gốc Bắc Kỳ nên quen hay mua đồ ở mấy tiệm do dân Bắc cầy làm chủ. Tiệm Anh Lân cũng rộng tương tự tiệm Tiến Đạt, có cái bảng đọc chữ khi khám mắt ở giữa để xem độ cận của khách hàng. Mấy anh em mình đều là thân chủ của tiệm Anh Lân đến 75. Tiến Đạt thì sau 75 không thấy trở lại Đà Lạt. Con gái tiệm Anh Lân kể; có gặp lại con gái đầu của tiệm Tiến Đạt ở chùa nào tại Delaware. Có tên quen, chồng cô bạn học cũ, bạn thân với con Tiến Đạt.

 

Cạnh tiệm Anh Lân là tiệm sửa radio Việt Quang, có thâu băng nhạc chắc lậu nên dạo đó đi ngang khu này, nghe nhạc Phượng Hoàng vang rền trời. Hình như con gái của ông Việt Quang này, có mở tiệm cà phê ở đường Lê Quý Đôn, chỗ nhà đèn.


Dãy tiệm này hướng Tây hay Nam nên thấy có mấy tấm vãi, biển quảng cáo được che nắng mưa. Nghe nói bà Việt Quang nay sống ở ấp Cô Giang, trồng Lan bán. Ông cụ mình thân với ông Việt Quang nên hay tụ tập ở đây với nhóm đặc phái viên của tờ báo Tiền Tuyến và Con Ong. Trong nhóm này có chú Nê, anh của chú Nô ở ấp Cô Giang hay hát trên đài phát thanh Đà Lạt. Chú Nê ngày xưa có dạo đi tù chung với bà cụ mình khi tham gia kháng chiến chống Tây. Chú Nô đi lính, hay đánh bóng bàn với anh Tín, du học bên Nhật về, đánh kiểu cầm thìa, vô địch vùng 2 ở cái tiệm cho mướn bàn ở đường Minh Mạng, ngay dốc Tăng Bạt Hổ, đối diện tiệm chè Vọng Nguyệt Lầu. 


Mỗi lần có tin gì lạ ở Đà Lạt, ông cụ mình hay đánh điện tín về Saigon. Nhóm này hay trù trì ở nhà hàng Mekong nơi tổ chức tiệc cưới của ông bà cụ mình khi xưa. Mình có ăn mì xào với ông cụ ở tiệm này một lần khi đậu bằng Trung học Pháp. Nguyễn Bình, ông thầy dạy Thái cực đạo của mình bị lính 302 chỉa súng, bị đánh hội đồng tại đây khi ngồi uống cà phê với hai cô gái. Ông này chả dạy gì cả, cứ vác xe moto 125 cc chở gái chạy vòng vòng.

Lúc này bên phía Tây của khu Hoà BÌnh, có tiệm đồng hồ Tiến Đạt bên phải, bên trái từ dãy Đức Xương Long có tiệm ông chà và, làm chủ khách sạn đường Minh Mạng, không nhớ tên, cạnh tiệm Mỹ Dung, có tiệm bán radio, truyền hình Việt Hoa. MÌnh có gặp bà Việt Hoa một lần khi mẹ mình sang Cali chơi.
Hình này có thấy nhà hàng Mekong, tiệm bazar  Sàigòn, hình như xưa gọi Saigonnais, tiệm cầm đồ Bùi Thị Hiếu, con ông Bùi Duy CHước.
Đây góc Tăng Bạt Hổ, thấy bên hông nhà hàng Mekong. Bên kia khu Hoà BÌnh, có tiệm bán kính. Háo ra có một tiệm khác bán kính mình không nhớ.

Cạnh tiệm Mekong thì có tiệm bán radio, máy truyền hình Việt Hoa. Dãy nhà này rất sâu, ăn ra phía sau tới cái đường nhỏ phía sau, hình như tên đường là Nguyễn Biểu nối đường Minh Mạng và Tăng bạt Hổ, có mấy quán nhỏ bán thức ăn, có bà 5 Quốc bán sữa đậu nành. Mình nhớ có lần ông cụ mình dẫn vào tiệm Việt Hoa bán máy truyền hình, máy nghe đĩa nhạc, radio,.. Mình mê cái tivi vì lúc đó buổi chiều đang phát sóng chương trình đố vui để học rồi vài tuần sau thấy ông cụ bê cái máy nghe đĩa nhạc về, cũng to như máy tivi, có bốn chân, có radio và máy quay đĩa, hiệu Panasonic. 

Mình đoán hình này chụp vào Mậu Thân, phố xá vắng tanh. Bên tay phải cạnh tiệm Sàigòn là tiệm bán radio, tủ lạnh, truyền hình Việt Hoa. Cuối đường thấy tiệm bánh mì VĩnH Chấn

Ông cụ mình mua đĩa hát và dì Thương ở tiệm Hiệp Thạnh, đường Duy Tân cho mình mấy cái đĩa cải lương cũ 78 tours vì dạo đó người ta sản xuất đĩa 45 vòng có hai bản nhạc hay 33 vòng có nhiều bản nhạc còn 78 vòng thì nó dày và nặng. Khi đĩa quay thì mình cũng chóng mặt vì 78 vòng/ phút, sợ rè kim hay cà lăm. Mấy cái đĩa cũ này hay bị rè nên cứ bị cà lăm. Út Trà Ôn hát 30 năm qua, 30 năm qua, 30 năm qua,...Cũng nhờ mấy đĩa cải lương này mà mình mới biết Tình Anh Bán Chiếu của Út Trà Ôn nên bắt đầu mê cải lương từ dạo đó. 

 

Năm Mậu Thân, gia đình dì Ba Ca trên số 4 chạy tản cư xuống nhà mình. Dì Ba Ca kêu mệ ngoại mình bằng Dì, khuôn mặt rất giống mệ ngoại còn dượng Ba Ca thì làm ở ty Kiến Thiết thì phải. Thời Tây, dượng làm nghề tiêm thuốc phiện cho mấy đệ tử của nàng tiên nâu. Dượng hay kể chuyện dân đi ăn trộm ngày xưa, thổi thuốc mê vào nhà rồi cạy cửa vào ăn trộm hay cách têm thuốc bàn đèn ra sao để được tiền boa. Khi Việt Cộng vào thì gia đình dì đào hầm phía sau vườn để núp. Hôm mồng 3, khi nghe tiếng súng và bom êm, dượng Ba Ca chui ra khỏi hầm để lên bàn thờ lạy tiển ông bà, để xin mấy đòn bánh tét cho mấy đứa con ăn thì nhìn ra sân thấy quả bom chưa nổ nằm chìm ìn trước sân. Hai phút sau là cả nhà bỏ của, chạy lấy người xuống nhà mình xin tá túc. 

 

Dì dượng có 5 trai 1 gái, anh đầu tên Việt, học nghề thợ tiện ở tiệm Luồng Điện của ông nội Trần Trọng Ân ở đường Phan Đình Phùng, bên cạnh có chiếc xe mì của bà Tàu bán mì vịt tiềm buổi chiều, hay đeo con phía sau lưng để bán mì còn ông chồng thì tối ngày binh xập xám chướng. Anh Việt sau này đi Xây Dựng Nông Thôn ở Tùng Nghĩa. Người kế là chị Hoa, rồi anh Hiệp, Thành (Bồn lừa của Trần Hưng Đạo) nghe nói sau này làm nghề cắt tóc ở La Sơn Phú Tử rồi Tèo Anh, Tèo Em ,.. 


Mỗi tối sau khi ăn cơm, hai gia đình ngồi quanh cái máy nghe tin tức đài BBC chương trình Việt Ngữ, rồi mở mấy cái đĩa của ban AVT 45 vòng. Cứ nghe đi nghe lại mấy đĩa hát này trong vòng ba tháng nghĩ hè bất đắc dĩ vì VC có chơi thêm tổng công kích đợt 2, nên ngày nay mình có thể giả giọng Huế, Bắc, Quảng,.. Ngày nào hai gia đình đều ngồi bên cái máy, nghe tới nghe lui đến hết mấy đĩa thì nghe lại rồi cười đến ngày nay mình vẫn còn thuộc mấy bài này. Sau này tới thời nghe băng loại 180 thì ông cụ có mua cái máy hiệu TEAC rồi thâu băng ở tiệm Việt Quang. Dạo ông bà cụ mình sang chơi, mình có đưa ông bà cụ đi ngày Đà Lạt thì có gặp bà Việt Hoa đang ở quận Cam.

 

Cạnh Việt Hoa là tiệm của bà Phúc Thị Lai, bán vãi rồi đến tiệm Chà Và, chuyên bán đồ Mỹ phẩm cho phụ nữ nên mình chỉ nhớ sơ sơ rồi đến tiệm Đức Xương Long của gia đình Huỳnh Quốc Lương nay ở Úc Đại Lợi, bán tạp hoá rồi Lưu Hội Ký bán sắt, có thêm cái tiệm ở bên đường Duy Tân. Ông Lưu Hội Ký này, ngày xưa muốn hỏi bà cụ mình cho con trai của ông ta nhưng bà cụ không chịu, nếu không thì nay mình đã mang tên Lưu Hội Sơn. 

 

Đối diện tiệm ăn Mekong, góc đường Tăng Bạt Hổ thì có tiệm vàng Bùi Thị Hiếu, con của ông Bùi Duy Chước, có mấy người con học Yersin, Adran nghe nói nay ở bên Pháp. Có một người con trai có liên lạc email với mình. Tiệm này được coi là một trong những tiệm vàng đầu tiên ở Đà Lạt. Ông Bùi Duy Chước là thầy dạy nghề của bố tên Ánh, học Yersin trên mình một lớp. Đa số, dân Đà Lạt gốc làng Kế mÔn đều làm thợ bạc, mở tiệm vàng cả. Mình có kể vụ này rồi.


Bên cạnh là tiệm giầy Tân Việt, tiệm sách Liên Thanh, có con học Yersin rồi đến nhà in Lâm Viên của thằng Phước, có thời mình học tư chung ở nhà tên này với anh Mai, con ông thầy Kim, người Bắc ở trong xóm, sau lưng phòng mạch Bác sĩ Lương, ông nội của Tuấn Toto ở Phan Đình Phùng. Anh chàng này học Yersin lớp première, một con mắt bị hư hay lé sau này đi đâu không biết. Có lần hè mình học tư với chị của tên Lê Huy Hà, học chung ở Yersin ở góc Duy Tân và Phan Đình Phùng, sau biệt thự của gia đình tên Hà này, hình như dân bắc kỳ là đường Thủ Khoa Huân. Mình có gặp lại ông thầy Kim khi về thăm Đà Lạt trong lúc ăn phở với ông cụ ở bến xe Tùng Nghĩa, sau lưng khu Hoà Bình, kể sang Mỹ rồi về VN sống với bà vợ thứ hai.

 

Cạnh tiệm Lâm Viên thì có tiệm phở gà Bắc Hương, nhà Nguyễn Đăng Sơn có thời học chung với mình ở Adran, sau qua trường Việt trước, đậu Tú tài đi du học ở Pháp trước mình một năm, học ở Troyes, nghe nói nay vẫn ở Pháp, lấy vợ made in VN. Tên này dạo đi Hướng Đạo thường được xem là hướng đạo viên gương mẫu, hình như chung đoàn với Đinh Gia Lành, Nguyễn Trung Thiện. Cạnh đó thì có tiệm Phở Tùng, bị cháy sau Mậu Thân cạnh cái dốc đi xuống đường Phan Đình Phùng gần tiệm bảo hiểm Nguyễn Đình Hoè và tiệm uốn tóc Ba Lê. Mình nhớ dạo đó đứng ở nhà mình bên Hai Bà Trưng thấy lửa khói mịt mù như thời VC tổng tấn công hình như cây xăng ở bến xe gần đó bị cháy. Sau này xây lại thì rất đông khách như các thầy địa lí bảo mua nhà cháy là hên, làm ăn phát đạt.

 

Black paint cho tui bổ túc thêm mấy" căn hộ"của khu nhà tui .Cạnh nhà in Lâm Viên (mà bây giờ đổi thành khách sạn Europa) là nhà hàng cơm tấm giò chả của thím Mỹ Hương (mẹ của Nguyễn đăng Sơn, bố Sơn làm trên đài phát thanh Dalat), kế đó là phở Tùng, nhà may Ngân (trước đó là tiệm ăn Bắc Hương), nhà hàng Mai Hương (cháu của thím Mỹ Hương), nhà hàng tàu của bà Sao, ngân hàng phát triển nông nghiệp, khách sạn của ông Ngô La, lò bún bà Hoạt, nhà sách Khải Minh, tiệm bánh rồng vàng Hải Dương, nhà may Chí Công, tiệm giày Khanh...(wow nhờ đọc mấy bài về Dalat của đen thui mà mình cũng sáng ra một chút).Trước đó khi tiệm phở Tùng bị cháy bố mẹ tui có mua lại khu này và dự tính là sẽ xây thương xá Dalat, nhưng xây được nửa chừng thì không mấy người đặt mua gian hàng nên đã trở thành nhà ở. (Độc giả còm thêm) ai có tin tức gì thì cứ còm rồi mình bổ túc cho hoàn chỉnh hơn.

 

Dãy đối diện nhà sách Khai Trí thì có tiệm giày Bata, tiệm bà Phúc, bà Lê Thị khiêm bán len. Một trong hai bà này là mẹ của Nam Trân hay Anh Đào, học Yersin với mình. Có Ngân hàng Tín Nghĩa mà một thời mình bỏ tiền trong này trước khi đi Tây. Phía bên góc gần cầu thang vào chợ Mới thì có tiệm bà Cháu, người Huế bán xe đạp, Honda góc Phan Bội Châu, sau này xây cái nhà mấy tầng, bà con chi đó với mình. Tiệm của ông Tây bán rượu, tiệm hình Hồng Châu và có tiệm bán đồ cho du khách mà hồi nhỏ mình lấy mấy bịch hột xanh đỏ tím vàng đem về nhà rồi mấy anh em xúm lại xâu chỉ, làm vòng để giao lại để họ bán cho du khách. 

Dãy photo Hòng Châu. Nghe con trai của ông Châu, nói là có đem theo qua Hoa Kỳ hình ảnh ông ta chụp về Đà Lạt khi xưa. Hy vọng có ngày mình sang vùng đông bắc, sẽ liên lạc anh ta để xem.

 Phía bên cái đồi nhìn xuống chợ mới thì có mấy cái kiosque bán đồ lưu niệm cho du khách, họ cưa gỗ thông, đánh vernis vẽ thác Cam Ly, Hồ Xuân Hương,....mình có học nghề này tính sang Tây cưa gỗ bán kiếm tiền ăn học nhưng khi qua Tây thì không có đất dụng võ, chỉ có cưa vài con rồng tặng Tây đầm. Hình như Ngô Văn Thuỷ 11B, có làm mấy cái thiệp, cắt hình bóng con gái với mái tóc thề, dán giấy pelure trắng hay hồng, thiên thanh rồi ép hoa pensée vào rồi để mối ở mấy cái kiosque này, bán cho con gái trời bắt mộng mơ, trai mê gái hay du khách. Chỗ này hay có một ông bán bong bóng đẫy xe đạp bán mà hồi nhỏ mình hay mua, gần mấy hàng bán Hoa Lan và bãi giữ xe Honda cho rạp Hoà Bình.

Phố Hoà Bình sau cơn mưa. Mình cứ thắc mắc là tiệm Mỹ Lợi là của gia đình Nam Trân, Nam Trinh hay Trần Thị Anh Đào. Dãy nhà này thường được gọi dãy nhà ông Đội Có, người làm hồ Đội Có. Khi xưa, ông ta xây khu này đầu tiên trước khi khu BÙi Thị HIếu được xây cất.
 

Phía dãy Hoà Bình bên phải của rạp thì có một tiệm bazar của một ông Chà và Ấn độ mà trước khi đi Tây, ông cụ mình có mua một sợi dây nịt cho mình ở đây. Có hai anh em học Trần Hưng Đạo có một cái quầy trước một tiệm, chắc thuê của cái tiệm ở đây làm nghề ép nhựa, ai có giấy tờ gì đều đem ra đây bọc nylon lại hết. Họ chỉ có cái bàn, gắn cái fermature bằng sắt ở trên miếng gỗ và cái bàn ủi bằng than thêm hai cuộn nylon. Họ lấy kéo cắt giấy nylon theo khổ rồi kẹp giấy tờ vào, để cái mé trên cái fermature rồi lấy cái bàn ủi, đẩy trên cái khăn chồng lên tấm nylon để tránh nhựa chảy rồi lấy cái kéo cắt gọn ghẻ lại kiếm tiền dễ dàng. Sau này hai tên này đi lính nên chỉ còn ông bố làm. Mình hay đứng xem hai anh em này ép nylon khi trú mưa ở đây.

 

Có lò bánh mì Vĩnh chấn và Vĩnh Hoà hình như là anh em đối diện nhau trên đầu đường Duy Tân. Hình như mình có học chung với Mã Kiến Lương, con tiệm Vĩnh Hoà, sau này hắn đổi tên, khai trụt tuổi thành Mã Kiến Hậu, đánh vũ cầu rất chiến. Sau Mậu Thân nhà hắn mua được cái máy làm bánh mì bằng điện đầu tiên ở Đà Lạt nên làm ăn rất khá giả, hàng ngày cứ thấy Thiên Hạ bu lại đứng đợi mua bánh mì mới ra lò. Trời lạnh vừa đi vừa ăn cái bánh mì điện mới ra lò rất là tuyệt vời, nếu chịu khó đợi về nhà thì lấy bơ mặn trét lên, ăn khỏi chê tương tự ngày nay con mình thích bánh mì Tip Top hay Lee's sandwiches. 

Hình này chụp khi sinh viên Đà Lạt xuống đường chống chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Họ ngồi nơi dãy hướng đông nhìn về Chợ Mới Đà Lạt, chỗ hai anh em ngồi ép bao nylon giấy tờ.
 

Cạnh tiệm này có tiệm thuốc Tây Minh Tâm của bác Phấn, nay ở San Jose. Lúc vượt biên thành công, gia đình bác đến trại tạm cư ở ngoại ô Paris, mình có ghé thăm nhưng sau này sang Mỹ sinh sống, hình như có cô con gái tên Lili học Yersin với mình một thời. Nghe nói sau này lấy con trai của ông bà Đoàn, ở số 4, gần nhà Phạm Đình Kháng. Chương có thời cũng học chung với mình ở Ỷersin,  đi du học bên Mỹ trước mình, có em trai tên Trình, mà mình có mời đến Văn Học đánh trống khi tổ chức văn nghệ năm 12B. Ông bà Đoàn trước 75 có xây xong hai ba căn nhà ngay khách sạn Cẩm Đô nhìn chéo qua dốc Nhà Làng. Mình có vào nhà này một hai lần nghe mấy tay này chơi nhạc, hình như bản ruột của tên Trình là Les Marionettes vì cứ nghe hắn hát đi hát lại khiến mình thuộc lòng. Ông Đoàn làm về đốn cây rừng xuất khẩu dạo đó nên được coi là đại gia của những năm sau Mậu Thân. Nghe nói ông nay đã về lại sống ở Đà Lạt với người vợ sau này. 

 

Sau này tiệm bánh mì Vĩnh Chấn có trang bị thêm cái lò bánh mì điện nên bớt tình trạng phải đứng hàng giờ dưới trời mưa để mua được ổ bánh mì. Ngay góc Duy Tân và Minh Mạng có tiệm vàng Kim Thịnh của gia đình thằng Biểu, người Huế, bé con học Yersin với mình hay bị bắt nạt nhưng nó có cái mồm to nhất Ỷersin nên sau này không tên nào dám ăn hiếp nó vì sợ bị nó đem tam đời tứ đại ra chửi. Gần đó hình như có tiệm vàng gì quên tên vì thiên hạ hay gọi Bùi Vàng, nhà của anh em Bùi Văn Đông, Bùi Thị Hoa. Mình học chung với Bùi Văn Đông sau này hắn học nhảy qua trường việt rồi đi du học thì phải. Bùi thị Hoa nay ở Paris, quen thân với cô em kế của mình, hình như đi cùng ghe hay gặp lại nhau ở Paris. 

 

Chỗ này có hai chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt, xịt tương ớt đỏ, dưa leo. Bánh mì này họ lấy ở lò Phan Đình Phùng, chổ dốc đi lên nhà thờ Tin Lành, đường Hàm Nghi, có cái giếng bên cây mít, cạnh chổ dạy của ông giáo Kim mà mình có học hè hồi nhỏ. Họ bỏ bột nổi khá nhiều nên phòng to kiểu bánh mì ổ Chè Cali. Mỗi sáng có ông Tàu lấy bánh mì ở đây bỏ trong cái bao bố trùm cái mền để giữ bánh mì cho nóng rồi qua đường Hai Bà Trưng rao bán, giao cho nhà mình năm ổ, mỗi đứa nữa ổ nhưng mấy đứa em lớn ăn không đủ nên mình phải nhịn đói đi học. Có lẻ vì vậy mà mình nhỏ con nhất nhà vì hai thằng em cao hơn mình gần một cái đầu. Khu này còn có mấy người bán cóc ổi, thơm, bắp nướng vào mùa lạnh, xoa chút mỡ hành lên trên ăn nức nở. Bánh mì dạo đó mình mê nhất là bánh mì thịt của Tulipe Rouge chổ bến xe đò Chi Lăng, làm theo kiểu Tây, baguette có paté, sauce mayonnaise gói giấy trắng in chữ sạch sẽ trong khi mấy chỗ khác, gói bằng giấy báo nhưng đắt tiền. Ngoài ra có cái nhà làm bánh croissant ở góc Duy Tân, Hải Thượng, chổ gara Trung Tín ngó qua bùng binh, đi ngang thơm lừng lựng mình hay vào mua bánh mới ra lò ăn.

 

Cạnh tiệm Vĩnh Chấn có tiệm thuốc Con Cua bán dầu nhị thiên đường và rượu thuốc mà mình hay gọi Huỳnh Quốc Hùng là Khương Đại Vệ, tán gái nhanh như thần. Từ tiệm Vĩnh Chấn đi lại phía đường Thành Thái thì có tiệm thuốc Tây Nguyễn Văn An, nhà hàng Chic Shanghai mà mình hay đem bồ câu đến đây bán. Dạo đó, nhà mình có nuôi Bồ câu, mình sơn chuồng rất đẹp so với nhà ông Q nên chim của ông ta hay ở đâu hay bay về chuồng của mình để cù rũ, đạp mái thế là mình canh me, bắt mấy con chim dại gái này đem ra tiệm ăn này bán để họ làm Bồ câu hầm thuốc Bắc, hạt sen cho khách. Kế đó thì có tiệm vàng của bà Tư Bổ, tiệm Song Song của Vĩnh Ít, chắc cùng dòng họ với Vĩnh Chấn, bán cà phê, trà rồi đến tiệm ông bà Võ Quang Tiềm mà bà cụ mình kêu bằng Dì Dượng, chị em bạn dì với mệ ngoại mình, bán rượu,.

 

Khi mới vào Đà Lạt lập nghiệp, ông Võ Quang Tiềm làm nghề thợ may, sau xoay qua bán rượu và thuốc lá Cẩm Lệ. Thời Tây, thuốc lá, thuốc phiện và rượu là do nhà cầm quyền quản lí nên chỉ có môn bài mới được bán. Ai nấu rượu lậu hay bán thuốc phiện lậu bị bỏ tù. Ông Tiềm làm đại lí ở vùng Cao Nguyên bán sĩ lại cho các tiệm bán lẻ trong vùng nên rất giàu, có mấy tiệm ở đường Hàm Nghi làm kho chứa rượu và hàng. Mình thấy mấy cái lu to bằng sành đựng rượu trong tiệm. Khi bà cụ mình lập gia đình thì ông Tiềm có nói xuống thành phố Di Linh, ở nhà của ông và bán rượu ở đó nhưng bà cụ mình đã buôn bán ở chợ cũ nay là rạp Hoà Bình.

 

Thời Tây thì dân mình sợ nhất là lính Lê Dương (légionnaire) và Mặt Gạch (malgache). Nhóm lính trước là những thành phần bất hảo, bị tiền án tử hình hay lính đào ngũ,... Khi vào đoàn lính này thì coi như quá khứ bị xoá bỏ nên lính này không sợ chết, đi tới đâu là cướp hiếp tới đó còn lính mặt gạch thì dân thuộc địa Pháp ở Madagascar, Phi Châu như người VN được tuyển sang Pháp đánh giặc trong hai thế chiến. Năm 1945, lính Tây thay thế lính Anh, đổ bộ lại Đông Dương để giải giới quân đội Nhật thì dân Đà Lạt bỏ chạy tản cư vì phong trào kháng chiến chống Pháp tuyên truyền, ông Tiềm không chịu tản cư, ở lại Đà Lạt và mua nhà của dân chạy loạn với giá rẽ như bèo nên sau này được coi là người giàu nhất Đà Lạt. 

 

Khi hồi cư thì có một số người bị chiếm đoạt nhà cửa, tiệm buôn tương tự sau 75 nhưng không dám hó hé vì sợ bị chụp mũ theo Việt Minh. Mình có đọc hồi ký của một ông kể là sau khi chạy tản cư về thì Lữ Quán Sàigòn ở đường Minh Mạng, bị người quen chiếm mất. Sau 75 thì nhà nước tịch thu hết cả 50 căn nhà cho thuê, khách sạn và tài sản trong thời kỳ đánh tư sản, nay hình như chỉ còn một căn nhà do một người cháu ở thì phải. Lần đầu tiên về thăm Đà Lạt thì có đi thăm mộ ông bà ở Mả Thánh do người con rễ KTS Ngô Viết Thụ phát hoạ nhưng nay nghe nói khu này bị giải tỏa nên không biết con cháu dời đi đâu vì mấy người con còn sống đều ở bên Pháp.

 

Nghe nói khu Hoà Bình là do ông Võ Đình Dung, thầu khoán xây cất, ông ta làm chủ mấy căn ở dãy phố này. Thời Tây, ông Võ đình Dung, bà con chi bên vợ mình đi thầu xây cất rồi tụi Tây giao tiền giả nhưng tối nên không kiểm lại. Về nhà tối ngủ bà vợ thấy ai về mách nên đêm khuya thức dậy, xét lại mới khám phá ra tiền giả nên đem đốt hết. Vừa đốt xong là bảo an kéo lại lục soát nhà nhưng không thấy nên sau đó ông bà mới cúng tiền xây chùa Linh Sơn, được xem là nhà hảo tâm nổi tiếng của Đà Lạt rồi hưu trí, không làm ăn, thầu xây cất nữa. Nghe kể cách làm ăn hại nhau khi xưa và ngày nay nên mình không dám nghĩ đến làm ăn hay về sinh sống tại VN.

 

Cạnh tiệm ông Võ Quang Tiềm thì có một ngân hàng hình như Đông Phương, Văn phòng Hàng Không Việt Nam, đến tiệm ăn Nam Sơn trước bãi xe taxi mà anh Bôn và ông Thanh của đội banh Đà Lạt bị VC gài lựu đạn nơi xe bị nổ chết, cuối cùng là phòng nha sĩ Trình, bố tên Hy học Yersin với mình có lần nhổ mình mấy cái răng và mấy thang cấp nối đường Thành Thái qua Trương Vĩnh Ký chỗ trường Đoàn Thị Điểm mà mình từng học Hội Việt Mỹ ở đây.

 

Phía sau dãy phố này là đường Trương Vĩnh Ký, có mấy quán ăn mà nổi tiếng nhất là quán bánh xèo của hai ông bà người Huế. Xa Đà Lạt 40 năm nhưng mình vẫn nhớ rau xà lách couronne mà ngày xưa ăn phở thường có rau này. Bên Tây thì mình có ăn loại rau này có vị hơi đắng đắng, dòn dòn, lá có răng tua tua nhưng bên Mỹ thì không thấy bán. Về Đà Lạt tuy thèm nhưng không dám ăn vì lần đầu về mình bị Tào Tháo rượt ói mật xanh luôn vì ăn rau. (còn tiếp)


Mình có nhiều hình về Đà Lạt xưa nhưng tải chừng này đã thấy hoa con mắt. Chán Mớ Đời 

 

Sơn đen