Ăn Bûche de Noël lần đầu



Mỗi lần Giáng Sinh, khi đại gia đình, 4 thế hệ tụ họp ăn uống tại nhà mình, lại nhớ đến cái bánh bûche de Noël được ăn lần đầu trong đời ở Đà Lạt.

Trong xóm mình, cư xá của ty Công Chánh Đà Lạt ở đường Hai Bà Trưng có bà Bửu Duy, có tay nghề làm bánh Tây, có tiếng ở Đà Lạt một thời. Mỗi lần gần Giáng Sinh là dân Đà Lạt, đặt bánh Noël còn ngày thường, bà ta làm bánh bông lan bỏ mối cho mấy tiệm bánh ở khu Hoà Bình.

Bà ta có bà hàng xóm, cháu của ông Ưng Quyền cũng thuộc dòng Các Mệ hay sang chơi, phụ bà ta để học nghề sau đó mở tiệm bánh Thanh Nhàn ở khu Hoà Bình, cạnh nhà sách Hoà Bình nên hai nhà không thân thiện, qua lại như xưa vì bà Duy mất mối khá nhiều. Có ai trong xóm nói với mình là "cho người ta mượn tiền đi buôn thì được, chớ dạy người ta cái nghề kiếm cơm của mình". 

Bà Thanh Nhàn cứ gần Tết, sáng vừa hết giới nghiêm, bà ta lên nhà mình để lấy mứt của bà cụ mình làm, bỏ mối để kiếm thêm tiền tiêu Tết. Có bao nhiêu là bà ta lấy hết vì sợ các tiệm khác đến lấy. Sau đó thì bà cho người làm lấy giấy bóng kiếng đỏ, bọc từng hộp có tên Thanh Nhàn, bán giá gấp đôi cho dân Đà Lạt, khiến mình hơi tức tức, mường tượng hiểu mượn đầu heo nấu cháo là gì. Sau này gia đình bà ta vượt biên, sang Mỹ có mở tiệm Thanh Nhàn ở khu Bolsa. Con cháu thấy cực quá nên sang lại cho ai khác khi ông bà nghỉ hưu.

Mẹ mình bán hàng xén nhưng gần Tết thì tối đi bán về, làm thêm mức để bán Tết kiếm thêm tiền sắm áo quần cho 10 đứa con. Mình không hiểu mẹ mình lấy sức ở đâu mà làm việc cả ngày ngoài chợ, tối về lại làm tiếp đến 1, 2 giờ sáng mới đi ngủ. Mẹ mình có món mức dâu tây Đà Lạt, nổi tiếng một thời. Quả dâu có cọng được rim đường, rồi bọc giấy bóng kính lại. Khi ăn, người ta tháo giấy bóng kinh lại để ăn. Gần Tết, thường có vụ đám hỏi đám cưới, người ta cho bánh xu xe hay trà, được gói trong giấy kính là giữ lại, để gói mức dâu.

Không có bà Thanh Nhàn giúp nên bà Duy kêu thằng Vĩnh Vinh, con đầu phụ bà ta. Thằng này hơn mình một tuổi nhưng học cùng lớp, hay kêu mình phụ nó, khi nào có bánh bị cháy không bán thì nó đưa cho đàn em nó ăn rồi quăng cho mình phần bị cháy nhiều nhất nhưng mình vẫn thấy ngon kỳ lạ. Mình học nghề làm bánh bông lan của nó. Nhà nó có cái máy cắm điện để đánh bột cho nhuyễn, nó hay bắt mình làm trò này rồi bỏ bột nổi. Khi bột được xay đều với nước thì nó lấy cái vá múc từng vá, đổ vào mấy cái khuôn bằng giấy bạc, bỏ vào lò nướng hai tầng đặt trên lò dầu hôi. Nhà nó có ba cái lò nầy, mỗi cái nướng được 12 cái bánh bông lan. Khi bột nổi làm bánh phồng lên đầy cái khuôn thì hắn bỏ vài miếng nho khô của Mỹ rồi đậy nắp lại.

Cái lò này do ông thợ thiếc tên Thạc ở ngoài chợ, cạnh hàng bà cụ mình làm, nhà ở xóm Địa Dư. Lò làm bằng thiếc có cửa đóng lại, có chiều ngang đâu 40 cm x 40 cm chiều cao x 60 cm chiều dài. Trên lò có cái nắp kéo qua, kéo lại để độ nóng thoát. Khi nướng bánh thì bỏ trên cái lò dầu hôi, vặn to hay nhỏ tuỳ độ nóng. Sau này bà cụ mình có mua một cái lò nướng này nên mình bắt chước làm. Nhà bà Duy có cái máy xay cắm điện trong khi nhà mình không có, phải dùng đồ quết chả và cái chày để đánh. Ông cụ mình khi xưa đi lính, khi giải ngũ có đem về cái nón cối sắt, dùng làm cái cối để giã thịt, cá cho nát. Mỗi lần nhà mình làm chả cá thu hay nhân cho chả giò là hàng xóm biết vì nghe quết cái nón sắt với cái chày, nghe bộpbộp vào ban đêm. Nhà không có nho khô nên mình dùng mức đậu sen bỏ lên mặt bánh. Sau này em gái lớn thì mấy cô em tiếp thu phần làm bánh còn mình đi đánh bi da. Đời lên hương.

Mình muốn học làm bûche de Noël nhưng thằng Vinh và mẹ nó không cho mình học, đuổi về, có lẽ sợ bị như bà Thanh Nhàn nên mình hay qua nhà bà Bửu Ngự chơi để học nghề nhưng chị người làm cũng không chỉ bày chi cả. Gần Noel khoảng 23 là xe cộ đậu lại nhà bà Duy tấp nập để lấy bánh. Chiều 24 thì nhà bà ta ăn Giáng Sinh dù theo Phật giáo. Bà Duy có 2 đứa con gái và 4 thằng con trai. Có năm Tết, mình bị ông cụ đánh nên chạy xuống nhà bà trú, ngủ qua đêm. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong xóm, biết lái xe hơi, nhảy đầm,.. Một mẫu người phụ nữ tân thời như bà Ngô Đình Nhu. Nhà bà có chiếc xe Peugeot 203 trắng như các xe Taxi Đà Lạt, sơn màu đen, đậu ở bến trước nhà hàng Nam Sơn.

Có xe nên gia đình này xây cái garage bằng gỗ, lợp tôn, hay để cái bàn Ping pong mà sau này trời mưa. Thằng Bi, con Ông Tước hay lấy ná bắn xuống mái tôn nghe hòn đá lăn trong đêm mưa. Mình hay đánh bóng bàn với con bà nhưng cứ thắng hoài nên giữ bàn khiến ông Duy cứ mượn chỗ mình để con cái, cháu chắt của ông ta được đánh.

Không hiểu tại sao nhà bà ta rất thiên vị, sinh nhật của hai cô con gái thì tổ chức linh đình còn 4 tên con trai thì chả làm gì cả. Mỗi lần sinh nhật hai cô con gái của bà thì xe hơi đậu đầy đường Hai Bà Trưng. Mỗi lần như vậy thì mình và vài tên trong xóm, ghé lại đứng ngoài nhà, nhìn qua cửa sổ, tò mò xem đám con nhà giàu ăn sinh nhật. Thấy con Hương hay con Hà, bận đồ như công chúa, đeo vương miệng cắt bánh do bà Duy làm, khiến mình nuốt ừng ực. Nhiều khi thấy thằng Vĩnh Dũng, anh con Hương cũng bò lại đứng nhìn qua cửa sổ. Hình như nó thích một con nào, bạn của em nó chớ đâu thèm khát bánh như tụi mình. Mình thì thèm bánh còn nó thì như tổ tiên hắn, vua Minh Mạng mê gái, nên cùng đứng ngoài trời lạnh nhưng khác đối tượng.

Cái đám con gái nhà giàu, chúng nó lắm trò, cứ tặng quà rồi con Hương hay con Hà cứ từ từ mở quà rồi quơ tay quơ cẳng làm như ngạc nhiên. OMG bú xua la mua.

Mình và mấy thằng hàng xóm, đứng ở ngoài nhìn vào không nghe gì cả, chỉ thấy đám con gái vỗ tay rồi ăn bánh pâté chaud, uống nước cam BGI (Brasseries et Glacières d'Indochine), bánh mì thịt jambon, toàn là đồ quốc cấm ở nhà mình, khiến mấy đứa đứng ngoài chu mõ nhìn, thèm khát, lâu lâu nuốt cái ực cho đã cơn thèm. Hạnh phúc khi ăn chực qua nước miếng.

Bỗng đâu bà Duy đi ra, cầm cái chổi chà quét sân, la lối đuổi cả bọn đi như xua đuổi ăn mày. Chán mớ đời! Mấy đứa chạy qua bên kia đường, tụ lại như chó đánh hơi, đợi một lát thì cả đám bò lại. Đúng lúc bà Duy đem cái bûche de Noël ra.

Con Hương cầm con dao to dài, phong thái rất chuyên nghiệp, thái từng miếng bánh rồi bỏ vào đĩa nhỏ cho đám bạn. Nhìn chúng ăn từ tốn chậm chạp như người bị ốm, không muốn ăn khiến mình như điên, nuốt nước miếng ừng ực, ừng ực. Cuối cùng rồi đám con gái xơi cũng hết miếng bánh nhưng con nhà giàu có khác, không đứa nào đưa thìa đĩa lên liếm cả khiến mấy thằng ở ngoài đường càng điên, không nói không năng, bỏ nhau ra về.

Sau này ông cụ mình đổi sang ty Công Quản Nước, ngay hồ Đội Có ở gần lữ quán hướng đạo Lâm Viên làm cai công trường, phụ ông trưởng ty Nguyễn Tư Tùng, người Bắc, có thằng con tên Huân học Yersin, hơn mình đâu 1 lớp. Nhiệm vụ của ông cụ là đem thợ nước của ty, dẫn nước vào nhà, gắn đồng hồ nước hay sửa chữa ống nước khi bị bể.

 Lâu lâu ông chủ tiệm kem Việt Hưng ở đường Thành Thái, nhà ở đâu trên đường Trần Bình Trọng, ya út gì đó có hai đứa cháu gái từ Sàigòn lên học ở Couvent thì phải, hình như bằng tuổi mình, hay bận jupe xanh, chả nhớ tên, đi học bằng xe Lam chung với mình, sau này hai cô này về lại Sàigòn. Hai con này khốn nạn lắm, mỗi lần xe Lam ngừng lại đón chúng trước nhà, là thấy chúng cầm hai cây cà rem, lên xe ngồi chu mõ, mút mút cây kem rồi còn cho mút kem của nhau trong khi mấy đứa khác ngồi trong xe, đực mõ ra nhìn. Sau này chúng về Sàigòn nên cái trò tra tấn dã man như ở Gualtanamo Bay chấm dứt. Ai nhớ hay quen hai cô này, cho xin imeo mình viết chửi trả thù. Hề hề hề!

Lâu lâu đi học về thì thấy trên bàn có cái hộp lớn đựng 10 chén bằng nhựa, toàn là kem và kem đủ màu. Hỏi ra là ông Việt Hưng đem tới để cám ơn ông cụ mình đã cho thợ sửa cấp tốc đường ống nước. Ông này Bắc kỳ cho nên chắc ông cụ mình cũng thiên vị cho thợ đến làm cho người cùng quê trước. Cuối năm đó, vào Giáng Sinh, ông ta đem lại biếu ông cụ mình cái bûche de Noël, đặt ở nhà bà Duy, khiến mấy anh em xôn xao, vui quên cả đói. Mấy đứa em leo lên cái ghế đẩu, quỳ gối trên cái ghế rồi trường người ra tới giữa bàn, chu mõ, trương mũi để hít hà cái lồng bàn nhựa made in Cholon, màu xanh, đậy cái bánh để tránh ruồi nhất là con mèo hàng xóm như sợ hương thơm của bánh bay mất. Hít mùi thơm ngào ngạt cũng đủ no, quên ăn trưa.


Tối đó bà cụ về tưởng được ăn liền, ai ngờ cụ bỏ lên bàn thờ để cúng ông bà. Chắc là lần đầu tiên ông bà, tổ tiên dòng họ mình được ăn bánh Tây. Sau khi hương tàn thì bà cụ bê cái bánh xuống, trang trọng như sợ bị bể, đặt lên bàn. Mấy anh em dành nhau đi lấy con dao cho bà cụ, cãi nhau chí choé vì nghĩ sẽ được chia bánh trước vì có công lao như dân CM30 sau 75. Bà cụ cũng chuyên nghiệp không thua gì con Hương, cắt miếng to nhất để dành cho ông cụ rồi cắt một miếng nhỏ, bỏ vào cái đĩa nhỏ màu xanh có hai con rồng của công ty Thiên Nhiên ở Trại Mát, dùng cúng xôi, chia làm bốn và hai miếng nữa, cũng được chia làm 4 rồi mỗi đứa được 1/4 miếng bánh. Đứa lớn có quyền lựa trước đến đứa cuối là coi như rất ít.

Thường khi ăn thì mình hay đưa phần mình cho đứa nhỏ nhất nhưng trong lòng rất xót xa, quặn thắt từng khúc ruột.

Mình cầm miếng bánh nhưng mắt cứ nhìn theo nữa  cái bánh còn lại, như đoán được Ý của mình bà cụ bảo để dành cho ngày mai. Lúc đó mấy anh em mới cam phận, không nhìn cái bánh còn lại. Không ai dám ăn cả hình như sợ miếng bánh biến mất, từ từ hít hít hà hà như chó ngửi cứt mới được ra lò. Từ từ lượm mấy cái bánh vụn nhỏ rơi trong đĩa bỏ vào mồm. U chầu, u chầu cái ngọt ngào chưa bao giờ tận hưởng thêm mùi sô cô la, kem,... Nức nở, nức nở,.. Có lẽ lần đầu tiên mấy anh em mình ăn uống rất chậm chạp như vậy, nhà con đông thì phải ăn chạy nếu không là hết cơm, hết đồ ăn. Mình chợt hiểu tại sao đám con nhà giàu ăn từ tốn, chậm chạp ở nhà bà Duy, để tận hưởng cái sãng khoái của cuộc đời, để tạ ơn người, tạ ơn đời, ơn trời, ơn Phật. Nhất là ông chủ tiệm kem Việt Hưng Muôn năm.

Ăn xong thì thấy bà cụ bỏ nữa cái bánh còn lại trong cái garde à manger.

Sau khi ghé qua sở, chia phiên canh gác cho nhân viên vì dạo đó công chức đêm đêm phải thay phiên nhau trực ở sở, qua chương trình nhân dân tự vệ vì sợ VC nằm vùng, đặt chất nổ, phá hoại. Ông cụ mình là đoàn trưởng nên mỗi tối phải đi đến sở, điểm danh xong xuôi mới về nhà ngủ. Vì đoàn trưởng nên sau này ông cụ lãnh 18 năm tù. Mấy đứa em canh me, chạy ra bảo bố, mẹ có để dành bánh cho bố, hy vọng bố sẽ thưởng vì được nhắc nhở, sẽ cho ăn ké.

Đó là lần đầu tiên trong đời mình được ăn bánh Noel, sau bao nhiêu năm chứng kiến mấy đứa con gái bà Duy cùng đám bạn của chúng ăn. Sau này sang Tây thì được ăn mệt thở, lâu lâu nhớ đến em út ở Việt Nam, khiến xót xa, ước gì có chúng bên cạnh để mấy anh em ăn thả giàn, không đói khát như xưa. Ngày nay thấy bánh này là không dám đụng, ai mời cũng từ chối.

Gia đình bà Duy sau 75, xuống cấp như mọi gia đình. Thằng Vinh đi thanh niên xung phong, đạp mìn chết chung với thằng Hùng ở xóm Địa Dư. Thằng Dũng cùng tuổi mình, mê bạn của em nó cũng chết vì ăn bo bo. Thằng Hải, em kế con Hương, tuổi Tí cùng với thằng em mình cũng chết non. Con Hương nghe nói tình yêu lận đận chi đó cũng chết non.

Con Hà thì được Việt Kiều ở Úc Đại Lợi về cưới đem đi. Bà Duy thì theo thầy chùa cúng dường, kinh kệ mỗi ngày, nay đã qua đời. Lần đầu về thăm xóm, mình có ghé lại thăm ông Duy. Ông ngồi đó, thừ người ra nhìn về chốn xa xăm, bảo mình được trời cho may mắn, được đi Tây nếu không thì cũng te tua như thằng Vinh, thằng Dũng. Mình chỉ lặng lẽ, gật đầu đồng ý. Con trai của ông thì còn thằng Hồ, con trai út, lấy con ông Ngần, hàng xóm, được đi đoàn tụ, định cư ở Mỹ. Mình có số điện thoại của nó ở tiểu bang xa, tính gọi hỏi thăm về gia đình nó cho mình vì để không sau khi nó đi Mỹ nhưng vẫn không có dịp gọi.

Trong xóm mình, bà Duy sang trọng bao nhiêu, đi xe hơi, nhảy đầm,..thì bà cụ mình lại trái ngược. Cả đời cứ sáng đi chợ, tối về, chỉ tô son điểm phấn khi đi ăn cưới. Lớn lên mình mới khám phá ra bà cụ mình là triệu phú ngầm, ăn bận rất bình dân, không cao sang nhưng lại có tiền. Bà Duy tuy trông bề ngoài sang giàu nhưng lại không có tiền, nợ nần tùm lum. Bà Bửu Ngự tuy đi học lóm nghề của bà Duy nhưng có đầu óc kinh doanh nên để tiền mở tiệm Thanh Nhàn, rất khá giả.

Ngồi viết thì mình mới hiểu cái tính chắt chiêu của mình từ đâu ra. Có cái gì bà cụ cũng chia ra làm hai hay ba, để dành rồi ăn từ từ. Nhiều khi nói chuyện với vợ, kể về thời niên thiếu, thời nghèo đói nhăn răng. Gặp mấy người bán xíu mại, chỉ có tiền mua nước xíu mại không có thịt, gọi xíu mại chay. Đổ trong cái đĩa nhỏ rồi mua bánh mì, mấy anh em chấm chấm nước xíu mại, ăn sao mà nó ngon tàn đời. Giáng Sinh năm ấy được ăn cái bánh kem Tây lần đầu, mình vẫn nhớ cái hương vị ngày ấy, mấy mảnh vụn của cái bûche de noel năm ấy, bỏ vào miệng, để nó tan rã từ từ trong miệng như nước Cam Lồ. Hạnh phúc dạo đó sao rất đơn sơ.

NHS

Bố vợ mình

Nguyễn Hoàng Sơn

Kỷ niệm đáng nhớ nhất với bố vợ mình là hôm đám cưới. Mình hát cải lương giúp vui bà con hai họ đến chung vui, làm chứng nhân cho cuộc đời làm rể của mình trên xứ Mỹ.

Mình vừa xuống câu vọng cổ thì ông bố vợ đứng lên, tiến lại sân khấu, rút ra tờ giấy năm đồng thưởng mình và xổ tiếng Tây:“C’est pourboire!” Sau đó thì có tên giới thiệu chương trình của nhà gái, mới đi đoàn tụ từ VN sang nên khi giới thiệu hai họ làm bà con cười thêm, vì chả hiểu gì cả. Hắn nói những từ khá xa lạ đối với những người di tản năm 75.

Các cháu sinh ra và lớn lên, hấp thụ dưới mái trường XHCN. Trong quá trình học tập và lao động, các cháu đã quen nhau, đã lấy nhân sinh quan cách mạng làm cơ sở. Các cháu đã tìm ra lẽ sống và con người. Thương nhau vì chân lý, quý nhau

Bích Câu kỳ ngộ 2025

Nguyễn Hoàng Sơn

Hắn vừa dọn nhà xong nên ra chợ trời xem có cái gì re rẻ thì mua trang trí căn phòng. Hắn thay đổi chỗ ở, chỗ làm, thành phố đều đều nên gia tài hắn chỉ vỏn vẹn có cái ba lô, cái túi ngủ và cây đàn thêm vài bộ đồ.

May là tên ở trọ trước hắn để lại cho cái nệm, nếu không thì tối lại kéo túi ngủ ra nằm như thời ở trại tị nạn vì mỗi lần chuyển nhà rất tiện, chỉ gom vài thứ rồi nhảy lên xe lửa hay máy bay.

Hắn đi lòng vòng chả có gì re rẻ cả nên tính bỏ về thì bỗng thấy một bức tranh cũ kỹ được treo lơ lửng ở một gian hàng. Hắn ngạc nhiên vì tấm tranh có hình một thiếu nữ giống một cô bé mà hắn từng gặp ở trại Pulau Bidong. Cô bé không ai biết tên, chỉ biết là người độc nhất sống sót sau cuộc hải trình tìm Tự Do. Ngày nào cũng vào nhà thờ cầu nguyện, không giao thiệp với cả. Ngoài những giờ đi lễ cầu nguyện, cô bé cứ ra biển nhìn về xa xăm mênh mông như ngọn hải đăng tìm các con tàu trong đêm tối bảo bùng. Dân tị nạn trên đảo hay gọi cô bé là Thánh Nữ Pulau Bidong.

Hắn hay theo cô bé vào nhà thờ. Mỗi lần như thế hắn ngồi phía sau như một tín đồ ngoan đạo, trông về cô bé đang quỳ trước Chúa. Tuy không phải tín đồ nhưng hắn hay lâm râm cầu nguyện như bài hát ngày nào.

“Con quỳ lạy Chúa trên trời sao cho con lấy được người con thương”.

Mấy tên trong trại cứ chọc hắn, bảo là “đến giờ bảo vệ Thánh nữ đời tôi”, nhưng hắn mặc kệ bọn ganh tị không hiểu tình yêu là gì. Nhiều lần hắn ao ước được cô bé thánh nữ ban cho hắn một cái nhìn dù chỉ tíc tắc, nhưng tuyệt nhiên cô bé không bao giờ nhìn hắn, lúc nào cũng vênh vênh váo váo nhìn lên trời.

Rồi hắn được giấy tờ định cư sang Hoa Kỳ. Đêm chia tay, hắn buồn vời vợi, cả trại xúm lại làm cơm tiễn hắn lên đường. Hắn bắt chước Duy Khánh, 30 năm về trước, đêm cuối cùng ở Lào, đã hát trong nước mắt "Xin anh giữ trọn tình quê". Hắn đưa mắt nhìn xem, coi có bóng dáng cô bé Thánh nữ nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng vía cô nàng chắc đang cầu nguyện.

Hắn dừng lại xem, càng xem thì hắn càng bị thu hút bởi cặp mắt của người phụ nữ như mời gọi, hồi tưởng về một thời gánh dầu ra biển để chôn, chuẩn bị vượt biển như chôn mối tình học trò, chôn những nhục nhằn của kẻ bại trận. Hắn đang xem thì tên Mễ kêu:” Cien dólares, amigo”.

Thông thường hắn ít khi mua ba thứ này nhưng không hiểu vì sao, có một tiếng nào vang vang bên tai hắn, bảo hắn phải mua.

Hắn treo tấm tranh trên tường ngay trong phòng khách của hắn, đứng ngắm nghía xem có xiên hay xẹo rồi ra nấu ấm nước và làm tô mì ramen. Đang ngồi ăn tô mì ăn liền thì có ai như bảo hắn phải nhìn tấm tranh, hắn lại thấy cô bé mặt có vẻ buồn rầu như hờn trách hắn, ăn mà không mời nên hắn lấy thêm cái tô rồi làm thêm tô mì ăn liền rồi để nơi bàn cộng thêm đôi đũa. Mặt Cô bé như vui reo như vừa được quà.

Ăn xong hắn quăng hai tô mì trong cái bể nước của kitchennette rồi lăn dưới đất, ôm cây đàn rồi hát mấy bài nhạc kỷ niệm một thời ở trại tị nạn.

Hắn nhớ những đêm phải gánh dầu, đem ra biển để chôn ở bãi hẹn. Hắn không có tiền nên phải chịu lén lén khi công an ngủ, gánh dầu để chủ ghe cho đi miễn phí. Nhiều đêm bị công an rượt bắn, chạy mệt thở.

Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn
Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương
Anh chôn, chôn mối tình chúng mình
Gửi lại em trăm nhớ ngàn thương
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non.

Hôm sau, tan sở hắn ghé vào tiệm tạp hoá á châu, vác thùng mì gói và ổ bánh mì mang về. Hắn có tật là ăn mì gói với bánh mì baguette như thời còn ở quê nhà. Hắn hay mua ổ bánh mì Vĩnh Chấn ở khu Hoà Bình rồi đem về nhà làm tô mì gói, dùng bánh mì chấm nước lèo bột ngọt. Bột ngọt làm khát nước nên chơi thêm cốc nước là no căng cái bụng. Sang Mỹ tuy đồ ăn rẻ, nhưng cái thói quen xưa vẫn không rời bỏ hắn được.

Bạn bè bảo ăn mì gói nhiều sẽ bị tóc gió thôi bay nhưng hắn cũng kệ, chỉ biết cười cười hề hề. Hắn ghé vào quán phở Pasteur làm tô tái nạm, hành trần nước trong rồi bò về nhà.

Vừa bước vào nhà thì hắn rất ngạc nhiên vì trên bàn có mâm cơm đủ 3 món cơm đang còn nóng. Hắn liếc vào bếp thì tô chén, ly tách đều được rữa sạch sẽ, xếp ngăn nắp. Tuy mới ăn xong tô tái nạm, nhưng hắn vẫn ngồi xuống ăn thì cô bé trong trăng lại nhìn hắn trách móc như hôm qua, hắn đi lấy cái tô và đôi đũa đem lại bàn. Hắn ăn tự nhiên vì thói quen ăn chực nhà người quen. Lâu lâu hắn ghé lại nhà mấy người quen, hắn hay chọn những giờ ăn cơm vì đa số thường ở nhà, thêm họ hay mời mà lạy trời đừng ăn. Hắn hỏi có cay không thì gia chủ bảo cay thì hắn ngồi xuống bàn còn nếu không cay thì hắn kéo ghế ngồi xuống cầm đũa. Ăn xong, hắn lại quăng chén bát trong lavabo rồi lăn ra cầm đàn hát. Hắn để ý cô bé trong tranh như đang gật gù khiến hắn ngạc nhiên, tự hỏi chỉ mới có một chai bia mà đã say.

Từ độ ấy hắn không đi ăn phở nữa, đi làm về là thấy có đồ ăn làm sẵn, mỗi bữa đều đổi món như mấy nhà nấu cơm tháng đem lại. Có dạo hắn nhờ người ta nấu cơm tháng, sáng trước khi đi làm hắn để cái gà mèn trước cửa, chiều về lấy đồ ăn mới vào, làm nồi cơm là xong. Mỗi ngày 3 món nhưng ăn riết cũng ớn nên trở về với mì ăn liền.

Hắn thắc mắc là không biết ai bỏ công nấu ăn cho hắn. Ở quê hắn người ta có lệ để thêm cái chén và đôi đũa cho người khuất mặt khi ăn cơm nên qua mỹ hắn cũng đem theo tinh thần ấy nên hay để thêm cái bát cho thổ thần thổ trạch hay thần khu vực ghé lại bồi dưỡng hương đồ ăn hầu bảo vệ dân làng gia chủ tránh bom đạn.

Cuối cùng hắn nghĩ ra một cách là để cái IPad của hắn trong phòng, mở cái app Skype, rồi từ sở sẽ xem ai vào nhà hắn, thổi cơm. Đúng 4 giờ chiều, skype hiện lên cô bé trong tranh chui ra khỏi khung rồi biến thành một phụ nữ 3 chiều. Cô vào bếp rửa đống chén bát của hắn rồi dọn nhà cửa, hút bụi rồi lăn vào bếp nấu ăn, chiên xào khói bay mịt mù như ở Panda Express. Độ 5 phút sau thì cô bé trong tranh đem đồ ăn lại bàn.

Xong xuôi thì cô bé chui tọt vào khung tranh như cũ.

Tối về sau khi ăn hắn ghé lại tấm tranh rồi mi một cái chụp cô bé trong tranh. Hắn hả hê là đã khám phá ra quý nhân nhà bếp. Thế là từ dạo đó hắn không còn gầy còm như xưa, hắn bắt đầu béo ra, hắn giã từ mì ăn liền, ngày nào cũng filet thịt bò, cá kho tộ. Hết bò né thì đến bò đất, bò tránh, ôi thôi đủ món. Sau khi ăn cơm, Hắn không hát nữa, chỉ xem mấy chương trình đầu bếp trứ danh, thế là hôm sau hắn được toại nguyện, món mới được nấu sẵn để trên bàn. Mỗi sáng trước khi đi làm, hắn không quên mi cô bé trong tranh. Đi thử máu thì Bác sĩ bảo hắn phải kiêng cử, lên kế hoạch ăn uống cho có điều độ nhung hắn không nghe vì Thánh Nữ nấu ăn quá ngon.

Một hôm hắn đi về thì thấy có cái bánh sinh nhật để trên bàn và một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật hắn. Chu choa mạ ơi, từ ngày ra đời tới giờ mới có người nhớ đến sinh nhật của hắn. Hắn cám ơn cô bé trong tranh bằng nụ hôn rồi viết trên tấm thiệp, hỏi cô bé có thể ra thổi đèn cầy chung với hắn. Đột nhiên những dòng chữ hiện lên trên tấm thiệp, yêu cầu hắn tắt đèn.

Khi đèn bật lại thì hắn thấy cô bé Thánh Mẫu đứng trước hắn bằng xương bằng thịt, bận bộ đồ trắng như Tiểu Long Nữ của Dương Hoá.

Hắn vui mừng reo lên, có phải em là cô bé ở Pulau Bidong. Cô bé dịu dàng gật đầu. Hắn kể là trước khi lên đường đi định cư, hắn đi tìm để cho cô bé địa chỉ của thằng bạn nối khố bên Mỹ để liên lạc nhưng không thấy cô bé. Hắn hỏi cô bé có biết là hắn đi theo nàng mỗi khi có lễ và vái trời cho hắn lấy được nàng. Cô bé chỉ cười rồi gật đầu. Hắn nói nếu lúc đó biết cô bé để ý đến hắn thì có lẽ mình gặp lại nhau sớm hơn. 10 năm qua hắn không bao giờ quên mối tình hữu nghị đơn phương với Thánh Nữ như Trần Quảng Nam với 10 năm tình cũ.

Thánh nữ buột miệng kêu hắn là đồ ngu khiến hắn ngơ ngác. Như hiểu hắn, cô nàng giải thích, cô bé đi lễ để hắn đi theo tìm cách nói chuyện với cô nàng nhưng hắn lúc nào cũng ngồi phía sau. Hắn bảo hắn nhát gái thêm thấy ông Giê Su trên thánh giá, như đang bảo hắn bỏ cái tính gian tham, tu mau kẻo trễ nên không dám nói gì.

Hắn lấy làm lạ là đàn bà hay gọi hắn là đồ ngu. Nhớ dạo hắn học trung học, có lần ra chơi thì hắn ở lại trong lớp tán gẫu với thằng Hải Bò, thằng này thích nhảy hip hop, cứ bò lăn bò càng như Linda Trang Đài biểu diễn màn mò lượm bạc cắc trên sân khấu nên bạn bè đặt cho hắn cái tên Hải Bò. Hắn nói với tên bạn, ước gì có xôi nếp than ăn vì buổi sáng đi học, hắn không ăn sáng. Nhà hắn đông anh em nên mấy đứa em dành phần của hắn. Hôm sau, ra chơi xong, khi vào lớp hắn tính lấy vở ra ôn bài để chuẩn bị cho lớp tới thì thấy có gói xôi, gói bằng lá chuối của ai bỏ trong hộc bàn của hắn.

Hắn lấm lét nhìn quanh không thấy ai thì bốc ra ăn như điên như dại như sợ tên nào ả nào vào lớp, hô hoán là của chúng thì khốn. Ra về thì thấy cô học chung lớp hỏi xôi có ngon không. Hắn chả biết ất giáp nào, dạo ấy "xôi" được bọn con trai diễn tả là ngực của con gái mà hắn thì có bao giờ biết con gái đâu mà bảo ngon hay không ngon. Hắn đứng như Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến bắn khiến cô bé kêu Đồ Ngu rồi bỏ xuống cầu thang. Sau này lớn thêm một tí thì mới hiểu câu hỏi của cô bé nhưng không biết ở phương trời mà cám ơn.

Cô gái bảo cô bé là cung nữ trên Thiên đình, em của Chức Nữ, có anh rể kiếp trước là con trâu tên Ngưu, nhưng vì Chức Nữ thích mua sắm quần áo đẹp nên mượn tiền mua sắm nhưng không trả nổi. Ngọc Hoàng mới đầy Ngưu Lang đi trại cải tạo, hoá thành con trâu đi cầy thuê cho nhân dân để trả nợ nên mỗi năm chỉ được thăm nuôi một lần nên phải bôi trơn bọn quạ để làm cái cầu Ô Thước cho Chức Nữ gặp chồng ở trại cải tạo, cầy cấy mỗi ngày. Mỗi lần gặp chồng là Chức Nữ thấy chồng ốm yếu, lao động vinh quanh để trả nợ cho mình mua áo quần nên khóc Ngưu Lang như mưa nên người ta gọi là mưa trâu, mưa ngưu nhưng dân chúng sợ thần trâu đạp chết nên nói trại đi là mưa ngâu.

Một hôm đi theo Chức Nữ thăm nuôi Chồng Trâu thì thấy anh đang lao động vinh quang thì cái khăn choàng của em bị gió làm rơi xuống ruộng của anh nên em xin Chức Nữ cho em đi theo mỗi lần thăm nuôi để có thể gặp lại anh. Ai ngờ anh đi vượt biển nên em bay đến Pulau Bidong để kiếm cớ để gặp anh. Hắn hỏi cô bé Thánh Nữ sao không nói cho hắn hay khi ở đảo thì cô bé lại bảo đồ Ngu, trâu đi tìm cột chớ có bao giờ cột đi tìm trâu đâu. Hắn thắc mắc hỏi kiếp trước hắn là trâu thì cô bé chỉ mỉm cười không đáp.

Hắn nói bây giờ mình trùng phùng rồi thì em khỏi phải ở trong tranh nữa. Cô nàng bảo là không được, em không có visa nhập cảnh, khi khai lý lịch để đi định cư thì em khai quê quán ở Thiên Đình nên họ không cho em đi định cư. Nhớ hắn quá nên trốn trong tấm ảnh, đi theo một gia đình định cư xong họ bán garage sale nên được tên Mễ mua, đem ra chợ trời bán. Thánh nữ mà ra khỏi tranh thì coi như di dân lậu sẽ bị La Migra tống cổ về trời mà Hoa Kỳ không có quan hệ ngoại giao với Thiên đình, nên hắn không thể bảo lãnh Thánh Nữ dù có Công Hàm Độc Thân. Hắn nói hay em sinh con rồi làm giấy tờ hoàn chỉnh tình trạng cư trú. Con mình sẽ có Quốc tịch, sẽ bảo lãnh em sau.

Cô bé Thánh Nữ bảo không được vì theo Bác sĩ Phạm Thị ở Buôn thì DNA của hắn và của Thánh Nữ không giống nhau, bên là Chromosome Cao Cấp CC, cung nữ Thiên đình còn của hắn là XY, là người nên không thể đẻ con chung được. Thánh Nữ bảo khi xưa bà Cố là gốc Chim (Tiên) bay dạo chơi ngoài biển thì bị bão đánh ướt cánh nên rớt xuống biển lọt vô lưới chài của một tên chài lưới tên Rồng ở làng đánh cá có tên Lạc. Để trả ơn cứu mạng, bà Cố gả cho ông cố tên Rồng xứ Lạc. Vì DNA của hai người không cùng giống nên sinh ra được trứng. Bà cố sinh ra được một cái bọc có 100 cái trứng, nhưng trứng phải ấp nên ông cố tìm mấy cái tổ chim để cho chim rừng ấp.

Từ ngày bà cố sinh ra 100 cái trứng thành 100 người con thì ông bà cố cải nhau hoài vì tối tối ông cố đi giang câu nên cuối cùng đâm đơn ly dị.

Ngọc Hoàng chia đôi gia sản nên 50 người con theo bà cố lên rừng và 50 con theo ông Cố xuống miền Nam. 50 người con xuống miền nam, vì đói nên đi lính cho đế Quốc Mỹ còn 50 người con theo bà cố lên rừng cũng đói nên đi lính cho Mao Trạch Đông.

Hắn nảy ra một ý nên nói với Thánh Nữ: “ Em ráng sinh ra một bọc có 100 cái trứng, anh sẽ mua một cái máy ấp trứng ở tiệm hột vịt lộn Long An. Sinh ra 100 đứa con như bà Cố em thì tuyệt. Nhà nước cho mỗi đứa $400.00/ tháng vị chi $40,000/ tháng, mỗi năm ngồi chơi đẻ trứng có $480,000.00 chưa kể là tiền Food Stamp, sữa, tả,... Nếu mình khéo tiếp thị thì truyền hình tứ xứ đến phỏng vấn mình lấy $10,000/ lần là khoẻ, khỏi cần đi làm. Em sẽ đạt kỷ lục Guiness chắc mình sẽ giàu to.

Hollywood sẽ làm phim "cheaper by the 100", em sẽ là người đàn bà nổi danh nhất thế giới hơn cả Hillary Clinton”.

Hắn và Thánh Nữ nhất trí cùng chung xây dựng ngôi nhà hạnh phúc nên mỗi ngày sau khi làm việc quần quật cả ngày, tối về hắn được Thánh Nữ cho ăn Gà Ác để thực thi kế hoạch gia đình, bồi dưỡng nghiệp vụ chức năng làm chồng. Ngày đầu tiên hắn ăn còn thấy mùi gà ác nhưng đến ngày thứ 3, hắn cảm thấy hắn còn Ác hơn con gà. Hắn mới nhớ đến câu thơ của tên bạn Hải Bò:

Ngày Xuân con lạy Phật Trời
Sao cho con bỏ được người con thương
Không phải tại nó bất lương
Mà vi` nó bắt "Mười Thương" tối ngày
Một thương giựt tóc đuôi ga`
Hai thương tay móc lưởi rà phía trên
Ba thương bịt miệng cấm rên
Bốn thương con phãi leo lên đầu giường
Năm thương con tựa vách tường
Sáu thương nằm dưới hết đường bó tay
Bảy thương phải ngoáy phải xoay
Tám thương qua nui' vác cày gảy xương
Chín thương phải thở bình thường
Mười thương bải cát sấu trường sấu nhai
Chúa ơi con sáu mươi ngoài
mà làm kiểu đó có ngày con die!
Xuân nầy nàng mới hai hai
Con hơn nàng tới bốn hai xuân thì

Đang thả hồn theo dòng thơ trữ tình của tên Hai Bò thì bỗng nhiên hắn nghe tiếng mụ vợ hắn ré bên tai. Dậy! dậy đi đón con, nó mới gọi bảo là Party xong rồi. Mau lên! Người chi mô mà ngồi đâu ngủ đó.

Bệnh tòng khẩu nhập

Nguyễn Hoàng Sơn

Dạo mình gặp lại CTA ở MIT thì ông thần này nói một câu: "Bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất". Hắn nói mình cẩn thận về ăn nói cả mang hoạ nên từ dạo đó bớt phang Thiên hạ.

Cách đây đâu 10 năm, vợ mình xem phim Hàn, có một cô đào xứ Hàn đóng vai chính rất đẹp nên mình coi ké, phim bộ "The jewel in the palace", kể về cuộc đời vị nữ y sĩ đầu tiên của Triều Tiên. Câu chuyện khiến mình quan tâm đến vấn đề ăn uống vì trong phim khi vua đau thì đầu bếp nấu theo toa y sỹ thêm bác sĩ Trần Đại Sỹ ở Pháp giải thích lý do về nam nữ, âm dương, vua cần nhiều cung nữ để y sĩ xem cô nào hợp với vua tuỳ theo thời gian, vua yếu thì cần cung nữ loại nào,... Ông nay có viết cuốn sách giải thích về Đông y dễ hiểu.

Sang Tây thì thấy người Pháp nấu ăn thêm rượu; cá và đồ biển thì họ uống hay

Bastille 1789



Hôm trước, có người imeo nói đọc bài 14 Juillet giúp nhớ lại những gì ông thầy tây dạy về cuộc cách mạng Pháp và hỏi ngày 13/7/1789 là ngày họ phá ngục Versailles phải không. Mình nói ngục Bastille chớ còn bỏ tù ở lâu đài Versailles thì mình xin đi tiên phong vào tù. Nhân dân thành Paris vào nhà tù Bastille, giải cứu tù nhân ngày 14/7 nhưng chỉ có 7 tù phạm ở trong. Lý do dân nổi loạn vào ngục Bastille, không phải để giải thoát tù phạm mà để lấy súng ống và thuốc súng hầu chống trả lại lính của triều đình đang bao vây thủ đô. Ngày 14/7 được xem là ngày đầu tiên cho cuộc đời mới, một kỷ nguyên mới.

Một trong những nguyên do chính của cuộc cách mạng ở Pháp là khủng hoảng tài chánh khởi đầu bằng cuộc chiến dành độc lập của 13 tiểu bang thuộc địa Anh quốc ở Châu Mỹ, khiến trên 50,000 loyalist, người gốc Pháp bị trục xuất khỏi Quebec trong số 90,000 dân cư nói tiếng Pháp, buộc lòng nước Pháp phải tham chiến, giúp đỡ 13 thuộc địa của Anh Quốc. Có lẽ vì vậy mà ngày nay dân francophone ở Gia Nã Đại ít hơn dân nói tiếng Anh vì tổ tiên họ, 50,000 bị truật xuất khỏi Gia Nã Đại. Cuộc khủng hoảng tài chánh kéo dài, thêm giới trưởng giả lên án những đặc ân dành cho thành phần quý tộc, họ hàng với vua và nhà thờ được miễn thuế trong khi Tiers état , thành phần thứ 3, bao gồm 97% dân số lại bị đánh thuế nặng.

Từ khi Đặng Tiểu Bình cho Trung Cộng đổi mới, dùng kinh tế thị trường là ngọn đuốc cách mạng thì ngày nay, giới đại gia, trung lưu là giới làm nên chuyện, cải tổ đất nước nên người ta lo ngại là giai cấp này sẽ đòi hỏi thêm quyền tự do, chia sẻ chính trị vì bao nhiêu quyền lợi, chính trị đều nằm trong tay các đảng viên. Nếu có cuộc khủng hoảng kinh tế ở Trung Cộng thì giới trung lưu sẽ lên tiếng đòi hỏi quyền lợi của họ trong tay của nhà cầm quyền. Người ta lo ngại 14/7/1789 sẽ xẩy ra tại Trung Cộng nếu có cuộc khủng hoảng kinh tế.

Nhà vua hay giai cấp quý tộc, có đất đai nhiều nhưng không phải đóng thuế. Họ cho thuê đất để các nông dân cầy cấy rồi đóng tiền cho họ, giúp họ có cuộc sống giàu sang.

Thiên chúa giáo được xem là quốc giáo, được miễn thuế dù nhà thờ có nhiều đất đai để canh tác hay cho thuê.

Đức Hồng Y Richelieu, "l' Éminence rouge" rất nổi tiếng, ông được xem một thời, người cai trị nước Pháp. Mình điên đầu về ông này, thầy giảng mà chả hiểu gì cả, tại sao ông cha lại làm thủ tướng cho vua Louis. Sau này coi phim 3 chàng ngự lâm pháo thủ của Alexandre Dumas thì mới hiểu đôi chút, lý do người ta không muốn tôn giáo và chính trị đi đôi với nhau.

Nước Pháp được xem là mạnh nhất Âu Châu, bắt đầu thời cai trị của vua Louis 14, tây hay gọi "Le roi du soleil", vua mặt trời. Nghe kể không biết có đúng không là trời mưa mà ông ta bước ra là tạnh. Ông ta cai trị theo chính thể Quân chủ tuyệt đối ( monarchie absolue). Ông ta dời cả gia đình và triều đình về cung điện Versailles, cách Paris độ 20 km thay vì ở Palais Royal, cạnh vườn Tuileries ở Paris. Có lẽ vì vậy mà mấy ông vua sau này không biết đến tình hình sinh sống của dân chúng ở Paris, như hoàng hậu Marie Antoinette ở chỗ hoang vắng, miền quê nên chán, chơi trò cô bé chăn cừu, cho xây dựng mấy chuồng dê để mỗi ngày bà ta vắt sữa,..., theo phong trào lãng mạn của thời đó.

Nhớ hồi học trường tây thì thầy có dạy về Jean Jacques Rousseau, Diderot, Voltaire,.., những người khai sáng cho thế kỷ ánh sáng của nền văn hoá Pháp với tinh thần cartésien. Mình có viếng thăm mấy cung điện của vua chúa của Anh, Pháp, Áo-Hung Gia Lợi, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,..., nhưng phải công nhận điện Versailles do mấy kiến trúc sư danh tiếng Le Notre, Le Vau,..., vẽ theo tinh thần cartésien rất là đẹp. Năm thứ 3 tại ENSBA, mình hay ghé lại đây mỗi tuần để vẽ, nghiên cứu kiến trúc của lâu đài này.

Mình không nhớ nhiều hay hiểu rõ sau khi đọc cuốn Contrat Social, chỉ nhớ tra tự điển Larousse mệt thở, nhớ mang máng là phong trào văn hoá được gọi Ánh Sáng (Lumière) tạo nên một trường phái lãng mạn khiến các nhà trí thức mơ đến một xã hội khác, đẹp hơn qua các bài thơ của Lamartine,..., dựa trên căn bản quyền làm người, tự do và bình đẳng đưa đến cuộc cách mạng dành độc lập của Hoà Kỳ và cuộc cách mạng tại Pháp....

Trước 1945, các nhà trí thức của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi phong trào lãng mạn nên ta thấy xuất hiện những tác phẩm như Thiên Thai của Văn Cao, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong,..., đã nói lên ảnh hưởng của thanh niên thời ấy vì thế mới có 13 vị anh hùng Yên Bái bị chém đầu mà gần đây mình có xem được hình ảnh lính Tây chém, bêu đầu ngoài chợ. Các thanh niên tham gia các phong trào cách mạng để chống Pháp, dành độc lập. Khi có óc lãng mạn thì con người mới mơ tưởng đến một cái gì xa xa là lạ, một xã hội bình đẳng,... Thanh niên rất mê Che Guevarra, vì ông ta từ khước cuộc đời trưởng giả, bỏ học y khoa để đi làm cách mạng khắp nơi. Sau này bị CIA cho người lùng giết.

Các giới trưởng giả bị đánh thuế nặng để vua giúp đỡ 13 thuộc địa Hoa Kỳ đánh Anh Quốc dành độc lập mà ta nhận thấy tướng Lafayette có mặt tại Châu Mỹ. Người ta kể có trên 8,000 cuộc bạo động bởi nông dân vào thập niên 1780. Ông Necker, tổng giám đốc tài chánh của nhà vua trình bày tình hình ngân quỹ quốc gia: thâu thuế được 503 triệu cân Anh, chi tiêu mất 620 triệu cân Anh trong đó có đến 310 triệu để trả nợ.

Dân chúng lên án khi được biết nhà vua tiêu trên 31 triệu vào các cuộc ăn chơi, xa xỉ trác táng.

Năm 1788 bị mất mùa, giá bột mì lên cao khiến các phụ nữ rủ nhau đi Versailles để đòi bánh mì. Những cải tổ về luật Pháp, thuế vụ được thi hành nhưng chỉ đánh thuế thêm người dân. Giới Tiers Etat đòi được thêm số đại biểu trong quốc hội vì họ chiếm 97% dân số, (quý tộc và nhà thờ là hai thành phần còn lại) nên nhà vua chấp thuận nhưng quyền đầu phiếu thì chưa quyết định.

12/6/1789, nhà vua cho vời 20,000 lính ngoại quốc về Paris để dẹp loạn.

Dạo đó người ta có quyền đi lính thuê cho một nước khác tương tự ngày nay lính Thuỵ Sĩ đứng gác, bảo vệ toà thánh Vatican. Nếu ai viếng Vatican thì thấy mấy ông lính bận áo quần thời phục hưng đứng gác ở cửa ra vào hay ở trong toà thánh. Ngay ở Hoa Kỳ, vua Anh Quốc muớn mấy đoàn lính Hessois và Đức để dẹp tan đoàn lính tạp hợp của Washington nhưng may thay đám quân thiện chiến này, ỷ y nên bị quân của Washington bao vây, đánh tan.

Đầu tháng 7, nhân dân Paris nổi loạn, vua Louis 16 sa thải các bộ trưởng cấp tiến. Ngày 12 /7, luật sư và nhà báo Camille Désmoulins kêu gọi dân chúng đấu tranh vì nhà vua sẽ gửi mấy đoàn quân Thuỵ Sĩ và Đức để tàn sát chúng ta do đó được mệnh danh là "L' homme du 14 Juillet". Ngày 14/7 thì mấy chỗ trấn đóng của nhà vua bị đốt phá, dân chúng vào cướp mấy kho lúa của nhà thờ. Có hình của ông Désmoulins trong viện bảo tàng Carnavalet, mình có đến xem thì được biết ông ta cũng bị chém cùng lúc với Georges Danton. Mình chỉ nhớ hai ông Robespierre và Danton được ông tây nói đến nhiều nhất.

Ngày 14/7 thì dân chúng chạy vào Hôtel des Invalides (viện thương phế binh) để cướp súng nhưng không thấy thuốc súng nên chạy qua ngục Bastille để lấy thuốc súng. Thật ra trong ngục chỉ có 7 tội phạm và chính quyền dự định sẽ phá nên trong khi chờ đợi thì dùng làm nơi chứa thuốc súng. Đô trưởng Launay đồng ý cho đoàn dân phiến loạn vào ngục nhưng rồi ra lệnh cho lính bắn khiến một số đông lính bất bình nên quay ngược chống lại ông ta, cuối cùng ông ta bị bắt, kéo lê khắp phố và bị cắt cổ bởi một tên bán thịt. Hình ảnh này khởi điểm cho cuộc thanh trừng ghê rợn nhất của cuộc cách mạng Pháp. Vì tội phạm nhiều quá nên đao phủ thủ chém không xuể nên có ông Bác sĩ Guillotin với lòng bác ái lương y như từ mẫu, đề nghị dùng máy chém cho nhanh nên sau này dân tây đặt tên cái máy chém là "la guillotine" thay vì "la louisette" , do một bác sĩ khác tên Antoine Louis phát minh ra. Sau này họ đem sang Việt Nam để chém các người yêu nước của thuộc địa.

Vua Louis 16 ra lệnh các đoàn binh đang bao vây Paris về lại trại lính, mời các bộ trưởng cũ lại và đồng ý với đề nghị thành lập nền chính trị mới là Quân chủ lập hiến như Anh Quốc. Sau cuộc bạo loạn thì khắp nước chìm trong lo sợ vì không có quân lính, cảnh sát của nhà vua bảo vệ, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Em trai của vua chạy sang cầu cứu các nước Phổ và Áo, đem quân sang dẹp loạn. Lính Pháp bị đại bại vì các vị chỉ huy thường là thuộc các gia đình quý tộc bỏ chạy ra hải ngoại hết nên không có ai chỉ huy nên thảm bại.

Cuộc thanh trừng bắt đầu và quốc hội cách mạng tuyên bố hủy bỏ nền quân chủ và chém đầu hai vợ chồng vua Louis 16. Những người tiên phong tạo dựng lên cuộc cách mạng thuộc nhóm Jacobins bị chém đầu như Robespierre, Danton, Desmoulins,.. Cuộc cách mạng Pháp khởi đầu cho một kỷ nguyên của thế giới: Cách mạng công nghiệp và sự bành trướng của các đế quốc Âu châu trên thế giới và hơn một thế kỷ sau, cũng những tư tưởng của Jean Jacques Rousseau, Voltaire, Diderot và những người sau như Karl Marx, Engels đã giúp các thuộc địa đứng lên, đánh lại các nước cai trị họ để dành lại chủ quyền dân tộc.

Các nhà cách mạng Pháp lật đổ được chế độ quân chủ nhưng chưa quen hay biết cách sinh hoạt theo quy định dân chủ nên cãi nhau rồi bắt kẻ đối lập của mình, đem lên máy chém mặc dù kêu gọi tự do, bình đẳng rốt cuộc ông Bonaparte Napoleon, một sĩ quan ở hải đảo Corse, cướp chính quyền, tự phong là hoàng đế, khởi đầu cuộc chinh phạt của đế quốc Pháp khắp năm châu và kết thúc khi đoàn lính của Hitler tràn ngập kinh đô ánh sáng.

Các thuộc địa thấy Pháp quốc bị chiếm đóng bởi Đức quốc xã trong vòng mấy tuần lễ nên không còn lo sợ đến sức mạnh của thực dân, muốn dùng cơ hội này để dành độc lập. Một số người Việt sinh sống tại Pháp quốc như ông Nguyễn Khắc Viện, dạo đó được xem là “Petit Hochiminh”, chạy sang Đức quốc để hợp tác. Sau này, khi Đức quốc Xã đầu hàng thì người Pháp đuổi cổ ông Viện và một số người khác trở về Việt Nam vì tham gia chống nước Pháp.

Học lịch sử tây từ bé thì thầy giáo nói là dân ở tù trong ngục Bastille đông như quân Nguyên, qua tây đọc tài liệu thì được biết là người dân nổi loạn chạy vào ngục để tìm thuốc súng để chống cự với lính của vua, chớ không phải đeer giải cứu tù nhân. Cho thấy lịch sử được nhét vào đầu chúng ta chưa chắc là đúng sự thật, phải cần tìm tòi , đặt lại câu hỏi.

Tuần này, báo chí đăng tải bên Cuba biểu tình. Cuba ngày nay tương đối khá hơn trước, có một số làm ăn với ngoại quốc, du khách viếng xứ này nhiều nên bắt đầu có một giai cấp mới giàu có và họ bắt đầu lên tiếng đòi hỏi thêm về cải tổ chính trị. Intenet đã cho họ thấy những gì khác ở ngoài Cuba biết đâu năm 2021 sẽ là cái mốc của sự phá ngục Bastille của Cuba.


Nguyễn Hoàng Sơn 

Sơn Đen đi Sài Gòn

Hôm nay được xem là đúng 50 năm mình rời Việt Nam đi Tây nên nhắc lại những ngày tháng về Sàigòn sau khi đậu tú tài để lo giấy tờ xin đi du học. Nhớ lại một thời ngu dại của con trai tỉnh nhỏ vùng cao nguyên xuống thành đô.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ


Mình học mấy câu ca dao này khi xưa nhưng chả hiểu gì cả đến khi đậu tú tài, về Sàigòn, làm đơn xin đi Tây thì mới hiểu ngọn xanh, ngọn đỏ là đèn giao thông ở các ngã tư còn Mỹ Tho thì chưa bao giờ viếng nên chả hiểu chữ "Nhu" nghĩa là gì, có lẽ không xỉn, về nhà không đánh vợ. Dạo ấy không dám hỏi cô giáo sợ bị chửi ngu. Mình chỉ biết là gái Mỹ Tho rất đẹp vì sau này có gặp vài chị kêu là dân Mỹ Tho. Mình thích nhất là quán bán hủ tíu Mỹ Tho ở ngã tư Hàng Xanh. Sau này thì mới hiểu chữ “nhu” là biểu âm “nho” của người miền nam. Anh về học lấy chữ Nho. Cô gái nói tên nông dân như mình, không biết chữ Nho mà đòi theo tán gái Mỹ Tho. Bỏ làm vườn đi học thì 9 tháng 10 ngày cô ta sẽ đợi đẻ con cho mình hay đợi 10 năm tình cũ. Khi xưa, phụ nữ mê ai đi học lắm. “Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ”. Khi xưa học ca dao tục ngữ với cô Liên mấy câu này nhưng chả biết học tiếng tàu với cái bút cái nghiêng ở đâu, để mình đi học, cho gái mê. 

Nhớ dạo mới thi tú tài xong thì đám bạn học, đi Sàigòn hết còn mình thì đợi kết quả xong mới tính. Buồn chả biết làm gì, đi lòng vòng gặp những người lớn thêu dệt, nói chuyện Sàigòn, khiến mình đâm hoảng. Họ kể nào là xuống bến xe, bị móc túi ra sao, đi đường bị giựt đồng hồ thế này, bị bấm dây chuyền thế kia khiến mình thấy lo lo vì mình biết nhiều người chưa bao giờ đi Sàigòn, mà họ ăn đặc sản Quảng Trị, vẫn nổ tưởng chừng như họ chính là nạn nhân. Hề hề hề.
Người kể du đảng ở Sàigòn còn kinh khiếp hơn truyện Kinh Nước Đen của Nguyễn Thuỵ Long, lớ quớ tụi nó chém bằng mã tấu, toàn là dân học bùa ngãi, bùa Miên, dao súng bắn không lủng. Mình ngồi nghe mà trong bụng cứ u chầu u chầu, đánh lô tô hết dám đi Sàigòn. Tương tự sau này, gặp nhiều người chưa bao giờ đặt chân lên Âu Châu nhưng rất rành đường, phong tục của Tây, món ăn của lạ ở Ý,.... Chán mớ đời!

Hồi nhỏ, có lần ông cụ có dẫn mình về Sàigòn trong một chuyến đi công tác 3 ngày nên không nhớ gì lắm. Mình chỉ nhớ là ở nhà Ông Trẻ, trên đường Lê Văn Duyệt, Gia Định. Mình gọi Ông Trẻ vì ông cụ mình kêu bằng bác họ, hơn đâu 3-4 tuổi. Ông người trong họ, di cư vào Nam năm 1954, nhất quyết không vô đạo dù được nhà thờ hứa sẽ cho nhà và đất.

Trong nhà không có cầu tiêu nên mỗi lần đi cầu là phải đi ra ngoài, dùng cầu tiêu công cộng, leo cầu khỉ tương tự trong phim Slumlord Millionaire, chỉ khác là mỗi lần bom rơi là cá tra phóng lên tranh nhau.

Mỗi lần mình oanh tạc xuống là thấy hàng ngàn cái mõm cá bay lên táp táp, trông sợ chúng táp chim lắm. Kinh hoàng. Tối mà đi cầu thì phải đem đèn pin hay nến theo khiến không gian bập bùng khá quái quái điên điên thêm có cá tra táp ngày chưa đủ tranh thủ táp đêm. Người ta khám phá ra là cá tra bên nhà cầu nam thì to béo còn cá tra nuôi bên cầu tiêu nữ thì đói gầy. Cả hợp tác xã họp nhau mấy ngày mà không tìm ra câu trả lời. Cuối cùng có một tiến sĩ đột phá tư duy, khi quan sát là khi bên bên cầu tiêu nữ có hoạt động thì cá chỉ nhìn lên ngắm cái cô các bà, không táp kít như bên cầu tiêu nam, nên đói. Chán Mớ Đời 
Bà Trẻ có cô con gái riêng tên Oanh, hơn mình đâu 3-4 tuổi, tối ngày cứ hát bài "anh đưa em vô chùa, chùa hôm nay có chuối. Anh đưa em vô chùa, nhà sư nhắm mắt nam mô, chúng ta đưa tay bợ chuối, nhà sư nhắm mắt nam mô, chúng ta đưa tay bợ soài. Em thấy không em, anh thấy không anh, ôi chôm chôm, soài soài ngọt ngọt,...". Hình như lúc mình gần đi Tây thì bà Trẻ mới sinh một người con trai thì phải khiến ông Trẻ ăn mừng lớn lắm, mình không nhớ tên. Sau này về Việt Nam thì mình không có cơ hội gặp lại, hình như ông mất sớm. Trước khi mình về lại Việt Nam.

Mình nhớ ông cụ cho đi xe cyclo đạp và cyclo máy sơn xanh vàng như xe taxi hiệu Renault. Nghe nói dạo đó Sàigòn có đâu 6,500 chiếc xe cyclo. Chiếc cyclo này do một ông Tây, tên Pierre Coupeaud, sinh quán vùng Charente, Pháp, di cư sang Kampuchia, thuộc địa của Pháp, sáng chế ở Pnom Penh vào năm 1937. Năm 1939, ông ta đem qua Việt Nam bằng cách quảng cáo, cho hai người thay nhau đạp từ thủ đô Kampuchia sang Sàigòn, dài trên 200 cây số và tham gia cuộc chạy đua xe đạp ở Sàigòn. Thời đó, Tây hay cho tổ chức các cuộc tranh tài thể thao ở Đông Dương như vòng đua xe đạp Đông Dương với những ngôi sao như Phượng Hoàng Lê Thành Cát hay các cuôc đấu quyền anh với Minh Cảnh,..nhằm ru ngủ lòng yêu nước của thanh niên 3 xứ bảo hộ.

Đậu tú tài thì mình về Sàigòn, một thân một mình trên chiếc xe đò Minh Trung với những mẫu chuyện khét tiếng của những người dân Đà Lạt, chưa bao giờ đi Sàigòn hay có đi vài ngày kể, khiến mình ngồi xe đò cũng ớn da gà. Đến bến xe Sàigòn, thì mình thấy xe chưa dừng mà Thiên hạ chạy theo kêu mua kêu bán khiến mình càng hoảng hơn. Cuối cùng mình kiếm được một anh xe ôm nhờ chở về 113 Bà Huyện Thanh Quan, chỗ cây xăng chính phủ, địa chỉ của bà dì mà mình cứ lặp đi lặp lại bao nhiêu lần trong xe đò từ Đà Lạt xuống Sàigòn. Mình muốn nói sao cho thuộc, cứ như là nhà mình để cho tên xe ôm tưởng mình là dân Sàigòn. Về tới nhà bà dì, mừng hết lớn, vì trên đường đi, mình cứ sợ tên xe ôm, chở mình tới bãi vắng để trấn lột như những câu chuyện được Thiên hạ kể. Mình ở với bà dì vài ngày thì dọn về Hàng Xanh, nhà mệ ngoại thêm được bà dì cho mượn chiếc xe đạp mini.

Thằng em họ, con bà dì, rủ mình đi tham quan phố Sàigòn, kéo mình đi xi nê ở Mini Rex. Tụi nó nói có máy lạnh, mình ngồi trong rạp, cứ nghe tiếng máy lạnh xè xè từ trần nhà xịt ra hơi khói mà phải công nhận đã thật. Mình mua ghế nào thì vào rạp được chỉ đúng ghế chớ không như ở rạp Ngọc Lan hay Ngọc Hiệp, lúc mở cửa khán giả ùa vào như ong vỡ tổ, tranh nhau dành ghế la bai bải, đúng là dân Sàigòn văn minh thật. Ghế ngồi thì khá hơn mấy rạp ở Đà Lạt. Ngồi xuống thấy nó lún xuống, có nệm chớ không phải như ghế gỗ ở rạp Ngọc Lan, Ngọc Hiệp. Rạp Hoà Bình thì có ghế bọc da simili vàng đỏ xanh nhưng không bằng rạp này. Ở ngoài trời nóng kinh khủng, vô trong thấy mát rượi, khi nào về Đà Lạt tha hồ mà nổ với mấy tên đã nổ với mình trước đây về Sàigòn. Nói tới ghế rạp xi nê, ở Paris, trên đại lộ Champs Elysees, có một rạp khá to, khi ngồi xuống ghế thì từ từ nó lún xuống tuỳ theo độ nặng của người ngồi, êm không thể tả. Mình hay đi rạp này vì nhà ở gần khu này, có bán vé giá sinh viên, chỉ đi bộ 20 phút. Tháng 10 vừa rồi về Paris thì rạp này đóng cửa vì dân Tây hết đi xi-nê.

Thằng Nguyên cũng mượn người quen được chiếc xe đạp nên hai thằng lang thang ngoài Sàigòn dưới trời nắng. Hắn rủ mình đi gặp tên Dân đang ở nhà bà chị tên này, nếu mình không lầm ở đường Nguyễn Huệ, thời Tây gọi là Boulevard Charner. Tên này về Sàigòn, ở nhà bà chị trong một chung cư cao ốc thuộc loại cao cấp, có thang máy. Đà Lạt dạo ấy có khách sạn Thuỷ Tiên cao nhất Đà Lạt với 4 tầng lầu, còn ở đại lộ này mình thấy các toà cao ốc cao ngất tận trời xanh. Lần đầu tiên đi thang máy, mình hơi lo, hỏi thằng Nguyên đủ thứ, cái thang máy có bao giờ đứt dây cáp, cúp điện,.., làm tên này cười quá cỡ, bảo mình vừa dốt vừa ngu, không hiểu sao lại đậu tú tài, chắc trời ị trúng đầu mày.

Thấy thằng Nguyên ấn cái nút màu vàng, đâu một phút sau thấy có cái bóng đèn từ trên trời chạy xuống rồi nghe cái phịch. Tiếng cửa mở lục đục rồi cái cửa sắt được kéo cái rẹt rẹt rẹt, mình thấy hai cô con gái đẹp như tiên bước ra khiến mình há hốc cái mõm. Thằng Nguyên kêu gọi vào nhanh lên nên chạy vào. Thấy nó kéo cửa sắt lại, đóng cửa ở trong rồi bấm số trên cái bảng rồi cái phòng nghiêng qua nghiêng lại như có ai kéo lên thêm cái bóng đèn lắc lư khiến mình đâm hoảng, chắc ma nhát khiến thằng Nguyên cười như điên. Tên này về Sàigòn thường nên khôn hơn mình.

Lạ một điều là ở Đà Lạt, mình thấy tên Nguyên, tên Dân không có gì đặc biệt nhưng về tới Sàigòn, chúng bỗng đổi xác, trông chúng khôn lanh hơn mình. Thấy chúng bạo dạn, biết đủ thứ khiến mình cảm thấy đã ngu lại càng ngu to như tổ tiên của nước Đại Ngu khi xưa. Tên Dân dẫn tụi này ra tiệm Brodard ngồi uống nước, ăn bánh. Tiệm nằm ngay góc đường Tự Do mà thời Tây gọi là Catinat, tên của một chiến hạm đã có công đánh chiếm Nam Kỳ Lục tỉnh, sau này sang Tây thì được biết Catinat là tên một tướng danh tiếng của Pháp hình như thời vua Louis 14.

Ở Đà Lạt, khi mình có tiền thì hay đến rạp Ngọc Hiệp ăn xắp xắp và ăn đậu đỏ bánh lọt của hai ông Tầu còn không thì kéo đòn ăn bánh căng ở ngoài chợ, vừa bình dân học vụ, vừa rẻ. Lâu lâu, đi ngang qua tiệm Chic Shanghai ở khu Hoà Bình, cứ ước gì một ngày nào đó được vô đây ngồi như các đại gia của Đà Lạt thời đó. Lần đầu tiên được vô một tiệm sang trọng tên tuổi mà mình thường nghe hay đọc báo nói đến nên mình ngồi khúm núm, e dè sợ sệt như chị Dậu khi gặp các quan dê trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Trong khi tên Dân có vẻ đến đây thường xuyên nên ngồi gác chân, gác cẳng trông rất hoành tráng như đại ca Thay, khiến mình đã phục hắn lại càng ngưỡng mộ nó thêm bội phần.
Cô tiếp viên ra hỏi mấy anh dùng gì làm mình hoảng quá chả biết kêu cái gì vì tên trong thực đơn toàn là chữ Tây, chữ Tàu. Mình kêu chai nước cam rồi đợi thằng Dân gọi để học hỏi. Tên này gọi nước uống và đề nghị gọi chung một đĩa bánh Tây ăn chung thì cả đám nhất trí ngay vì toàn dân i tờ từ Đà Lạt xuống núi. Khi họ đem nước ra và đĩa bánh mà cả đời chưa bao giờ thấy. Chai nước cam của mình có cái ống hút xanh xanh đỏ đỏ trắng. Mình lấy một miếng bánh lên cắn một cái. U chau sao mà nó ngon kinh hồn. Cái bánh này chưa bao giờ thấy ở Đà Lạt cho nên chắc chắn chưa bao giờ được ăn. Vừa để cái bánh tan trong miệng vừa nghe tên Dân kể về Sàigòn tương tự nghe Công Tử Hà Đông, Doãn Quốc Sỹ, cứ phong cho hắn cái chức công tử ấp Hà đông Đà Lạt.

Cả đám ngồi nghe tên Dân nói về Sàigòn, tiền bạc để ở đâu để khỏi bị móc túi, đeo đồng hồ thì đeo ngược lại để tụi cướp giật không chụp được cái đồng hồ vì nằm phía trong cổ tay..., mình như con chiên nghe cố đạo giảng đạo, cứ há mồm ra uống từng lời của nó. Hắn kể chuyện đi ngủ với gái ở Gò Vấp, địa danh mình chả biết ở xứ nào nhưng thằng Nguyên thì có vẻ thích kêu thằng Dân dắt đi. Lâu lâu hắn ngừng, lắc lắc nhẹ nhẹ ly nước, nhìn vào tận đáy ly như Mỵ Nương khi xưa nhìn cái chén làm bằng trái tim hoá ngọc của Trương Chi, rồi ngửa mồm lên trời uống cái ực như Huỳnh Thanh Trà trong Loan Mắt Nhung. Đặt cái ly xuống, hắn lại tiếp tục nói, bỗng nhiên có một tên đánh giày bò lại, hỏi hắn, có lẽ thấy hắn gác chân gác cẳng, có vẻ là đại ca của cả nhóm; anh đánh giày không thì hắn từ từ đưa lên cái chân mang dép cho thằng bé xem. Thằng bé đánh giày tiu nghỉu nhưng cố đánh cú chót, xin miếng bánh vì đói quá, sáng giờ chưa ăn thì tên Dân hất hàm đồng ý. Thằng bé vừa bước ra khỏi tiệm là thằng Dân bảo mọi người lấy bánh ăn mau. Cả đám chả hiểu gì cả, nghe lời tên này, tay lấy bánh ăn ngồm ngoạm tay kia bỏ túi thì đâu có 5-6 tên đánh giày mở cửa đi vào, chạy lại bàn xin bánh thì thằng Dân, miệng ngồm ngoạm, chỉ cái đĩa không, khiến mấy tên này bỏ đi ra không quên đm, đc cả đám.

Thằng bé đánh giày xin được miếng bánh, đi ra ngoài khoe mấy tên khác nên cả đám chạy vào. Thằng Vui, cũng dân Đà Lạt, cháu chồng của bà dì mình, gục gặc gục gật kêu thằng Dân khôn quá. Tên Lê công Vui này ở ấp Ánh Sáng, học THĐ, hình như nó xin đi Nhật vì có ông anh tên Lê Công Phú đi học bên ấy sau Mậu Thân. Mình nhớ có đến nhà chơi trước khi anh hắn đi du học. Bà mẹ tên Cháu, bán mắm ruốc ở chợ Đà Lạt mà nuôi con đi du học, khâm phục. Bà có đâu 10 người con, có một thằng tên Lê Công An, học Trần Hưng Đạo, qua Mỹ đổi tên lại thành Police Le, còn thằng em tên Vui đổi tên lại thành Happy Le nay đều ở bên Mỹ cả. Mình có gặp lại một lần đám cưới con bà dì mình là mợ của hắn. Khi xưa nhà mình ở Ấp Ánh Sáng, cạnh nhà bà Cháu, dì mình từ Huế vào Đà Lạt, ở với nhà mình thì phát hiện ra mối tình hữu nghị với cậu của mấy tên này.

Mình gặp tên Dân này có 1 lần ở Sàigòn sau đó thì hắn về Đà Lạt, ghi tên học chính trị kinh doanh. Trong mấy tên mình quen ở Đà Lạt, thì có 2 tên Dân và Đa được mình xếp vào hạng cao thủ, lanh lợi nhất trong đám quen, học chung, có lẽ hay đi Sàigòn, chung đụng với dân thành phố lớn nên so với dân Đà Lạt, cả đời chưa bước ra khỏi thị xã như mình thì hai tên này được xem là đại khôn lanh. Nay cả hai đều ở Hoa Kỳ, rất thành công. Mình cứ ước gì khôn lanh chỉ cần 1/3 của hai tên này.
Tên Dân này có cái tài ăn tài nói, cứ gặp hắn là nghe hắn nói nói nói như cái loa phường sau 75. Hắn chịu khó đọc sách linh tinh như bói toán Tarot, tử vi,...rồi cứ đè mấy cô mấy cậu ra mà chấm tử vi bú xua la mua khiến thằng nào con nấy đều tin như sấm. Hắn nói rất hay, rất thuyết phục, không thua gì thầy bói nên thằng nấy con nào cũng gật gật cái đầu.

Chả biết nó học ở đâu câu "gầy là thầy cơm", mẹ thằng Nguyên mời đám bạn của nó ở lại dùng cơm, hắn đẩn một phát 3 chén cơm rồi phán câu tục ngữ trên khiến mình nhớ đời trong khi mọi người chưa xong chén thứ nhất. Hôm trước, anh thằng Nguyên hứng đời, kể nhà hắn nghèo ở Đà Lạt khiến mình thất kinh. Mình ăn cơm nhà thằng Nguyên với thằng Dân biết bao nhiêu lần, mâm cơm lúc nào cũng thịt thà đủ thứ. Vào nhà bạn là biết nhà nghèo hay giàu, chỉ nhìn lên mâm cơm hàng ngày. Vào nhà thằng Hùng, bố nó là bác Lê Công Oai, chuyên gia bắt Việt Cộng nằm vùng của trung tâm thẩm vấn, thấy ăn toàn su luộc, chấm nước mắm dầm 1 cái trứng hột vịt. Nhưng nghèo nhất là năm đậu tú tài, mình xuống Phan Rang, đến nhà Trịnh Ngọc Dũng, ở quê, ăn cơm gạo mua với sổ gia đình, dỡ không thể tả, chỉ có cải luộc chấm với nước mắm. Không có hột vịt như nhà thằng Hùng.

Nhà hắn ở Tăng Văn Danh nên chiều chiều hay đứng xa xa trong hẻm để ngắm nữ sinh Bùi Thị Xuân tan trường. Hắn để Ý đến một cô tên Nhung ở đường Phạm Ngũ Lão. Cô này có cặp mắt đẹp không thể tả, chỉ điều người hơi đẫy đà. Cư xá công chức này có nhiều giai nhân dạo đó như Liên học Couvent sau này lấy thằng Đa, Hiền học Văn Học. Hắn với một tên Bắc kỳ khác, hay đứng dù mưa gió mỗi buổi chiều để nhìn cô nữ sinh Nhung mắt loan đi qua nhà rồi chạy xuống bùng binh Hải Thượng- Phan Đình Phùng đứng ngắm lần cuối.

Sau này lên đại học Đà Lạt, mình lại khám phá ra hắn là một thiên tài về ca nhạc, hắn đánh đàn thì thuộc loại thường, không nhuyễn như Nguyễn Đình Tài nhưng trời lại ị trúng đầu, biết làm thơ rồi phổ nhạc.

Đại loại nhạc kiểu Lam Phương nhưng phảng phất sinh viên tính đại loại như "tàn mùa mưa cũng tàn mùa hè, cùng nhau gặp lại giảng đường Spellman,.." Dạo ấy, tuổi 18 biết đánh đàn là Hot Boy mà hắn lại chơi thêm màn phổ nhạc như Đức Huy hồi còn bé nên được nhiều cô sinh viên để ý lắm. Sau này hắn rủ vài tên trên đại học thành lập đoàn kịch nói, hắn rủ mình đến họp thì thấy nhiều em chân dài nhất là có 2 chị em rất xinh. Họp hành chỉ thấy mấy tên đực rựa ngồi khen cặp đùi của hai chị em rồi suýt xoa u chau u chau, nước miếng tràn ra mép môi, nức nở đến khi hai chị em cô này đến trễ, kéo ghế ngồi thì chả có thằng nào đứng dậy, kéo ghế cho chị em Thuý Kiều ngồi, thằng nào thằng nấy câm như hến như bị bắt quả tang ăn vụng. Chán mớ đời! Hình như hai chị em này ở đâu trên đường Ngô Quyền. Mình chỉ gặp có một lần rồi mình đi Tây nên không nhớ tên tuổi gì cả.

Hắn muốn đóng vai Thành Cát Tư Hãn trong vở kịch của NCH, hắn say sưa nói về cách diễn xuất của mấy tên nào mà cả đời mình chưa nghe đến, đại loại phải tân hiện đại hoá nền kịch nói của Việt Nam cho theo kịp nghệ thuật sân khấu của thế giới, phải đem Phật Giáo và Thiền vào nền kịch nghệ đương đại, đi theo con đường của Hermann Hesse,... mình cứ như bò đội nón. Cả đời chưa bao giờ xem kịch, có xem tuồng cải lương Song Long Thần Chưởng ở rạp Ngọc Hiệp, thấy Út Bạch Lan đánh chưởng xì khói đầy sân khấu, nay lại nghe nói chớ không ca vọng cổ nên hơi lo. Mình đoán hắn rủ mình đi họp để có người nghe hắn nói chớ mình đâu có tài gì ngoài ăn. 

Mình có một anh bạn, từng sống 19 năm bên Tây trước khi qua Hoa Kỳ. Có tính hay nói như tên Dân này. Ngồi ăn là anh ta nói từ đầu đến cuối. Tháng 2 vừa rồi, về Sàigòn thì có đi ăn với mấy bạn học cũ Yersin khi xưa thì gặp lại tên Dân này, nghe nói về Việt Nam làm việc, hay kiếm chân dài chi đó, không thay đổi cứ nói từ đầu đến cuối như xưa. Có cô bạn xưa, nói ông kể kể chuyện Mậu Thân ở khu Hoà Bình, chiếc xe Jeep bị bắn B-40. Bố tôi ngồi trong xe đó, và lăn xuống cầu thang chợ để tránh bị Việt Cộng núp trên Hoà Bình bắn. Hóa ra bố cô nàng là vị thiếu tá sống sót. Đời nhiều cái lạ, có lần có người Đà Lạt gửi cho mấy tấm ảnh thẻ học sinh Yersin thời xưa, mình tải lên mạng thì có cô bạn, gọi hỏi mình lấy hình của cô ta ở đâu ra khiến mình thất kinh. Đâu có biết là cô nàng vì thấy sinh trước mình 2 năm, thêm Tây đâu có viết tên bỏ dấu, đâu ngờ lại học chung niên khoá.

Trước con gái đẹp thì đâu dám hỏi sợ lộ cái ngu nhưng lâu lâu cũng phải gục gật, gục gà như gà mổ trúng con sâu làm như mình hiểu lắm, đã quán triệt vấn đề, cái vấn nạn của nghệ thuật Việt Nam, tuột hậu so với trào lưu thế giới. Mắt mình cứ nhìn trộm hai chị em nhất là cặp chân dài dưới bàn mà trước đó được nghe mấy tên này diễn tả. Mình lại khám phá những tên khác ngồi chung bàn cũng có những hành vi bất xứng trước Thành Cát Tư Hãn, cũng ngắm trộm hai giai nhân độc nhất của buổi giảng thuyết về Hoàng đế Mông Cổ. Hiện thực với hiện đại cứ nhìn cặp giò chân dài là quá hiện thực. Hề hề hề. Có một tên học năm thứ hai, có chiếc xe Lambretta hai bánh, dành chở hai chị em về nên mấy thằng chán mớ đời. Chưa kịp mơ đã thấy đau buồn, kéo mấy tên trở về với đương đại của đời sống.
Mình chả biết hay thích văn nghệ, kịch kiết gì cả nhưng nghĩ coi kịch thì chắc sẽ phải bán nước, chè,... Năm 12 B mình làm trưởng lớp, tổ chức với đám lớp 12 C làm văn nghệ, bán chè bán nước lời to nên mình tính sẽ hỏi thêm về vụ này để xung phong, đứng ra gánh cái quán quốc doanh này làm ra tiền. Làm cái gì ra tiền thì mình thích chớ đóng kịch nói, làm quân hô hoan hô đại hãn Dân thì mình cà lăm. Mình thuộc loại thời cơ chủ nghĩa nhưng họp được 1 lần thì mình nhận nghị định được đi du học nên về Sàigòn hôm sau. Tuần sau đi Tây. Sau này năm 1986, sang Mỹ chơi thì có ghé nhà tên Dân, có gặp người anh của Andrew Lâm, cũng dân học Yersin, ở lại vài ngày ở San Jose. Lúc thằng Nguyên chết, vợ nó nhờ mình báo tin cho thằng Dân nhưng không ai có số điện thoại của nó. Gia đình nó là hàng xóm với thằng Nguyên, nên mình chỉ biết tin của nó qua thằng Nguyên lúc còn sống.

Nhớ lần đầu tiên đi kiếm thằng Đa ở Sàigòn. Không nhớ nó ở nhà ai, hình như nhà thằng anh bà con tên Trần Văn Hoà, có thời học chung lớp Yersin, tập Vovinam với mình ở trường Nữ Công Gia Chánh. Có lần tên này bị mấy tên con nhà giàu vây đánh nhưng không thằng nào đánh nổi hắn. Nghe kể hắn nay rất giàu có ở Việt Nam.

Mình với thằng Nguyên đạp xe vô hẻm để kiếm nó, hai thằng mặt đều cúi gầm, đâu dám kênh kiệu, bỗng có ai kêu ê ê hai thằng kia đứng lại khiến hai thằng run rẫy, hồn vía lên mây quay lại thì thấy thằng Đa đang ngồi với một đám đầu trâu mặt ngựa. Hai thằng mừng hết lớn tưởng bị dân Sàigòn đánh hội đồng. Hắn rủ hai thằng đi chơi. Thằng này là ma xó chỗ nào nó cũng biết. Viết về cuộc đời thằng này thì cần ít nhất 3 tập. Hôm nào buồn đời mình sẽ kể về đời tên này từ Đà Lạt xuống Sàigòn sau 75 rồi vượt biển đến nay. Rất tốt với bạn bè.

Ngồi sau nó để nó đạp chạy vòng Sàigòn. Nhờ đi với nó vài lần mình bắt đầu định vị được vị trí của Sàigòn nên bớt lạc. Dạo đó ngu không mua cái bản đồ Sàigòn thì khỏe. Mình hỏi nó biết nha du học chỗ nào thì nó bảo mai nó ghé lại chở đi. Hôm sau nó ghé lại chở mình lên nha du học đâu ở đường Lê Thánh Tôn để mình xin hồ sơ du học và thủ tục cần thiết. Sau đó thì mỗi ngày nó đạp xe qua nhà mình chở đi chơi dạo Sàigòn.

Lâu lâu thấy cô nàng nào xinh xinh thì hắn đạp xe thục mạng, chạy bên rề rề hỏi chuyện. Có hôm gặp một cô, chửi thề bảo mới sáng sớm ra đường đã gặp cô hồn khiến hai thằng quê quá, đi uống nước mía. Đi chơi với thằng Đa thì hợp túi tiền hơn đi với thằng Dân, vừa bình dân vừa ăn chậm rãi, không sợ đánh giày chụp giựt. Thằng Đa ở Sàigòn vài tuần rồi về quê nội ở Long Xuyên chơi thêm trước khi về lại Đà Lạt ghi tên học Toán Lý Hoá. Còn mình thì về Đà Lạt lo hoàn tất hồ sơ xin du học.

Khi nhận nghị định được đi du học do Hùng Con Cua ở Sàigòn gửi lên thì mình về lại Sàigòn sáng hôm sau. Lần này thì mình biết đường biết xá nên không sợ sệt như lần đầu, kêu Bác tài đổ mình xuống Hàng Xanh, rồi đi bộ vô nhà Mệ Ngoại, đỡ tốn tiền đi xe ôm. Mình lại khám phá ra cách đi xe đò không tốn tiền. Đúng là đi đây đi đó cho biết đó đây, ở nhà với mẹ biết chừng nào mới khôn. 

Đào Văn Sơn, đai đen Nhu Đạo, học trò của cậu Ân của mình, tập võ ở hãng cưa ông Xu Huệ với mình mỗi sáng, bảo thằng Quý em anh ta, phải như thằng Sơn thì ra ngoại quốc mới sống sót được, cỡ mày đi ngoại quốc chỉ ngồi khóc. Mình chả hiểu anh thằng Quý nói cái gì, mình chỉ đợi cơm chín là ăn. Thằng Quý đậu tú tài Pháp với mention Assez Bien, muốn xin đi Bỉ nhưng người quen bên đó không chịu bảo lãnh. Sau 75, nó bỏ học đại học khoa học Sàigòn, về Đà Lạt chạy xe ôm tới ngày nay. Mình về lần đầu có gặp lại nhưng mấy lần sau thì kiếm không ra. Dọn nhà.

Thằng Quý, nhà đường Tăng Bạt Hổ, ông bố có chiếc xe đò màu vàng chạy Đà Lạt Djiring hàng ngày. Hắn đậu Tú Tài thì về Sàigòn, học khoa học, ở với ông anh cũng sinh viên, nhà ở cư xá Thanh Đa. Chỗ này gần sông Sàigòn nên khá mát, mình có ghé thăm gia đình cô hàng xóm "Ừ trời mưa" đã dọn về Sàigòn hai lần cũng ở cách nhà thằng Quý một lô. Dạo đó khu này mới xây nên chả có phố sá gì cả, sau này mình về thăm Việt Nam lần đầu, có ghé lại thăm gia đình này thì tìm rất khó ra, tiệm ăn tấp nập xô bồ.

Bà dì của mình tịch thâu lại cái xe đạp, bảo mình không lau chùi xe nên thằng Quý nói để tao chở mày ra bộ nội vụ để làm sổ thông hành rồi toà đại sứ Pháp xin chiếu khán. Chạy qua khách sạn Majestic, có văn phòng Air France, có gắng máy lạnh mát rượi, hỏi xem các chuyến bay rồi hôm sau, đi xe đò miễn phí về Đà Lạt. Ngày đó là 25/12/1974 đến hôm nay là tròn 50 năm.

10 ngày sau, mình trở lại Sàigòn lần cuối bằng máy bay từ Liên Khương xuống Tân Sơn Nhất. Ngày hôm sau mình lên máy bay rời Việt Nam lần đầu và 20 năm mới trở lại thành phố ấy nay đã đổi tên.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo phơi nắng Sơn đen 
Nguyễn Hoàng Sơn

Đi Maroc

Nguyễn Hoàng Sơn

Hè năm sau mình quyết định đi Maroc, Phi Châu nên sau niên học là chuẩn bị ba lô lên đường. Hồi nhỏ có coi phim L' homme de Marrakech ở rạp Ngọc Lan, sau này qua Tây có coi phim Casablanca nên cứ khắc khoải đi viếng xứ này cho thỏa chí.

Từ Paris mình đi xe lửa xuống miền nam đến Avignon, mùa hè thành phố này có festival về kịch nghệ nhất là để xem cái cầu mà hồi nhỏ mấy bà thầy dạy hát Sur le pont d'Avignon, on y danse,... Cái cầu này ngày xưa có 22 nhịp nhưng nay còn lại có 4 nhịp. Mình có ngồi bên bờ sông Rhône để vẽ thành phố cổ này mà thời Trung cổ là nơi các Đức giáo Hoàng cư ngụ sau này vì tranh dành quyền hành, chống đối Nội Bộ, bầu bán hai đức giáo hoàng một sống tại đây và một sống bên Ý và nhóm ở bên Tây mất dần ảnh hưởng nên công giáo Tây Âu ngày nay chỉ còn một người đứng đầu của giáo hội nên các Đức giáo Hoàng sau này cư ngụ tại

Đi Hy Lạp

Nguyễn Hoàng Sơn

Mỗi lần nói đến Hy Lạp là mình nhớ đến cuốn phim "La colère d' Achille " và "Les canons de Navarone" xem ở rạp Hoà Bình. Mình mê nhất cuốn đầu nói về Achille, mình đồng da sắt vì hồi nhỏ mẹ ông ta tắm ông ta trên một dòng sông Styx. Sau ông ta đi đánh thành Troie rồi cãi nhau với Amagamnon, không thèm ra trận nên người bạn Patrocle lấy áo giáp của ông ta ra trận bị giết khiến ông ta nổi giận hét ầm ĩ khiến binh lính đối phương run sợ và giết hoàng tử Hector trước thành Troie và cuối cùng chết vì Pâris bắn tên vào gót chân theo lời chỉ dẫn của thần Apollo.

Đi Hoà Lan

Nguyễn Hoàng Sơn

Dạo còn sinh viên mình hay làm hướng dẫn viên cho hội "Auberges de la jeunesse" ở Paris vào dịp nghỉ lễ. Bên Âu Châu, có hệ thống "quán trọ thanh niên" tại các tỉnh để giúp giới trẻ đi du lịch rẻ tiền. Chỉ cần làm thẻ hội viên là có thể ngủ lại các quán trọ này. Nhiều khi phải quét nhà, chùi dọn phòng tắm khi ghé lại các nơi này nhưng cái thú là rẻ và gặp nhiều nhóm trẻ khác, để chia sẻ kinh nghiệm du lịch nhiều khi rủ nhau đi chung một chặn đường. Mình gặp nhiều người mà sau 40 năm vẫn còn liên lạc. Công việc của hướng dẫn viên thì không có gì khó khăn, chỉ cần biết ngoại ngữ để hỏi đường, lo giấy tờ, chia phòng cho các nhóm trẻ đi du lịch, trong xe buýt thì kể về lịch sử các thành phố thăm viếng, kể chuyện tếu lâm, làm cho không khí trong xe vui vẻ, giúp mọi người làm quen nhau. Vừa được đi chơi vừa được trả tiền.

Nhìn lại thì thấy lạ, trong xe buýt thì cả đám Tây đầm lại nghe một tên mít nói

Đi Anh

Nguyễn Hoàng Sơn

Mình đi Anh lần đầu khi học năm thứ 4. Thấy trong trường có quảng cáo chương trình ăn ở với người địa phương giúp sinh viên trau dồi Anh ngữ nên mình ghi tên đi hai tuần. Mình lấy xe lửa đến Rouen, cảng vùng Normandie rồi đi tàu qua vịnh Manche đến Plymouth rồi được ban tổ chức rước lên xe buýt chở về Luân Đôn. Thật ra là vùng ngoại ô, cách trung tâm thành phố độ 30 km. Xe chạy trên xa lộ thấy hơi lạ vì chạy bên trái nhưng không hiểu lý do còn bên Nhật thì chạy xe bên trái vì khi xưa các kiếm khách luôn luôn đi bên trái để thủ và dễ rút kiếm. Có sách nói là ngày xưa khắp Âu Châu ai cũng đi ngựa bên trái vì thuận tay phải nên dễ rút gươm ra nhưng sau này Hoàng đế Napoleon lại thuận tay trái nên ông bắt lính Pháp đi bên phải để dễ nhìn nên từ đó các nước Âu Châu chạy xe ngựa bên phải còn Anh quốc thì vẫn giữa bên trái. Các thuộc địa cũ của Anh quốc đều lái xe bên trái ngoại trừ Hoa Kỳ vì chính phủ cách mạng muốn tẩy hết dấu vết của Anh quốc.