Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt

 Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt #3

 

Nhiều khi nhìn những tấm ảnh Đàlạt xưa, khiến mình tưởng tượng về Đàlạt thời mới khái phá, hoang vu. Không có người kinh, chỉ có các bộ lạc người thượng sống bình yên tại đây lâu năm. Như châu mỹ trước khi bị người Tây phương xâm chiếm.


Cứ tưởng tượng người thượng khi gặp mấy đoàn người Âu châu lên đây săn voi hay cọp với những tiếng nổ chát chúa từ nhưng khẩu súng trường, so sánh với những mũi tên của họ như người xứ Inca, khi mới gặp mặt lần đầu các binh sĩ của triều đình Tây BAn Nha và dần dần dân tộc của họ bị tiêu diệt.


Dạo mình ở Đàlạt, thấy người thượng, đem ngo và lan rừng ra bán ở chợ cho người Việt. Có dạo bà cụ mình mướn họ để làm rẩy khi mua 2 mẫu đất trong Suối Tía để làm vườn. Tuyệt nhiên mình không có bạn là người thượng vì dạo ấy rất ít. Nghe nói trường Văn Học có vài người thượng, được khuyến khích đi học. Mình chỉ nhớ 2 anh chàng người thương to lớn đá banh cho đội Văn Khoa.


Có lẻ họ bị tuyệt giống khi người Pháp bắt họ phá rừng, phá núi để thành lập khu nghỉ dưỡng cho công chức, binh sĩ của họ với giấc mơ xây dựng một chính quyền trung ương Đông Dương tại Đàlạt. La grandeur de France.


Trong thời gian ông cụ mình ở trại cải tạo Đại Ninh, đi thăm nuôi, xe bị hư nên được mấy người Chu-Ru mời bà cụ và mấy bà đi thăm nuôi chồng con vào buông của họ để ngủ qua đêm. Sau này, nhớ ơn họ mình giúp đỡ, tặng xe đạp cho con cháu của họ. Khi xưa, ở Đàlạt mình chỉ nghe nói đến người Mọi, sau về Đàlạt lại mới nghe đến người Chu-Ru. Có anh bạn đi dạy 5 năm trời ở trong Buông Chu-Ru, kể chuyện xôm trò. Khi xưa học địa lý với thầy Hứa Hoành, nghe nói có nhiều bộ lạc người thượng ở Việt Nam như Ra-đê, Mọi,... nhưng chả bao giờ nhớ.


 Năm 1904, ông Pierre Dru, một địa-phương-quân (Garde indigène), mình đoán là lính Tây, kiểm soát người thượng và người kinh tại Đàlạt, để bảo vệ người Pháp ở cao nguyên kể: Đàlạt có nhiều đồi cỏ thấp; mỗi đồi có một căn nhà bằng gỗ, tiện nghi hơn căn nhà ông ta được bố trí.


Dạo ở Đàlạt đồi cù ít cây lắm, trơ trọi vài cây thông. Có lẻ khi xưa, các đồi vùng này cũng tương tự, chỉ người pháp đến mới trồng thêm. Nay thì Việt Cộng chặt hết cây như thể muốn xoá tan hết dấu tích của thực dân tại Đàlạt. Mình không hiểu sao, họ không đặt tên hồ Xuân hương thành hồ Lê Văn Tám, hồ Than Thở thành hồ Võ Thị Sáu,...

 




Trên một ngọn đồi, căn nhà của ông thanh tra địa phương quân, Joseph-Jules Canivey, có vợ là một người phụ nữ âu châu. Một căn nhà của một ông độc thân, làm cho bưu điện. Không biết có phải ngọn đồi nơi ty bưu điện được xây cất sau này, cạnh Hotel Du Parc.

 

Ngọn đồi thứ 3 là của ông Résident supérieur d’AnnamJean Auvergne, nhà cửa sổ, đàn Dương cầm và một bàn đánh bi-da. Ngọn đồi thứ 4, là ông Paul Champoudry, thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. Nói chung các người này chả làm gì ngoài đi săn bắn cọp trong vùng, trong khi các người khác phải lo cung cấp thực phẩm cho họ. Mình có thấy mấy tấm ảnh xưa, cho thấy mấy căn nhà này.



 Đây là những nhà nghỉ đầu tiên được xây cất cho người Pháp lên đây sống tạm


Năm 1902, Paul Doumer muốn thành lập khu nghỉ dưỡng Đàlạt, với ý định trở thành một trung tâm quyền lực của Đông Dương. Lý do để chữa bệnh sốt-rét thì không đúng hẳn vì dân địa phương bị đau ốm mệt thở. Đọc tài liệu do các người pháp được chỉ định đi khảo sát cho ông Doumer thì Đàlạt không đủ tiêu chuẩn để xây một trung tâm nghỉ dưỡng, tốn tiền và sinh mạng do người Âu châu ước đoán là trên 20,000 người Việt. Khiến các bộ lạc người thượng dời đi, chạy trốn sang Lào, vì bị bắt đi phá núi, phá rừng để thành lập con đường lộ và dường sắt dẫn đến Đàlạt. 


Mình đoán con số này còn cao hơn nữa vì mỗi ngày có đến trên 6,000-7,000 làm việc công tác phá rừng, phá núi với những điều kiện không như ngày nay. Ông Trần Tiến có làm bài hát “giấc mơ Chapi” khiến mình nhớ đến các người của mấy bộ lạc ở vùng này bị sát hại khi bị bắt lao động, phá núi phá rừng.

 

Ông ta nghĩ thành lập Đàlạt, để giúp các công chức hành chánh của chính quyền bảo hộ, có thể lên đây nghỉ dưỡng, đem gia đình và con cháu họ học hành tại đây. Do đó trong bản phát hoạ thiết kế đô thị Đàlạt mới có các trường học tiểu học và trung học (Petit và Grand Lycee). Các trường Bảo Long (Trần Hưng Đạo) và (Phương Mai?) Bùi Thị Xuân được thành lập sau này cho con cháu các người Việt làm việc cho chính quyền thực dân, được lấy tên của ông Bảo Đại để đặt tên trường.

 


Bản vẽ tổng quan của thành phố Đàlạt. Ta nhận thấy có 2 hồ mà người Pháp gọi là Petit Lac và Grand Lac được ngăn chia bởi con đường vừa là cái đập nước. Cấu trúc phân chia rõ ràng, khu người Việt ở phía dưới gần mấy con suối như Phan Đình Phùng (Cầu Quẹo) khác hẳn khu người da trắng (trên đồi núi)


 Có lẻ vì vậy mà ông Bảo Đại ra chỉ dụ, biến Đàlạt thành “Hoàng Triều Cương Thổ”, không cho người Việt định cư ở đây, dù vùng này thuộc về Annam, dưới quyền kiểm soát của triều đình nhà Nguyễn. Chỉ có người âu châu mới được phép sinh sống, và người Tàu làm ăn tại đây. Mẹ mình kể là khi vào Đàlạt năm 1948, cần phải có giấy bảo chứng của người cậu bà con.

 

Nhìn bản đồ các con lộ dẫn đến Đàlạt từ Phan Thiết khiến mình hình dung đến cảnh một cô gái Huế, 15 tuổi, đi vào Tourane, ở nhờ nhà bà con, đợi ngày có tàu thủy để vào Phan Thiết rồi từ đó, đi xe lên Đàlạt, mà sau này về Đàlạt, mình có đi lại con đường này với gia đình. Thấy mẹ mình miên man nhìn phong cảnh xung quanh, đoán là mẹ nhớ lại thời vào Đàlạt định cư. Bố mình thì chỉ phía trại cải tạo Đại Ninh, nơi bị Việt Cộng giam giữ 15 năm của đời người.

 


Bản đồ này gợi nhớ đến hành trình của mẹ mình, 15 tuổi đi từ Huế vào Đà Nẳng (Tourane). Lấy tàu thuỷ đến Phan Thiết rồi từ đó mới lên Djiring rồi đến Đàlạt năm 1948.


Một khi Đàlạt được nối liền với Sàigòn bằng đường xe chạy và đường xe hoả thì thành phố này có thể giúp người Pháp bình định lâu dài tại Đông Dương. Nếu rau cải được trồng tại đây, sẽ tạo dựng cuộc sống tương tự mẫu quốc cho các người Pháp định cư tại á châu.

 

Đầu năm 1898, Paul Doumer cử một phái đoàn lên nghiên cứu cao nguyên, do đại uý Thouard và thiếu uý H. Wolf hướng dẫn. Hai người này được lệnh vẽ trắc địa của hai vùng cao nguyên và các đường khả dĩ thực hiện để kết nối với đồng bằng.   

 

Louis Jacquet, giám đốc canh nông của Đông Dương, được lệnh phải thử nghiệm trồng trọt rau cải tại vùng này với ý định, khu nghỉ dưỡng sẽ trở thành nơi cung cấp rau cải cho người Âu châu tại thuộc địa.

 

Kết quả, ông Jacquet cho thấy sự thực hiện trồng trọt tại đây rất tốt. Ngược lại hai ông chuyên gia trắc địa bày tỏ sự lo ngại của kế hoạch xây dựng thành phố núi này. Ngày 29 tháng 1898, ông Thouard than phiền với bác sĩ Yersin là ông ta đã hết tiền để trả lương các cu-li. Ngoài ra cao độ không làm giảm thiểu các bệnh sốt rét. Tất cả các người âu châu trong đoàn đều bị bệnh. Người việt đi theo đoàn, làm cu-li đều bị bệnh. Ông ta kể nếu làm lại cuộc hành trình này thì ông ta phải suy nghĩ thật kỷ thay vì nhận 12 quan pháp mỗi ngày. (365 x 15 = 4,380 quan pháp/ năm).

 

Người Âu châu vào thế kỷ 19, sau cuộc cách mạng long trời lở đất tại Pháp, các nước Âu châu đi tìm tài nguyên để cung ứng cho cuộc cách mạng kỹ nghệ của họ. Họ cần người của họ để cai quản ở bản xứ. Do đó có nhiều người bần cố nông, muốn thoát nghèo nên tình nguyện đi, lập nghiệp rất đông. Hy vọng kiếm một số tiền làm vốn, trở về quê như mấy người Việt Nam đi lao động ở Hàn quốc, Mã-lai, Tàu hay nhiều khi phải chết để sang tới Anh Quốc.

 


Xe hủ-lô kiểu dã chiến khi xưa, thấy dân công người Việt đội nón lá vì người thượng không đội. Làm đường lên Đàlạt . Ông Võ Quang Tiềm và ông Phúng gánh 3 ngày 3 đêm đem đồ bán cho mấy người nhân công này.


 Thay vì xây dựng đường nối kết Langbian với Nha Trang, họ đề nghị xây dựng con đường xe lửa trong tương lai từ Phan Rang, Songkra (Song-Pha), ngắn hơn là từ Nha Trang như ông Yersin đề nghị. Nếu mình không lầm, ngày nay họ có xây một đường cao tốc Đàlạt -Nha Trang. Kết quả họ lấy trắc địa được vùng cao nguyên này. Mình rất ngạc nhiên khi xem bản vẽ xưa về đồ hình của Dankia và Đàlạt. Không ngờ chính là đoàn thám hiểm này.

 

Khi ông Doumer hỏi tỉnh trưởng Biên Hoà, Alphonse Chesne, về sự thành lập đường rày xe lửa Sàigòn và Đàlạt. Ông này giới thiệu một tay săn cọp và voi ở Đông Dương, người ý, tên Oddera.

 

Ông này có liên lạc các bộ lạc sống ở vùng này, và có vẽ các người này như người Cho-Ma, Chu-Ru,… người Việt hay chửi nhau “đồ Chó Má”. Mình không biết có phải từ bộ-lạc này hay không. Tây làm việc với người Mọi, Chu-Ru, Cho-MA nên có lẻ hay dùng Cho-MA để chửi thề rồi người Việt bắt chước. Tương tự “Mẹc xà lù” (merde salaud). Ông ta cho biết về phong tục, tập quán các bộ lạc sống ở vùng, giúp người Pháp cai quản các bộ lạc sau này.

 

Mặc dù nghe phái đoàn này đưa ra những kinh nghiệm của hành trình nhưng ông Yersin, vẫn nhất quyết muốn tiếp tục kế hoạch này, và viết thư mời ông Doumer lên viếng để xem cho tận mắt trước khi lấy quyết định huỷ bỏ. Ông toàn quyền nhận lời và lên thăm viếng Dankia vào năm 1900.  

 


Đại uý Léon Garnier tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr của Pháp trước khi được bổ nhiệm làm việc tại biên giới Việt-Hoa. Ông ta ngã bệnh và được hồi hương năm 1894. Sau đó ông được gửi trở lại Đông Dương 1898-1899. Ông ta được bổ nhiệm tìm cách xây dựng một con đường nối liền Sàigòn và Langbian.

 

Người từng có kinh nghiệm về nghỉ dưỡng khi bị bệnh tại Đông Dương, ông ta hiểu rõ tầm quan trọng sự thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng trên cao nguyên. Sau này ông trở thành tổng đốc của vùng này. Mình tưởng bà con hay con cháu gì với ông đại uý Garnier, nổi tiếng chết, để pháp kiếm cớ xâm chiếm Việt Nam mà thầy dạy trong giờ lịch sử Việt Nam.

 


Đây là hình ảnh (1930) nhà thương được xây cất và các dãy nhà phía sau,mình đoán là các bệnh xá để binh sĩ và công chức pháp nghỉ dưỡng. Xa xa thấy nhà thờ Domaine de Marie. Cư xá Công Chánh chưa được xây cất.

 

Ngoài ra còn có đại úy Paul Guynet đã kể khi đi khảo xét thành lập con đường giao thông từ Phan Rang lên Langbian. Ông ta kể là sống ở Đàlạt quá sướng, với khí hậu mát mẻ so với khí hậu Sàigòn. Chúng tôi đi săn cả ngày mà không mệt so với khí hậu ở Pháp vào mùa này. 

 

Mình sống tại 5 quốc gia, đi du lịch trên 35 nước thì thấy không khí Đàlạt vẫn tốt hơn hết nhất là vào mùa khô. Đến khi mình lập nghiệp tại Cali thì không khí ở miền nam Cali tuyệt vời. Mình ở cách biển 20 phút, 60 phút lên núi trượt tuyết. Có lần, sáng mình đi với vợ con lên núi trượt tuyết, chiều về ghé ra biển, đốt lửa ăn cơm với bàn bè. Tuyệt vời.

 

Ông đại uý này là người đã gây ảnh hưởng, giúp Doumer quyết định xây thành phố Đàlạt thay vì Dankia, làm ông Yersin buồn lòng. Chỉ vì 50 mét cao hơn Dankia, càng cao thì càng tốt. Mình nhớ khi xưa, đi Tùng Nghĩa là thấy nóng, cứ xuống đèo Prenn là thấy nóng.


Từ tháng 3 năm 1900, con đường từ Phan Rang lên đến Daban đã được hoàn tất. Và từ đó lên Đàlạt hay Dankia thì có đường mòn cho người đi bộ và lừa đã được dọn xong. Chỉ cần hoàn tất cầu ở Balach (Ba-lạch?) là xong.

 

Xây dựng con đường này đã làm mồ chôn rất nhiều người địa phương. Chết chóc, bỏ trốn, bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng ta không biết con số chính xác nhưng chắc phải trên mấy chục ngàn người. Mình xem hình ảnh cái hủ-lô họ dùng khi xưa, khi chưa có chiếc hủ-lô, chạy bằng nước như hồi bé mình có thấy tại Đàlạt. Năm 1908, theo tài liệu của thuộc địa thì có trên 20 ngàn người cu-li (Tây gọi là coolies), đã chết khi thực dân khai phá con đường lên đèo Ngoạn Mục.

 


Theo báo cáo của thuộc địa Đồng Nai thì mỗi ngày, họ đoán là có từ 6,000-7,000 người làm việc tại công trường, đa số là bị ép buộc lao động. Một năm sau, họ muốn thêm người thượng, khiến nhiều nhóm đã bỏ trốn qua Lào. Người ta có ghi lại những câu thơ của người thượng bị ép buộc lao động không lương.

 


Theo tài liệu của người da trắng, kể là khi họ lên Đàlạt, các người thượng, khoẻ mạnh được sử dụng để gánh họ và lương thực, quần áo, dạ hội đủ trò. Nội ông thần gì ở trên Đàlạt, có cái đàn dương cầm, và bàn đánh bi-da, để giải sầu, được người thượng gánh đem lên tới nhà. Theo tài liệu kể thì người ta gánh mấy ông Tây bà đầm lên tới đèo Ngoạn Mục và từ đó xe hơi sẽ rước họ lên Đàlạt. Mấy tù nhân bị bắt buộc, gánh mấy ông tây bà đầm lên núi để trị bệnh.

 

Ngoài ra còn có thợ người Kinh, do các người Tàu tuyển mộ từ các nơi nghèo khổ như Huế, Qui-Nhơn, BÌnh Định vào làm, được trả tiền nhưng cũng châm vì họ bị bắt làm cực nhọc nên có lúc phải đình công. Mình có đọc bài của ông Lê Đức Anh, cai đồn điền cao su cho Tây, kể lại những xâm nhập của Đảng viên cộng sản vào các đoàn thể nhân công, kêu gọi họ đình công. Mình đoán trong nhóm thợ làm việc để xây con đường nối liền với Đàlạt, cũng có những Đảng viên cộng sản mò vào để khuấy động phong trào chống lao động áp bức.

 

Mình đoán thôi là các ông xu (surveillant) mà người Đàlạt hay gọi, có thể là họ khởi đầu làm việc tại mấy công trường này, rồi nhờ thông minh, học nghề nhanh nên được bổ nhiệm làm Surveillant mà người việt gọi là Xu. Sau này ở lại Đàlạt, xây cất nhà cửa cho Tây, về quê cưới vợ chân dài, đem vào Đàlạt, làm việc xây cất cho Tây rồi khi Tây về nước thì họ biết cưa gỗ bán cho Đàlạt, Sàigòn, giàu to.

 

Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm, vào Đàlạt lập nghiệp bằng nghề thợ may, sau đó về quê, cưới vợ đem vào Đàlạt. Bà Tiềm là chị em cô cậu hay chú bác, không nhớ rõ, với mệ ngoại mình. Sau đó, bà Tiềm đem mấy người em vào như ông Phúng, (tiệm Hiệp Thạnh), ông Đàng (tiệm Long Hưng), như dì Tân, mới qua đời năm ngoái. Cậu Liễu giúp cho ông Tiềm bán thuốc Cẩm Lệ, sau đó ra chợ mở quán bán thuốc Cẩm Lệ bên cạnh hàng của bà Bỉnh, mẹ của Phú Nguyễn, nay ở Gia Nã Đại, rể rượu Lafaro Đàlạt xưa, ở xóm trên đường Thi Sách. Gian hàng guốc dép, giày dép.

 

Sau này ông Phúng làm ăn khá giả cần người tin cẩn nên về làng đem bà cụ mình vào lúc ấy mới 15 tuổi. Sau này cho ra riêng, gả chồng. Rồi sơn đen ra đời.

 

Trong báo cáo năm 1898, ông Fernandez Bernard tường trình bên Ấn Độ, người anh đã sử dụng đường rày răng cưa để chạy lên đỉnh Darjeeling tương tự ở Lebanon.

 

Cuộc xây dựng đường rày xe lửa khiến thuốc địa hao tốn. Lúc đầu họ dự trù 200 triệu đồng Đông Dương . Mình không nhớ vào thời gian nào, hối đoái dạo ấy một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan pháp. Mấy người giàu có tại Đàlạt đều cho con đi du học vì quá rẻ. 200 triệu đồng Đông Dương là 2 tỷ Phật-lăng pháp. Cho thấy thuộc địa đem lại lợi tức cho mẫu quốc khá nhiều.

 


Đoán là cầu Balach vì có nhiều người chết ở đây khiến nhân công người Việt đình công.


Tuyến đường này bắt đầu năm 1898 đến năm 1910 thì ngưng vì hết ngân quỹ. Hai năm sau, mới tiếp tục lại nhưng chỉ đến Xomgon (xóm Gòn?) cách Đàlạt 83 cây số. Ai biết thì cho em hay để bổ túc. Đến năm 1926 thì đến Sông Pha (cách Đàlạt 40 cây số) và đèo Ngoạn Mục năm 1927. Cuối cùng đến Đàlạt năm 1932. Mất 34 năm mới hoàn thành con đường Ngoạn Mục này với bao xương máu của người Việt đổ và chết tại đây.

 

Tuyến đường này được sử dụng đến năm 1968 thì mấy ông Việt Cộng đặt mìn phá hoại rồi sau 75, gở ra bán ve chai cho Thuỵ Sĩ. Xem như 20 mấy ngàn người Việt chết thảm khi bị ép buộc xây dựng con đường này và gần tỷ đồng Đông Dương do người Việt đóng thuế cho Tây, biến thành mây khói. Chán Mớ Đời 

 

Các người Âu châu định cư tại Đàlạt thử nuôi bò, trồng rau, lúa,…như trường hợp vợ chồng ông Jean O’Neil. Không biết người xứ nào vì tên thì có vẻ Ái Nhỉ Lan. Ai có tin tức gì thì cho mình xin. Cảm ơn trước. Đọc lại thì ông ta là người được phái lên Đàlạt để thiết kế kiến thiết đô thị Đàlạt.

 

Có lẻ không thành công lắm vì khi xưa mình thấy bò có vài con được nuôi trên đường Trần Bình Trọng , gần Thánh Địa Đức Bà. Nghe kể là sau vụ đập hồ Xuân Hương bị vỡ năm 1932 thì bà O’Neil không làm lại, có lẻ chồng qua đời.





 

Đọc lịch sử về Đàlạt thì khám phá có nhiều cá nhân khá đặc biệt, giúp hoàn thành thành phố không tưởng Đàlạt ngày nay.

 

Có một ông cựu hội đồng thủ đô Paris, tên Paul Champoudry, thuộc Đảng xã hội từng là giám sát công trường xây dựng Métro của Paris cho hội chợ thế giới năm 1900. Về già, con cái đông nên ông sang Việt Nam và giám sát các công trình xây dựng các cơ quan hành Chánh của chính quyền thuộc địa và người thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. ông này là thị trưởng đâu tiên của Đàlạt, người có ảnh hưởng về địa hình, kiến trúc của Đàlạt sau này. Ông ta xin phép được thuyên chuyển năm 1901, vì điều kiện sức khoẻ, viêm phổi. Còn nếu không thì phải cho thêm ngân sách để thành lập Đàlạt với hệ thống ống cống, nước, điện,… các người đến Đàlạt thời đó kể lại là thành phố tiêu điều vì chưa có gì đã xây dựng khi chính phủ hết tiền.

 

Năm 1898, hành chánh mượn 200 triệu quan pháp, đến năm 1910 thì hết ngân quỹ. May thay trong thời gian đệ nhất thế chiến, người Âu châu không về nước nghỉ hè thường niên được nên họ kéo nhau lên Đàlạt, giúp thành phố này sống lại với ngành du-lịch nhưng năm 1913, Đàlạt vẫn chỉ hơn 1 chục nhà nghỉ. Họ yêu thích khí hậu ở đây và khuyến khích chính quyền thực dân tiếp tục cải tiến Đàlạt.

 

Nhìn lại, nếu không có đệ nhất thế chiến thì có lẻ Đàlạt, đã trở thành thành phố ma, mà người Pháp bỏ biết bao nhiêu tiền của của người Việt, bao nhiêu người Việt đã chết để xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng với tầm xa là thủ đô của Đông Dương.

 

Trên 20 ngàn người thượng du chết trên đường từ Phan Rang lên đèo Ngoạn Mục. Có lẻ vì vậy dạo mình còn bé, ít thấy người thượng vì cha ông của họ bị giết khi xây dựng công trường này.


Nếu người pháp không đốt tiền cho thành phố nghỉ dưỡng thì có thể, cao trào kháng chiến chống pháp không lên cao. Với những tin tức chết người, thêm hình ảnh của Tây đá đít phu xe kéo người Việt trên các tờ báo Tây, đổ thêm dầu vào cuộc kháng chiến chống pháp.

 


 Những nhà nghỉ đầu tiên được làm bằng gỗ tại Đàlạt.

Khác với Việt Nam, khi người Tây phương đánh chiếm các vùng Nam Mỹ hay Bắc Mỹ thì khí hậu ở đó tương tự ở Âu châu nên họ không có vấn đề hội nhập thời tiết tại địa phương. Ngược lại khi họ qua Phi CHâu hay Đông Dương thì khó chịu đừng thời tiết vùng nhiệt đới với muỗi, bệnh số trét nên công cuộc đánh chiêm của họ lâu dài có vấn đề, cần phải giải quyết nêu họ muốn chiếm ngự Vĩnh viễn như tai Mỹ Châu.


Khi chúng ta đi thăm viếng các đền đài như Angkor Vat, Kim tự Tháp,… chúng ta chiêm ngưỡng cái đẹp của đền đài nhưng không ai nhắc chúng ta, nhớ đến những người lao động đã nằm xuống để thực hiện các điểm nhấn du lịch này. Có lẻ nên khấn thầm cho vong hồn họ siêu thoát.

 

(Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn

 

 

 

 

Tại sao người Pháp xây dựng Đàlạt thay vì Dankia

 Lý do Đàlạt ra đời #2

 

Tại sao là Đàlạt thay vì Dan-Kia (Lang-Sa)

 

Tháng 7 năm 1897, Doumer nhận báo cáo của các cố vấn y tế về các tiêu chuẩn căn bản để thiết lập trung tâm điều dưỡng lý tưởng cho binh sĩ và công chức pháp tại Đông Dương: cao độ tối thiểu 1,200 mét, có nhiều nước sạch, đất tốt, khả năng xây dựng một hệ thống thông tin.

 

Dựa trên những yếu tố trên thì cao-nguyên Lang-bian hội đủ hết các tiêu chuẩn. Ông Yersin giải thích vùng này có nhiệt-độ trung bình như vùng Địa Trung Hải vào mùa xuân. Hy vọng chính phủ thuộc địa, có thể thực hiện chương trình của ông Doumer, thành lập một khu điều dưỡng trên cao nguyên, gần Sàigòn, và có thể di chuyển vài tiếng với không khí gần như ở Pháp, nhất là gần thành phố Nha Trang, nơi ông ta sinh sống và làm việc.

 

Các nhà khí tượng pháp đo đạt trong suốt hơn 1 năm trời (1899-1901) để so sánh với khu nghỉ dưỡng Raj, của người Anh Quốc bên Ấn Độ. Một thủ đô mùa hè của người anh tại thuộc địa. Kết quả cho thấy Lang-Bian là địa điểm lý tưởng cho đế quốc pháp tại Đông Dương.

 

Đầu thế kỷ 20, chỉ huy trưởng quân đội pháp tại Đông Dương, tướng Théophile Pennequin tìm cách lobby Paris ngân sách để xây dựng khu nghỉ dưỡng tại cao nguyên Lâm Viên. Ông này sinh năm 1849, từng tham dự chiến tranh Pháp-Phổ, tham gia chiến dịch bình-định tại Madagascar, và tham gia các cuộc bình định tại Việt Nam vào những năm 1882, 1888, 1889.

 

Ông tướng này cho biết binh sĩ mẫu quốc không hợp với phong thổ địa phương, mỗi ngày sức khoẻ sẽ giảm đi và nghĩ đáp án cuối cùng là thành lập một trung tâm điều dưỡng trên cao nguyên lâm-viên. Giúp phục hồi sức khoẻ và tinh thần binh sĩ và công chức nhanh chóng.

 

Năm 1902, trong một báo cáo, ông ta có nói đến thành lập một đơn vị quân sự tại cao nguyên Lâm Viên. Ông cho biết “ người Pháp chúng ta khó lập nghiệp và làm giàu lâu dài tại Đông Dương vì khí hậu quá cay nghiệt. Nếu một số người Pháp có thể thụ hưởng được khí hậu giống như ở mẫu quốc thì họ có thể làm việc hăng say, giàu có và ở lại đây mãi mãi.” 


Kiểu dân đi làm ở Alaska ở Hoa Kỳ, làm ăn một thời gian, như mì ăn liền, kiếm đủ vốn trở về mẫu quốc. Chính sách của ông ta là khuyến khích người Pháp sang đây lập nghiệp, ở lâu dài thì mới giúp cho đế quốc hùng mạnh. Tương tự người pháp sang Bắc phi lập nghiệp, sinh con đẻ cái mấy đời, mà người ta gọi là “Pied Noir” dân ở phi châu.


Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến Pháp quốc phải tìm tài nguyên trên các thuộc địa, để cung ứng cho các nhà máy kỹ thuật, để chạy đua với Anh Quốc.

 

Có lẻ vì vậy, trong thời chiến tranh, quân đội Mỹ hay lên Đàlạt để nghỉ dưỡng cũng như được bay qua Okinawa, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, những quốc gia sống và phát triển nhờ chiến tranh Việt Nam …để nghỉ dưỡng trước khi trở lại chiến trường.

 

Trên cương vị một vị tướng với chiến lược lâu dài, ông ta quan tâm đến sự sống còn lâu dài của người Pháp tại Đông Dương, một điều tiên quyết để giữ gìn lâu dài đế quốc Pháp. Nếu chính phủ có thể xây dựng một vùng nghỉ dưỡng với khí hậu ôn hoà như Âu châu, sẽ giúp người Pháp sinh sống tại đây, phát triển mạnh, sẽ giúp duy trì chính quyền thực dân tại Đông Dương. Do đó các bác sĩ pháp đã nghiên cứu ngay từ đầu về y tế cộng đồng nhằm giúp thành lập một trung tâm điều dưỡng và một vùng toàn là người Pháp ở để cai trị toàn cỏi Đông Dương.

 

Hình như có một cặp vợ chồng da trắng tên O’Neil (tên này thường là người Anh Quốc) sinh sống tại Đàlạt, mở nông trại, nuôi bò để cung cấp sữa tươi cho người Âu-chau tại Việt Nam. Mình có tấm ảnh chụp mộ bia của ông này nhưng nghe nói là sau vụ cái đập đầu tiên cạnh Thuỷ Tạ bị vỡ thì nhà cửa cua nông trại tiêu tan và không bao giờ được làm lại.


Mình lại đọc đâu đó, ông O’neil được gửi sang làm việc cho chính quyền pháp, để giúp xây dựng Đàlạt. Cũng có thể sau đó ở lại Đàlạt luôn đến khi chết. Hoá ra ông Jean Oneil là một kiến trúc sư, được phái sang Việt Nam, phát hoạ phát triển thành phố Đàlạt.

 


Mình có thấy mấy tấm ảnh của nông trại của gia đình, gần cầu Ông Đạo ngày nay, không hiểu người Pháp họ làm cái gì. Sau này đọc thêm tài liệu thì mới khám phá ra vụ này. Hình mộ ông Oneil.

 

Các trường học như Petit Lycée Yersin, Grand Lycée Yersin, Couvent des Oiseaux,..được thành lập để giảng dạy cho con em người Pháp làm cho chính quyền thuộc địa hay con những tư nhân, công chức làm trong chính quyền thực dân tại Đông Dương. Thấy mấy tấm ảnh xưa ở Petit Lycee cho thấy toàn là con của người Pháp. 

 


Hình này chụp trường tiểu học Petit Lycee Yersin, vào năm 1948. Thấy đa số là Tây đầm con, lơ ngơ 1 tên mít con đứng một mình. Chỗ này là nơi mình ra chơi năm 8ème và 9 ème buổi chiều, gần 20 năm sau. Dạo ấy tây về nước nên không thấy đầm tây trong lớp nhiều.


Trên thực tế thì cũng có những ý-kiến đối nghịch, chống đối sự thành lập khu nghỉ dưỡng Lâm-Viên. Một chuyên gia trắc địa tên Bernard Lazare lên tiếng phản đối chương trình này vì năm 1898, được cử lên đây xem xét khả năng để xây tuyến đường xe-hoả đến Lang-Bian.

 

Vào tháng 11 năm 1898, khi ông ta đến Lang-Bian, có viết thư cho bố mẹ: thất vọng về dự án xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng tại đây. Ông ta kể ngay người Việt còn bị bệnh tại đây, chỉ có đâu 8, 9 người Pháp, toàn là những nhà đi khảo sát, đặt chân đến thiên đàng trên quả đất này. Năm 1901, ông ta có viết một bài đăng trên Revue de Paris, nói về các dự tính xây dựng Lang -Bian.

 

Ông ta cảnh báo người Việt sẽ đuổi người Pháp ra khỏi xứ họ như đã từng làm với người Tàu, người Mông Cổ.

Ông ta cho rằng tuyến đường xe hoả của Paul Doumer là một sự thất thoát, phí tiền đóng thuế của người Việt. Ông ta tiên đoán xe hoả sẽ chạy với ít hành khách vì chỉ có độ 68 đồn điền trên toàn cỏi Bắc kỳ và Nam Kỳ. Xét về kinh tế thì xây dựng tuyến đường này là thất sách. 


Cái này thì đúng vì mình nhớ khi xưa, còn bé đi Thái Phiên hay đâu đó với ông cụ. Sau này xe hoả dùng để chở rau cải bán cho người Mỹ. Chán Mớ Đời 


Gần đây, mình đọc báo chí Việt Nam, cho biết Hà Nội đang dự tính làm lại tuyến đường này để triển khai du-lịch Đàlạt sau khi bán nữa triệu đô la cho Thuỵ-sĩ. Đi xe xuống hay lên đèo Ngoạn Mục là đã buồn ngủ huống chi xe chạy răng cưa, 10 cây số một giờ trong thời đại 5 Gờ. Kinh




 




Ông ta chỉ trích bác sĩ Yersin, bằng cách đưa ra các khám phá mới của Laveran (khôi nguyên Nobel) và Blanchard của người Pháp, Grassi và Celli của Ý Đại Lợi, Ross của Anh Quốc và Koch của Đức quốc có thể giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về bệnh sốt-rét và muỗi lây bệnh khi chích một bệnh nhân và lây Lan qua người khác. Sự chống đối chỉ trích của ông này đã làm ngừng trệ sự thành lập Đàlạt đến 20 năm sau.

 

Có lần về Đàlạt, mình có đi Song-Pha thăm một trại mồ côi mà Bút Nhóm Lửa Việt bảo trợ. Tài xế chạy con đường qua đèo Ngoạn Mục. Dạo ấy, Việt Cộng họ đang làm nữa chừng rồi ăn hết tiền nên thấy xe máy cày bỏ bên đường mọc rong rêu, đường xá thì ổ gà, xình lầy không như khi xưa mình có đi qua đây, Tết năm 12 B, 1973.

 

Xe xuống đèo khiến mình mường tượng đến những người việt đã chết khi xây tuyến đường này và xe hoả. Khởi đầu con đường từ Phan Rang lên Lâm Viên, gây ra nhiều cái chết cho người da trắng. Nội tháng 4 năm 1900, có 20 người Âu châu và 100 người Việt tháp Tùng, làm cu-li khiêng đồ như du khách đi viếng Machu-Pichu ở Peru, có người dân địa phương, gánh đồ, nấu cơm, dựng lều,.. mấy người da trắng đi thám hiểm, đều có phu khiêng kiệu như bên tàu, lên vạn lý trường thành.

 



3 tháng sau, có 4 ông Tây chết và 8 người nằm nhà thương, còn 80 người Việt mất tích hay chết. Cọp vồ ban đem. Kinh

 

Trong một chuyến đi khác, bác sĩ Sebastien Tardif cho hay nếu uống Quinine thì đỡ hơn nhưng cũng có 4 người Tây bị chết và nằm dưỡng sức 4 ngày vì bị lên cơn sốt. Điều ông ta lo ngại nhất là ngay các cu-li Việt Nam cũng bị bệnh lên cơn sốt.

 

Ảo tưởng về xây dựng một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên bắt đầu ít được người tán thành.

 

Vào đầu thế kỷ 20, bệnh sốt-rét là vấn nạn lớn cho các đế quốc Tây phương khi họ chiếm đóng các lãnh thổ ở vùng nhiệt đới, đầy tài nguyên. Lý do là phải trả giá rất đắt về nhân sự, chết vì cơn bệnh này. Anh Quốc đã tìm ra Simla, Raj mà chúng ta hay thấy trong các phim Ấn Độ.

 

Ông chuyên gia về bệnh sốt rét ở viện Pasteur Sàigòn, Joseph Emile Borel, tiếp tục dẫn chứng là khi lên cao độ của Lâm-Viên thì các hiệu chứng của bệnh này ngừng ngay. Họ cho biết muỗi gây bệnh Sốt rét dừng ở 800 mét cao độ. Cái này thì mình không tin vì ông cụ mình ở Đàlạt, hay bị lên cơn sốt rét, rên hừ hừ, kêu mình lấy thuốc Quinine để bố uống mới từ từ đỡ lại.

 

Đó là sự tranh chấp giữa hai trường phái y-khoa. Cuối cùng thì chính phủ pháp nghiên về nhóm của bác sĩ Yersin, ý định quân sự, Lâm-viên có thể giúp người Pháp chiếm đóng Đông Dương lâu dài, nếu không bệnh tật, và có thể thành lập thủ đô Đông Dương ở đây để cai quản vùng này.


Đàlạt thuộc vùng Annam, xem như tự trị của triều đình Huế. Tham vọng của tham mưu trưởng quân đội viễn chinh pháp là thành lập một địa điểm, thành phố có thể giúp người da trắng cai trị Đông Dương lâu dài.


Có lẻ vì vậy mà khi họ đem ông BẢo Đại về nước làm vua, ký sắc lệnh biến khu vực Đàlạt thành Hoàng Triều Cương Thổ, để người Pháp có thể cai quản.


Tục lệ từ xưa đến nay là đưa thái tử qua nước họ để nuôi nấng luôn tiện làm con tin như Attila. Attila thì thông minh, nghiên cứu hành chính quân sự của La-mã để sau này về nước, ông ta đánh quân đội viễn chinh la-mã tời bời. Do đó sau này, người ta chỉ lựa thái tử ngu ngu một tí, đem qua Tây cho ăn chơi mệt thở. Sau này về nước cứ nghe lời Tây. Còn mấy ông vua như Duy Tân, HÀm Nghi, còn nhỏ đã được lên ngôi thì cũng là bù nhìn cho mấy quan trong triều cho nên không thể nào nói họ này nọ.


Mình có anh bạn học cũ dòng Nguyễn Phúc, kể là ông nội, lúc còn bé chơi với ông Bảo Đại. Sau vua Khải ĐỊnh, vô sinh, mình nghe nói là đồng tính nên triều đình nhận Bảo Đại làm con nuôi của Khải Định, thay vì ông nội của anh ta. Bố anh ta là dòng Ưng, còn anh ta là dòng Bửu, trong khi ông Bảo Đại là Vĩnh. Vai vế trong dòng họ thấp hơn anh ta vì Vĩnh sau Bửu dựa theo bài thơ đế hệ thi của vua Mênh Mạng.


MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VĨNH

BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG

HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT

THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG

 

Lâu đầu, họ tính thành lập khu nghỉ dưỡng tại Dankia nơi ông Yersin đề nghị nhưng sau này họ lại thành lập tại Đàlạt ngày nay. Mình thắc mắc lý do nhưng không ai thuyết phục được mình cả vì họ chỉ nói khơi khơi không bằng chứng.

 

Paul Doumer nghe lời Yersin thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng cho người Tây phương, tạo thành một tiểu Pháp quốc, mang tên Lang-Sa. Người việt gọi nước pháp France là Phú-lãng-Sa, tầu gọi là Pháp Lan, nên sau này người Việt gọi tắt là Pháp. Có bài ca dao về nước pháp như sau:

 

Từ ngày có Phú Lãng Sa

Văn minh thì ít, trăng hoa thì nhiều

Văn minh khắp cả Tây, Tàu

Ông sư cũng húi cái đầu năm xu

Văn minh khắp cả gần xa

Sư ông xe đạp, sư bà xe tay

 

Lang-Bian là một cao nguyên rộng lớn, dự tính là địa điểm thành lập trung tâm điều dưỡng như ông Yersin đề nghị. Một tiểu Pháp quốc như Doumer khởi xướng với tên là Lang-Sa (Pháp). Khởi đầu năm 1897 là một nông trại mẩu, một đài khí tượng và một đồn lính được thành lập gần làng thượng Dankia.

 


Khu vực Dankia thời Tây mới đến


Cách địa điểm này 13 cây-số về phía Tây-Nam, có một vùng đông dân cư hơn. Một căn nhà được xây cất cùng năm tại địa điểm được gọi là Đà-LẠt, ngọn suối của người Lạt, bộ lạc người thượng sinh sống tại đây.

 

Ngoài con suối thì khu vực này có những lùm cây thông mà đại uý Guynet, người dẫn đầu cuộc xây dựng con đường vào năm 1899, xin thêm tiền để thành lập con đường nối liền Dankia và Dalat, để khi toàn quyền đến thăm sẽ di chuyển dễ hơn. Ông Doumer ra lệnh xây dựng một căn nhà dài 50 mét để gia đình ông ta lên đó viếng thăm để lấy quyết định xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng (LangBiang Hotel). Ta thấy toàn đến chơi vài ngày mà xây khách to lớn, với tiền thuế của người Việt. Có lẻ ông Guynet này thích vẽ đẹp của khu vực Đàlạt hơn Dankia.

 

Bác sĩ Tardif , một thành viên của nhóm ông Guynet cho rằng khu vực Đàlạt cao hơn Dankia đến 50 mét, gió thoáng và sạch sẻ hơn. Làm như vậy là chống chọi lại nhóm ông Yersin, của viện Pasteur. Ông Yersin nổi tiếng khiến toàn quyền phải nghe lời viếng thăm Dankia theo lời đề nghị. Cuối cùng đồng ý về địa điểm Đàlạt ngày nay thay vì Dankia.

 

Cùng năm ấy, Guillaume Capus giám đốc canh nông và thương mại Đông Dương, nghe lời đề nghị của Guynet và Tardif, chọn địa điểm Đàlạt thay vì Dankia. Ông ta cho rằng càng cao độ càng tốt cho sức khoẻ (50mét) và các rừng thông khiến ông ta nhớ về quê mình.

 

Ngày 24 tháng 1, năm 1901 tòan quyền Doumer viết cho bộ trưởng thuộc địa, ông ta muốn đem gia đình lên cao nguyên Lâm viên chơi một thời gian, yêu cầu xây dựng một dãy nhà để cho gia đình và đoàn tuỳ tùng ông ta ở, sau đó sẽ biến thành khách sạn. Khách sạn Langbian sau này đổi tên Palace.

 

Cuối cùng thì hai bác sĩ Haueur và Tardif tin rằng khu vực Đàlạt hiện nay cao hơn, có thể dùng để thành lập căn cứ quân đội tốt hơn Dankia. Ông ta cho biết có mấy người nông dân Pháp đã định cư tại vùng này từ 4 năm nay và rất khoẻ mạnh. Má hồng lại thấy tráng kiện. Không thấy muỗi Anopheles tại vùng này và căn cứ đóng quân không thấy bệnh sốt rét lây Lan. Không vợ chồng O’Neil có trong số này hay không.

 

Mình phục người Tây phương là khi họ thực hiện chương trình gì thì đều điều nghiên kỷ càng, không bộp chộp như người Việt. Họa đồ tái phát triển Đàlạt, họ cứ làm đại, kêu thằng thợ vẽ Tây nào ra đứng lớ quớ, làm như Tây là giỏi hơn kiến trúc sư việt. Họ để cho người Tàu làm cái cầu kính, không giấy phép khơi khơi ỏ đập Đa Thiện, rồi hợp thức hoá.

  



Phối cảnh do kiến trúc sư phát họa về Đàlạt với khách sạn xung quanh hồ trước khi cái đập bị phá vỡ vì lụt năm 1932.


 Ông Doumer cử ông bác sĩ Yersin qua Nam Dương để tham quan các khu nghỉ dưỡng trên núi đồi do người Hoà Lan thực hiện. Nam dương là thuộc địa của người Hoà Lan.

 

Ngoài ra có những địa danh như Simla ở Ấn Độ thành lập năm 1831, Baguio ở phi Luật Tân vào cuối thế kỷ 19. Fernand Bertrand được toàn quyền Đông Dương gửi đi xem xét các chương trình điều dưỡng của NAm-Dương do người Hoà Lan chiếm đóng. Ông ta viết trong Revue de Paris, cho rằng người Hoà Lan, kêu họ không muốn tốn tiền để xây dựng thêm các trung tâm điều dưỡng ở cao nguyên vì kết quả không rõ rệt lại phải chi tiêu hơn 6 triệu francs. 

 

Ông Doumer mê giấc mộng xây một thành phố để đời đã nướng 20 triệu quan pháp hơn 3-4  lần người Hoà LAn ở NAm Dương. Ông Bertrand tìm cách loại bỏ chương trình xây dựng khu điều dưỡng trên cao nguyên thì phái chuộng như ông Vassal, lấy địa điểm Baguio của Phi lUật Tân được người Mỹ xây dựng vào cuối thế kỷ 19.

 

Năm 1916, toàn quyền Đông Dương Ernest Roume, gửi một phái đoàn đến thăm viếng nghiên cứu Banguio. Bản báo cáo cho thấy người Mỹ chịu khó thành lập khu nghỉ mát. Họ nhận thấy các người da trắng được gửi lên đây tịnh dưỡng, lấy lại sức khoẻ để làm việc tốt hơn.

 

Họ kể Baguio, có những biệt thự đầy hoa Hồng, hình ảnh của quê mẹ. Năm 1923, lãnh sự pháp tại Tân Gia Ba báo cáo là khu nghỉ dưỡng của người Hoà Lan ở  Brastagi, vùng Sumatra, khiến các đại diện thuộc địa Anh Quốc từ MÃ-Lai, và Tân Gia ba kéo nhau đến đó nghỉ dưỡng khiến tòan quyền nức nở, lại càng mong muốn xây dựng Đàlạt.

 

Cuộc tranh luận giữ hai nhóm chống đối và thuận cho công trình xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng quốc tế tại cao nguyên chưa ngã ngủ thì năm 1913, một bác sĩ quân y tên Dourne, đặt câu hỏi về các phương thức của bác sĩ Vassal, cho rằng chỉ có vài người Tây phương trông rất khoẻ mạnh, má đỏ môi Hồng. Ông ta ghi là về mặt y-tế không có gì lạ, ngoài trừ các thắng lợi cá nhân. Nếu xây cất thì những người này vớt khá nhiều tiền vì sẽ được ban cấp đất hay tham dự các chương trình xây cất.  

 

Vào những năm 1920, các nghiên cứu tại các thuộc địa Anh Quốc cho thấy muỗi Anopheles không lên tới cao độ 1,500 mét là sai. Thậm chí ở Quito, Ecuador, cao 2,742 mét vẫn bị sốt rét. Shillong gia tăng sốt rét. Chán Mớ Đời

 

Chỗ hồ Xuân Hương, được xây khách sạn Lang-Bian, sau đổi thành Palace, có những chỗ đọng muỗi và các khu phố người Việt chỗ cầu Ông Đạo, gây thêm muỗi giúp bệnh sốt rét gia tăng. Nhưng họ lại khám phá ra khu người Tây phương có nhiều muỗi hơn là khu người Việt. Khu đất trũng cạnh hồ, nơi phố người Việt khởi đầu, đã được dời lên khu phố Hoà BÌnh ngày nay, khiến bệnh sốt rét giảm rất nhiều.



 

Nhà thương được người Pháp xây cho việc điều trị và tịnh dưỡng. Vùng của người da trắng còn người dân sở tại thì ở các vùng thấp như khu Phan Đình Phùng. Có dịp mình sẽ bỏ lên bản đồ thiết kế của người Pháp, chia các khu vực indigènes chớ không đề huề như họ kêu gào.


Họ cho biết là các trâu bò của người thượng là nơi giúp người Lạt không bị bệnh vì muỗi hút máu trâu bò no hơn. Nhưng khám phá khoa học này chứng minh các ghi chép của ông Yersin hay những người tiền vệ, rất sai khi nói là khu vực này sạch sẽ, không bị ô nhiễm, muỗi,… 

 

Năm 1937, vụ dịch sốt rét xảy ra tại Djiring và Dran (Đơn Dương) khiến trưởng cơ quan y tế khám phá ra muỗi Anopheles. Ông ta phán là vô lý đưa các bệnh nhân này lên Đàlạt, rồi muỗi chích, đem vi trùng đó lây Lan. Tốt nhất là để họ về Nhà Trang, Phan Thiết.

 

Dạo ấy, hải quân pháp mới chế ra chiếc tàu ngầm đầu tiên nên Hải quân của Pháp quốc muốn có một trung tâm nghỉ dưỡng cho họ nên đề nghị xây một trung tâm nghỉ dưỡng tại Đàlạt. Xem hình cũ thì mình đoán trên đồi, cạnh bờ hồ mà sau này người ta gọi là Nhà Lao, trung tâm cải huấn. Thấy dãy nhà dài trên đồi. Mẹ mình bị mật thám Tây bắt và nhốt tại đây mấy tháng, bị trấn nước mệt thở. May được thả ra trước khi Tây đem bắn 20 người tại Cam Ly.




(Còn tiếp)

Nhs

Tại sao người Pháp thành lập Đàlạt #1

 Khi xưa, học lịch sử về thời thực dân đô-hộ, thầy cô nói người pháp chiếm Đông Dương, sử dụng chính sách “chia để trị” chia Việt Nam thành 3 kỳ: Tonkin (Bắc kỳ), Annam (trung kỳ) và Cochinchine (nam kỳ) , Lào và Cam-bốt. Từ đó người Việt mình sau khi Tây về nước vẫn ghét nhau, chửi nhau thằng Bắc kỳ, con Nam kỳ hay thằng Mắm Ruốc,... mình không chắc lắm về thuyết này. Mình nghĩ nó sâu xa hơn, bắt nguồn từ văn hoá nho giáo. Cứ đổ tội cho tây thực dân là khoẻ, tương tự sau này đổ tội cho Mỹ xâm lược. Vấn đề này cần có một cuộc nghiên cứu đúng đắn hơn là các sáo ngữ tuyên truyền chính trị.

Từ ngày mình tìm hiểu thêm về lịch sử của Đàlạt, nơi mình sinh ra và lớn lên thì ngạc nhiên khi thấy những công trình dinh thự được xây cất đầu tiên là những khách sạn như khởi đầu khách sạn Hôtel du Lac, cộng thêm mấy biệt thự lân cận rồi khách sạn LangBiang, sau này được cải tên là Grand Palace. 

Thậm chí trong các bản phác hoạ thành phố Đàlạt thời sơ khai của kiến trúc sư Hébrard, đã thấy nhiều khách sạn to lớn, kiểu mấy trăm phòng mà công chức người Pháp tại Việt Nam thời đó trên dưới 3,000 người.

Thời gian ông tổng thống Paul Doumer, làm toàn quyền Đông Dương, đưa ra quyết định thành lập thành phố Đàlạt, một trung tâm điều dưỡng cho thực dân Pháp khiến mình tò mò vì phải phá rừng, xây đường, nhất là xây đường rày từ Nha Trang, Tháp Chàm - Đàlạt. Các cuộc xây dựng này đã giết hàng ngàn người việt, vừa kinh vừa thượng, mình xem các người thượng là người Việt. Trong khi đó, học lịch sử Việt Nam khi xưa, chỉ nghe nói người Pháp đến Việt Nam để chiếm các tài nguyên như mỏ than, trồng cao su,...mà Đàlạt thì chả có gì cả.

Nếu Đàlạt không có tài nguyên, tại sao người Pháp bỏ công và tiền của để xây dựng một tuyến đường xe-hoả răng cưa, từ Tháp Chàm lên, nối quốc lộ 1. Cho thấy khi học lịch sử, được viết bởi chính trị thì khiến chúng ta hiểu sai về quá khứ. Mình cứ đinh ninh là Pháp thực dân là gian ác, hút máu dân việt như các bài sử học khi xưa. Đến khi sang Pháp rồi sau này đọc thêm về chính quyền thực dân pháp tại các thuộc địa thì được biết Pháp tốn tiền cho Đông Dương so với những gì họ đem về. Chỉ có các công ty riêng tư của Pháp kiều mới làm giàu, ngược lại chính phủ pháp thì tốn tiền cho thuộc địa. Tại sao chiếm thuộc địa, đó là câu hỏi sẽ kể khi nào có dịp.






Đây tấm ảnh của Pháp về công trình xây dựng tuyến đường xe-hỏa từ Sông-Pha lên đèo Ngoạn-Mục. Đã giết chết không biết bao nhiêu người việt mà người Pháp gọi là cu-li (coolies Mọi). Trong hình mình thấy có người bận quần áo Chàm, áo dài đen, người đội nón lá,...

Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm và người em rể Nguyễn Văn Phúng, bà con với mệ ngoại mình. Lúc mới vào Đàlạt, làm nghề thợ may. Họ may quần áo, rồi gánh xuống các công trường xây dựng tuyến đường rày xe lữa, để bán cho nhân công tại đây. Phải gánh đi 3 ngày 3 đêm mới đến nơi. Đúng là với sức người, sỏi đá cũng thành cơm. Dạo ấy nghe nói có nhiều cọp (ông 30) mà ngày nay về, chạy trên đường vẫn thấy nhiều chỗ thờ ông Cọp.

Thời gia đình mình mới dọn về cư xá công Chánh ở đường Hai Bà Trưng, nghe người lớn kể là có cọp về lởn vởn gần nhà thương, ở trên đường Calmette. Mình chỉ thấy một lần con hoảng chạy ở đâu xuống xóm mình, rồi nhà bà Quán, vây bắt được làm thịt. Có cho nhà mình một lát thịt hoảng. Đó là lần đầu tiên mình ăn được thịt thú hoang. Một lần khác, chú Hà Thúc Mãn, hàng xóm nấu thịt cọp ai cho, kêu mình qua ăn. Thịt dai kinh hoàng. 

Nói chung dạo ấy, phía sau nhà mình, đối diện đường Thì Sách, toàn là cây Quỳ mọc dại, không có nhà cửa như ngày nay. Đi từ nhà mình lên nhà thương Phương Lan, bên tay phải toàn là cây quỳ, nay họ gọi là Dã Quỳ, thơ mộng hoá về loại hoa dại này, cũng có thể không còn bao nhiêu. Đi trong thành phố, kiếm được một cái cây hay bụi hoa dại còn khó hơn là tìm chim. Cây cối trong xóm mình tuyệt nhiên không còn nên không nghe tiếng chim hót như xưa.

Lò mò kiếm tài liệu Tây đọc thì khám phá ra một điều khá quan trọng: trong quá trình chiếm và bình định Đông Dương, người Pháp chết rất nhiều. Không phải vì đánh nhau với kháng chiến quân người Việt mà vì bệnh sốt-rét, khí hậu ác-nghiệt của Nam Kỳ. Một binh sĩ pháp viết trong nhật ký của ông ta; nghĩa trang quân đội viễn chinh ở Sàigòn, cạnh bệnh viện quân đội pháp có nhiều ngôi mộ hơn thị dân của một thành phố nhỏ ở Pháp. Kinh

 

Người Pháp đã chiếm, làm chủ, bình định hoàn toàn Nam Kỳ từ 1858-1862, các trại lính pháp ở Sàigòn, không quá 2,000 người. Cho thấy người Pháp không cần nhiều binh sĩ để đô hộ mấy chục triệu người Việt. Nghe kể ông tây với 3 người lính viễn chinh khác, với mấy khẩu súng Mousqueton, đánh chiếm mấy thành ở Việt Nam. Quan và dân quân, quỳ xuống, đầu hàng. Nhớ khi xưa, học sử, thầy nói về ông Cao Thắng, chế súng. Khổ cái là ông này không làm cái nòng xoắn để đạn bay đi xa nên cũng chả giết thằng tây nào cả. Đạn bắn ra vài thước rớt cái bịch. Chán Mớ Đời 


Người pháp chết tại Việt Nam thì được chôn tại đây, không có màn chở máy bay về mẫu quốc như binh sĩ Mỹ trong các quan tài, điển hình bà vợ của toàn quyền Decoux, được chôn ở Thánh-địa-Đức-Bà (domaine de marie) Đàlạt. Không biết nghĩa trang quân đội pháp ở Sàigòn còn hay không, chắc họ đã dẹp sạch để mở sân cù.

 

Vào năm 1876, bác sĩ Auguste-Pascal-Marie Danguy des Deserts, cho rằng phong-thổ miền nam Việt Nam rất độc và lo ngại người âu châu khó thích nghi với thời-tiết tại đây. Một y-sĩ pháp khác tên A. Léon tham gia chiếm đóng nam kỳ, kể rằng khí hậu ở đây “meurtrière “ (giết người) còn phong thổ thì quá mất vệ sinh so với tiêu chuẩn tây phương.


Mình về Việt Nam lần đầu tiên, bị tào tháo rượt mệt nghỉ. Về lại Hoa Kỳ, xuống đâu 10 lý lô, đồng chí gái đón ở phi trường không nhận ra luôn. Sau này, từ từ quen rồi. Kỳ về vừa rồi, không bị gì hết.


Mình nhớ khi đến xứ Ma-rốc thì chới với vì khí hậu nóng bức khó chịu vào mùa hè. Ở Rabat, Casablanca thì gần biển nên bình thường, Ở Fez, mình đi chơi có một ngày đã oải, mệt, khó chịu nên lên xe chạy về phía Bắc cho bớt nóng. Khi đi phi châu mới khám phá ra lý do thức ăn cua họ cay vì để chống bệnh sốt rét. Năm ngoái leo núi kilimanjaro, bác sĩ thậm chí điên phi tường, họ khám đầu tiên là chích ngừa về mấy bệnh sốt rét, đậu mùa trước Covid.


Nhớ xưa học lịch sử, nghe kể quân Mông Cổ chiếm Việt Nam nhưng vì không hợp phong thổ nên chết khá nhiều, đại bại dưới tay nhà Trần tại Việt Nam. Nếu không vì phong thổ thì có lẻ chúng ta đã là người Mãn Thanh.


 Mình có mấy tấm ảnh lính khố xanh khố đỏ Việt Nam bị động viên qua Âu châu đánh giặc cho Tây ở thế chiến thứ 1, lạnh thấu xương, không hợp phong thổ, cũng chịu không nổi, chết như rạ. Gần đây, chính phủ pháp đã lên tiếng xin lỗi, đã đối xử không tử tế với người Việt, khi được tuyển mộ sang Âu châu, đánh giặc hay lao động trong các hãng xưởng chế tạo vũ khí để cung ứng cho mặt trận. Mình co sanh bạn, ông ngoại anh ta sống sót khi đi đánh giặc been Âu châu, về Việt Nam được tuyển lên Đà Lạt làm cu-li. 1 trong 100 người Việt đến định cư tại Đà Lạt đầu tiên, được giấy khen đủ trò.

 

Bác sĩ François-Eugène Bernard, tham gia chiến dịch này, cho rằng binh sĩ đến từ miền Bắc nước Pháp, tham gia cuộc bình định ở Nam-kỳ, khó mà sống sót với khí-hậu nhiệt-đới địa phương, phải hồi hương sớm.

 

Người âu châu bị bệnh sốt-rét và thiếu máu trầm trọng. Họ không thể chữa bệnh, hồi sức tại Đông Dương nên phải hồi hương, bằng tàu thuỷ. Khi quân đội Mỹ đến Việt Nam thì có quạt máy và máy điều hoà không khí nên tương đới đỡ hơn thời Tây.


Dạo ấy, còn bé mình nhớ đến các bình xịt thuốc trừ muỗi của mỹ, dùng mỗi buổi chiều, nồng mùi cay cay. Cứ lắc lắc rồi đi vô mấy cái mùng rồi xịt nhất là mấy góc nhà, dưới bàn ăn. Ngoài chợ bán đầy. Nay mới biết là độc hại nhưng dạo ấy, thấy sao mình văn-minh hết lớn. Xịt xong, phải đợi nữa tiếng cho muỗi chết mới vô phòng hay nhà. Một trong điều kiện để người Pháp xây dựng Đà Lạt là độ cao không có muỗi nhưng trên thực tế, Đà Lạt không cao lắm.

 

Năm 1897, khoa học gia người Anh Ronald Ross, làm việc tại Ấn Độ, khám phá ra bệnh sốt-rét do muỗi Anopheles lây lan. Từ đó, người Pháp nghiên cứu thành lập những vùng nghỉ dưỡng, điều dưỡng cho người Pháp bị bệnh, giúp hồi sức tại Đông Dương thay vì chở về mẫu quốc, xa xôi và tốn kém.

 

Chi phí tải binh sĩ bị bệnh hồi hương rất cao nên người Pháp cho các binh sĩ bị bệnh qua Nhật Bản ở Yokohama, nơi một bác sĩ người Pháp, tên Mècres, thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng. Khởi đầu khi cuộc chiến Pháp-Trung Hoa, các binh sĩ bị thương được đưa về Nhật Bản điều trị. Ngắn đường tàu thuỷ hơn về Pháp. Khí hậu Nhật Bản tương tự như Pháp quốc.

 

Bác sĩ Bernard kể một đơn-vị pháo binh gồm 319 người đến Nam-kỳ năm 1862, 4 năm sau chỉ còn 50 còn ở lại. Ông ta đề nghị cho binh sĩ đi nghĩa-vụ ở Việt Nam 2 năm thay vì 4 năm để tránh bị bệnh. Có lẻ vì vậy mà người Pháp gọi bệnh này là “Jaunisse” vì người Pháp đến Việt Nam, độ mấy tháng sau là da họ bị vàng.

 

Bệnh sốt-rét và kiết-lỵ khiến quân đội pháp phải bỏ đóng quân tại Tourane (Đà Nẵng ngày nay). Năm 1861, sau khi Sàigòn lọt vào tay người Pháp thì có đến 11.5% binh sĩ chết vì bệnh. Bệnh viện Sàigòn đã có đến 2,774 bệnh nhân, và 170 chết sau đó và 371 được hồi hương. Các tài liệu lịch sử mình học về thời kỳ này kể là người Việt kháng chiến chống Tây, khiến giặc Tây chết như rạ, có lẻ không đúng. Nguyên do là bệnh sốt-rét, khí hậu đã giết lính thực dân như đã giết lính của Thành Cát Tư Hãn.


Đọc tài liệu xưa, họ cho biết 50% đàn ông Việt Nam dạo ấy nghiện thuốc phiện nên kêu đánh đấm, chống tây hơi quá tự cao. Đọc tài liệu thời còn ở Việt Nam, họ nói ông Nguyễn Hải Thần, nằm gai nếm mật ở bên tàu, mơ đến chống tây, kháng chiến đủ trò. Trên thực tế ông ta nghiện thuốc phiện, người Việt đóng góp tiền bạc cho kháng chiến để mấy ông này làm kháng chiến với các nàng tiên nâu. Ông Văn Cao, có kể là được lệnh ám sát mấy người chống pháp, không theo Việt Mình, đợi mấy người này vào hút thuốc phiện rồi xử tử.


Mình nhớ khi xưa, ông cụ đi lính, đóng quân ở rừng, có lần ở Qui-Nhơn, sau này giải ngủ bị bệnh sốt-rét. Cứ mỗi lần bị cơn bệnh này hành, ông cụ trùm mềm, rên hừ hự, kêu mình lấy thuốc Quinine để uống. Mình nhớ nhà có một lọ to đầy thuốc quinine. Sau này, đi cải-tạo 15 năm, mình có hỏi ông cụ còn bị bệnh này không thì được biết là ít hơn xưa.

 

Theo tài liệu thuộc địa ghi lại thì khoảng 1883-1888, tỷ lệ binh sĩ thuộc địa chết ở Đông Dương là 2% trong khi chỉ có 0.97% ở Algiers và 1.1% ở Tunis và 1.5% ở Oran (thuộc địa Bắc Phi của Pháp). Người Pháp có chiếm đóng các nước ở Phi-châu, ở vùng nhiệt-đới nhưng mình không có tài liệu về tử vong của người Pháp tại các thuộc địa này.

 

Hồi hương thì cũng có vấn đề vì có rất nhiều bệnh nhân chết trên đường về cố quận, phải được hải táng trên biển.

 

Năm 1853, những tài liệu thuộc địa cho biết; dạo ấy chỉ có 2 cách điều dưỡng người pháp tại Đông Dương: chở về nước điều trị bằng tàu thủy hay lên cao độ dưỡng thương tại địa phương, nói cách khác là tìm cao độ tại thuộc địa như người Anh Quốc và Hoà Lan đã thực hiện tại Mã-lai và Nam Dương. Các quốc gia này thành công trong việc điều trị binh lính và công chức của họ khi xây dựng các trung tâm điều dưỡng ở trên núi tại địa phương.

 

Năm 1885, Bá tước Albert d’Anthouard de Wasservas rời Sàigòn sau 3 năm nhiệm vụ, kể lại chuyến hải trình hồi hương, sau khi sụt mất 27 kí-lô vì bệnh tiêu chảy. Các hành khách trên chuyến tàu hồi hương gồm 250 bệnh nhân, nằm liệt giường và 150 tù nhân Việt Nam, chống lại chính quyền thực dân, bị đày biệt xứ đi đảo Guyana, lúc người Pháp chưa xây dựng nhà tù tại Côn Đảo để tiết kiệm chi phí. Nếu họ tiếp tục cho các người chống lại chính sách thực dân của họ sang nhà tù Guyane thì có lẻ không có Điện Biên Phủ, ngày nay họ vẫn chiếm đóng Đông Dương. Không có trò vượt Guyane như Côn Đảo.

 


Hình ảnh khi xưa, thực dân bắt người Việt chống lại họ vì thuế nặng. Mình nghe nói đeo gông vào cổ, nay mới hiểu cái gông là gì.


 Nhà tù Cayenne ở Guyane nổi tiếng, được kể qua cuốn truyện và phim mang tựa đề “papillon” do Steve McQueen và Dustin Hoffman đóng, mình xem phim này ở rạp Ngọc Lan.

 

Hình như vua Hàm Nghi hay Duy Tân bị đày đến đây hay Madagascar. Hình như ông vua Hàm Nghi, sau này bị đưa qua Algerie, lấy vợ bên đó rồi chết tại xứ này. Tây gọi “la bagne”, nơi họ đày các kẻ chống lại chính quyền cách mạng sau 1789 đến Guyane, khi cháu của Bonaparte lên ngôi Napoleon III thì cho đóng cửa, thả hết tù nhân chính trị. Năm 1852, người Pháp cho mở lại để nhốt các tù nhân từ các thuộc địa chống lại thực dân pháp. Tù nhân ở đây, ít ai sống sót lắm vì khí hậu, lao động khổ sai. Ai sống sót thì không biết đâu mà hồi hương, lấy vợ địa phương. Sau này, có dịp chắc mình cũng làm một chuyến sang đây để đi lại vết chân của người Việt xưa, bị thực dân đày biệt xứ.


Mình có gặp mấy phục vụ viên trên tàu đi Nam Cực, có 4 người gốc Madagascar, 2 người từ đảo Réunion, và Ma-rốc, thêm từ Nam Dương.

 

Chuyến tàu hồi hương rất dài, chạy qua kênh Suez, có một người chết được hải táng. Ông ta nhận thấy sức khoẻ được hồi phục khi đi ngang con kênh này nên kết luận là bệnh thuộc địa chỉ nguy hiểm tại địa phương còn khi thay đổi phong thổ, gần nơi họ sinh ra thì sức khoẻ cơ hồi bình phục lại.

 

Trên thực tế nhiều binh lính Tây hay công chức, chết khi đến quân cảng Toulon. Trung bình có từ 30-40 người chết trên các chuyến tàu hồi hương. 250 người thì chết 30-40 người. Xem như 20%.

 

Năm 1886, bác sĩ hải quân pháp Lazare-Gabriel-Marie Palud kể trên chiến tàu y tế hồi hương tên Vinh-Long: tàu chở theo 2 con bò để có sữa tươi. Bệnh nhân nào bị sốt rét thì được quấn cái mềm và cho uống thé punché , trà bỏ rượu rhum. Nặng hơn thì được chích quinine sulfate. Mình không biết từ Paludisme đến từ tên ông bác sĩ này? Ai biết cho em xin.


Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Việt Cộng yêu cầu Trung Cộng cung cấp loại thuốc qing hao su (青蒿素), được Tây phương gọi là artémisinine , dùng để trị các bệnh sốt rét cho bộ đội của họ.


Vào năm 1939, ông Paul Hermann Mueller, làm cho công ty dược phẩm Geigy ở Bâle, Thuỵ Sĩ nơi mình có làm việc một năm, khám phá ra DDT (dichloro diphényl trichloro-ethane) , một loại sát trùng, được sử dụng để giết các con muỗi mà chúng ta hay thấy chiếu trên xi-nê, họ xịt vào người tù nhân hay binh lính. Hồi bé, mình nhớ nhà có xịt ba loại này, thêm cái bình xịt dầu hôi, phung lửa để giết muỗi vào buổi chiều. Sau này chất sát trùng này bị cấm vì gây bệnh ung thư,...

 

Dạo mình ở Tây, mỗi lần bị cảm, mình hay ra quán cà-phê, kêu họ làm một ly grogue. Rượu rhum, bỏ đường với chanh và nước nóng. Nhắm mắt nhắm mũi, nốc một cái ực, leo lên 8 tầng lầu, đắp mềm ngủ tới sáng mai là hết bệnh. Tỷ lệ chết mùa hè năm 1885, có 33 người chết hay 6% hành khách nhưng đến chuyến đi thứ 3 của ông ta 1885-1886 thì chỉ 3 người chết hay 0.5% hành khách.

 

Chi phí hồi hương các binh sĩ hay công chức bảo vệ thuộc địa rất cao. 1894, 19.6% bộ binh và 37.6% pháo binh được hồi hương vì lý do sức khoẻ, chiếm 290 người trong các đội ngủ trên. 2 năm sau đó thì 19% bộ binh và 40% pháo binh được đưa về mẫu quốc (340 người). Dạo ấy chỉ có 2,000 lính tây đóng thường trực tại Việt Nam.

 

Dạo ấy có hai công ty hàng hải tư được mướn để đưa lính Tây hồi hương: Messageries maritimes và Compagnie nationale de navigation. Năm 1895, bộ thuộc địa tính thành lập một đường hàng hải Đông Dương, do chính phủ kiểm soát. Mỗi tàu cần 150 giường bệnh, chính quyền bảo-hộ tiên đoán sẽ cần hồi hương nhiều hơn trong tương lai. Không nhớ ông Nguyễn Tất Thành, qua pháp bằng cách làm thuê trên những loại tàu này hay không. Lâu quá rồi, không nhớ là tàu loại nào.

 

Sử gia Robert Aiken, nghiên cứu các trung tâm nghỉ dưỡng của Anh Quốc tại Mã-lai; cho thấy cách hữu hiệu, ít tốn kém, giảm thời gian hồi hương, là thành lập các trung tâm nghỉ dưỡng tại nước sở tại.

 

Dạo ấy có bác sĩ Louis Mècres, thành lập một khu điều dưỡng tại Yokohama, Nhật Bản, để chữa bệnh, cho các thương binh tại chiến trường Trung Hoa. Khu nghỉ dưỡng này được chính phủ Nam-kỳ đài thọ 15,000 quan pháp. Bác sĩ Danguy des Déserts than là không có một khu nghỉ dưỡng tại Nam kỳ. Cho thấy người Pháp đánh thuế người Việt mệt thở để thành hình chính sách cai trị của họ tại Việt Nam.


Tính xem trị giá hiện kim: 170 năm xem như 1,200 tháng, lạm phát trung bình 5%, số tiền 15,000 quan. Tính ra là 119,294,692.00. Dạo mình đi Tây 1 đôla ăn 7 quan cũ. Số tiền khá lớn, lấy từ mồ hôi nước mắt của người Việt.

 

Vấn đề là các đồi núi ở Nam Kỳ rất thấp như Ba-Dinh chỉ có 884 mét cao độ, Chua-Chang thì 600 mét. Người Pháp cần tìm các nơi có núi rừng như ở cao nguyên trung phần, thuộc dãy Trường Sơn. Do đó, họ cho người đi thám hiểm, quan sát các địa danh tại Cam-Bốt, Lào, Bắc-kỳ,...

 

Năm 1897, toàn quyền mới của Đông Dương Paul Doumer, không cho ký hợp đồng với bác sĩ Mècres nữa khiến các người ủng hộ ông này tức giận như thượng nghị sĩ Gauthier. (Chắc có ăn chia). Bộ thuộc địa, giải thích là một khu nghỉ dưỡng tại Việt Nam sẽ giúp chính phủ thuộc địa giảm bớt kinh phí hồi hương các bệnh nhân nhất là về tâm lý. Khi về nước nhiều thì người Pháp sẽ lo ngại, không muốn con cháu họ đi nghĩa vụ 4 năm tại rừng thiêng nước độc ở xứ Annam. Mình nghe kể là trong thời chiến, Hà Nội giết khá nhiều những bộ đội bị thương, mất tay mất chân để khỏi làm ngã lòng hậu phương tất cả cho tiền tuyến.


Mình về quê, gặp ông chú họ, bị thương tại chiến trường miền nam nhưng sơ sài nên còn sống sót, trở về quê cha.


 Chính phủ có trách nhiệm đối với công chức, binh sĩ và các sĩ quan như những gì mà Anh Quốc đã thực hiện thành công tại Ấn Độ cho quân đội của họ và nền hành chánh sở tại. Đàlạt sẽ đóng vai trò như thành phố Raj của đế quốc Anh Quốc. 

 

Dự định xây một trung tâm nghỉ dưỡng ở cao độ chưa được chính thức chọn. Họ có thành lập ở BÀ-ria nhưng không đủ độ cao.

 

Năm 1897, toàn quyền Paul Doumer ra lệnh cộng sự viên, phải tìm ra địa điểm ở trên cao nguyên, để thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng như Anh Quốc đã làm tại MÃ-lai hay Ấn Độ, hầu giúp công chức và lính thuộc địa có thể hồi phục sức khỏe mau thay vì phải về nước.

 

Các tổng đốc 3 kỳ đều phúc trình, đề nghị các vùng biển, như Đồ-Sơn, Cap Saint Jacques (Vũng Tàu),.. chỉ có các giới chức ở Annam là đọc kỷ và đề nghị thám hiểm trên cao nguyên, nơi mà người kinh không đặt chân đến. Đa phần bỏ hoang cho người thượng. Không có đường xá đến đây. Theo các tài liệu kể thì các người của triều đình Nguyễn, xin làm cu-li cho phái đoàn ông Yersin, rồi lên đây, bắt người thượng đóng thuế, đánh đập họ,... cho thấy triều đình Nguyễn làm chủ lãnh thổ này nhưng ít ai dám lên đây thu thuế người thượng. Nhờ vậy mà sau này, người Pháp mới sử dụng người thượng để làm giảm sức mạnh quân đội cũng như chính trị của triều đình Nguyễn.

 

Bác sĩ Alexandre Yersin nghe toàn quyền  Doumer tìm kiếm một địa điểm cho khu nghỉ dưỡng của binh sĩ Pháp, ông ta xin gặp mặt để trình bày vùng Dankia, nơi ông ta đã thám hiểm lên đó, nghiên cứu mấy lần.


Bác sĩ Yersin là người Thuỵ Sĩ, cộng sự viên của ông Louis Pasteur và Emile Roux. Ông nổi tiếng khi tìm ra bacillus bubonic plague năm 1894. Ông ta thành lập một phòng thí nghiệm tại Nha Trang, sau đó trở thành viện Pasteur vào năm 1905.

 

Trái với người ta thường ca tụng về ông bác sĩ này. Người ta tìm thấy trong các lá thư viết cho mẹ ông ta, kể tham gia các cuộc hành quyết các người Việt Nam chống lại chính quyền thực dân,…chê dân của đảo Réunion, dân da đen lười,… có lần búa cùn phải chém 5 nhát mới đứt đầu. Kinh


Trước đây, người Pháp dùng hình ảnh ông bác sĩ này để tuyên truyền cho lòng nhân-ái của họ, muốn mở-man các thuộc địa, đem văn minh, khoa học, tình yêu thiên chúa đến những nơi chậm tiến. Nay có nhiều người đọc các thư của ông ta viết cho gia đình, trong viện bảo-tàng của viện Pasteur ở Paris, nói lên tinh thần thực dân của người Âu châu khi xưa.


Tương tự ngày nay, chúng ta được biết những gì người Tây phương đã thực hiện tại Bắc và Nam Mỹ châu, diệt chủng tàn bạo các người dân sở tại.

 

Ông ta viết thư cho thân hữu, chê chính sách của toàn quyền de Lanessan là ngây thơ “annamitophilie”. Lần đầu tiên mình đọc được từ này, Annam là trung kỳ, philie do từ philo của Hy-lạp, tạm hiểu làm bạn, thân hữu với chính quyền Annam, triều đình Huế vì qua mấy vụ Cần Vương, làm tổn thất khá nhiều cho người Pháp. Có dịp mình sẽ viết về vị bác sĩ này mà ngày nay đa số người Việt ca tụng ông ta như thánh.

 

Ông ta không phải một nhà cấp tiến như được tô vẽ nhưng chúng ta không quên những thành quả nghiên cứu y-khoa của vị bác sĩ này. Chúng ta nên nhớ ông ta làm việc cho viện Pasteur Paris, và được công ty hàng-hải Messageries Maritimes trả lương, không phải yêu thương người Việt. Ông này ở Nhà Trang, không nghe nói đến lấy vợ. Nếu toàn quyền Doumer chọn Dankia thì công ty Messageries Maritimes sẽ được lợi nhiều hơn so với công ty do đại uý muốn chọn Bà Nà. Theo mình thì Bà Nà tốt hơn vì gần biển, đường xe lửa, quốc lộ 1 hơn Đà Lạt. Có thể công ty Messageries Maritimes đồng ý ủng hộ con đường chính trị của Paul Doumer, giúp đắc cử tổng thống pháp sau này. Mình đang đọc hai cuốn sách nghiên cứu về Doumer.

 

Ông bác sĩ này chú ý đến chương trình của Paul Doumer và diện kiến ông toàn quyền ngày 19 tháng 7, 1897. Ông ta trình bày các tài liệu mà ông ta ghi lại trong 3 cuộc thám hiểm tại cao nguyên 1892, 1893, 1894. Các ghi nhận cho thấy là một địa điểm tốt cho khu nghỉ dưỡng của Paul Doumer.

 

Đây là sổ tay của bác-sĩ Yersin, ghi lại những gì đã làm khi thám hiểm, tìm ra Lâm-Viên (LangBian). Ông ta đề “voyage chez les Mois”, 24 tháng 2 đến 26 tháng 9, năm 1893 có đóng mộc viện Pasteur tại Paris.


Điểm chú ý là các cuộc thám hiểm của bác sĩ Yersin, không vì mục đích tìm ra địa điểm để xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng mà để tìm kiếm các hầm mỏ, tài nguyên của lâm nguyên. Ông ta đã tìm ra vùng Dankia do công ty pháp Messageries Maritimes trả lương, trước khi diện kiến Paul Doumer.


Người Pháp đến Đông dương, đều cho người của họ đi săn lùng các hầm mỏ, điều nghiên phong thổ,...như trường hợp bác sĩ Yersin là người đem các giống cây cao-su sang Việt Nam để trồng, làm nhựa cho kinh tế xe hơi của họ. Ông ta được công ty hàng hải pháp trả lương.

 

Ông ta ghi rõ như ngày 21 tháng 6 năm 1893, khi ông ta khám phá cao nguyên Lâm Viên (Langbian), đứng trên đỉnh, ông ta thấy vùng Đàlạt ngày nay. Có nói đến rượu cần của người dân địa phương (Mọi)

 

Khi ông ta trở lại vào tháng 2 năm 1894, ông ta ghi lại những chi tiết cần thiết khác. 2 ngày đi bộ từ Langbian, ông ta ghi thời tiết 2 độ celcius. Ông ta thấy nai và có kể cho bà mẹ, không khí khô như vùng đồi núi Thuỵ Sĩ của ông ta.

 

Ông ta hy vọng trong tương lai sẽ có một con đường và xe hoả từ Nha Trang, nơi ông ta làm việc đến vùng cao nguyên, sẽ giúp thành phố Nha Trang trở thành quan trọng.

 

Bác sĩ Yersin xem như cố vấn y tế quan trọng cho Paul Doumer nhưng chuyên gia về khu nghỉ dưỡng vẫn là bác sĩ Alexandre Kermorgant. Năm 1898, ông ta được chỉ thị, nghiên cứu chương trình của ông Yersin và Doumer. Ông ta rên là chúng ta không có các địa danh như Simla hay Darjeeling, nổi tiếng của Ấn Độ của đế quốc Anh. Có lần mình xem phim ấn độ về vùng này. Quá đẹp.

 

Dạo ấy, các tay giàu có người Tây ghé lại Tân Gia Ba của Anh Quốc để nghỉ dưỡng. Bác sĩ Kermorgant ghi: “vấn đề nghỉ dưỡng cho binh lính tại á châu đã được giải quyết với cao nguyên Lâm viên, giúp giảm bớt chi phí cho chính phủ”.

 

Tuy vậy, Paul Doumer vẫn ra lệnh xem-xét các địa điểm khác như núi Ba-Vì, gần Hà Nội. Ông ta nghĩ vấn đề nghỉ dưỡng ở BẮc Kỳ (Tonkin) có thể giải quyết với các khu nghỉ dưỡng tại Trung Hoa, nhưng lại ở ngoài biên giới của đế quốc Pháp. Người pháp chiếm Vân NAm của Trung-hoa để bảo vệ đầu nguồn của con sông Mekông, huyết mạch của Đông Dương.

 

Do đó ông ta chú tâm ở Trung Kỳ (Annam) vì Nam kỳ đất thấp. Langbian có đủ các yếu tố: độ cao, nước dùng, khí hậu tốt. Ngoài ra tại Annam có những địa danh khác như nội địa của Tourane (đà Nẵng) mà người pháp đang bắt đầu xây dựng khu BÀ-nà.

 

Ông ta tìm các ý-kiến ngoài bộ thuộc địa như thanh tra canh nông Đông Dương, Jacquet, được phái lên Langbian để khảo sát khả năng cung cấp trái cây và rau cải âu châu. Ông này rất vui mừng về khí hậu và người dân sở tại (người thượng), rất khoẻ mạnh để làm rãy.

 

Ông Jacques de Montfort, một người du lịch khắp thế giới cho biết là thời tiết của cao nguyên quá tuyệt vời, không khí trong lành và khô khác với sự ẩm ướt của miền đồng bằng Việt Nam.

 

Ông Doumer đề nghị ngoài thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng, có thể trong tương lai sẽ làm thủ đô hành chính cho chính quyền Đông Dương. Gần biên giới Lào và Cao Miên. Đặt cái tên là Lang-Sa, vì dân an nam gọi Pháp quốc là Phú Lãng Sa, tầu gọi là Pháp Lan Tây gọi tắt là Pháp. 

 

Năm 1897, một năm định mệnh cho thuộc địa, đúng hơn là cho Liên Hiệp Đông Dương. Paul Doumer được bổ nhiệm làm toàn quyền, thay thế ông tiền nhiệm de Lannessan, người chủ trương tôn trọng các văn hoá địa phương, muốn trả Bắc Kỳ lại cho triều đình Huế, cai trị gián tiếp. Kiểu ngày nay, chính phủ pháp muốn tôn trọng giữ gìn các nền văn hoá của các người di dân từ thuộc địa họ.

 

Paul Doumer thì chủ trương một chính quyền trung ương mạnh. Ông ta thành lập các văn phòng tài chánh tại Đông Dương và các công ty tư nhân hay do chính phủ độc quyền. Ông ta gia tăng dân sự ngành hành chính thuộc địa. Năm 1900, tổng số công chức của thuộc địa nhiều hơn Ấn Độ to lớn, đông dân hơn Việt Nam của Anh Quốc và Tây Ấn của Hoà Lan. Từ 2,860 công chức lên 5,683 vào năm 1911. 

 

Người pháp bị bệnh tại Việt Nam quá nhiều nên ông Doumer hy vọng sự thành lập khu nghỉ dưỡng trên Cao Nguyên sẽ giải quyết vấn nạn này. Dưới thời toàn quyền de Lanessan, chỉ có Nam Kỳ (cochinchine) là thuộc địa của Pháp quốc, ông ta nghĩ giải pháp sử dụng khu nghỉ dưỡng tại Yokohama bên Nhật Bản tốt hơn, thêm được điểm để giao thương với Nhật Bản.

 

Chương trình này, bắt các y-sĩ làm việc tại Đông Dương lâu hơn trước đây. Ai cũng biết là bệnh ở Đông Dương rất nguy hiểm mà các bác sĩ không dám viết khảo cứu để đời cho họ. Thậm chí, họ phải báo cáo sai, để thực hiện chương trình không tưởng khu nghỉ dưỡng trên cao nguyên Lâm Viên.

 

Với ý định thực thi chương trình này, ngoài ông Yersin ra, còn có những người khác được gửi đi tìm kiếm các nơi khác như Victor Adrien Debay ở Bà-Nà….

 

Paul Doumer muốn thành lập một khu nghỉ dưỡng tại một địa điểm tốt nhất. Dù đã được ông Yersin đệ trình các tài liệu mà ông ta ghi lại khi thám hiểm vùng Langbian. Paul Doumer gửi thêm một đại uý quân đội tên Victor Adrian Debay đi khảo sát vùng gần Huế và Tourane.  

 

Tháng 2 năm 1900, vị đại uý này khởi đầu cuộc tìm kiếm với những binh sĩ khác, để tìm ra trong vòng chu vi 150 cây số cách Tourane, với cao độ 1,200 mét, khô ráo, hướng phía Tây nam. Có dịp mình sẽ kể sau vụ tranh nhau giữa ông Yersin và tên đại uý Debay, để được Doumer chấp thuận đề nghị của mình.

 

Vấn đề là tên đại uý Debay này có nhiều hành động dã man, đánh người cu-li, đi theo khiêng đồ cho đoàn thám hiểm Tây. Ông ta đánh chết Nguyễn văn Niêu, Nguyễn Văn Thiêu, Lê Văn Sĩ ,…. Về Sàigòn thấy đường Lê Văn Duyệt đổi tên thành Lê Văn Sĩ, không biết có phải là ông nông dân bị tên đại uý Debay đánh chết năm 1904, khi đi tìm địa danh BA-nà.

 

Nhiều người tố cáo tội ác ông ta, bị đưa ra toà án quân sự về tội giết người nhưng rồi được tha bổng, cho trở lại chức vụ cũ, sau này được tuyên dương Legion d’honneur, huy chương cao quý nhất do chế độ Napoleon thành lập. Đó là hình ảnh của sự tàn bạo của quân đội Pháp. Chả thấy liberté, fraternité , égalité gì cả. Tự do, bác-ái, bình đẳng là chiêu bài để huyển hoặc thiên hạ.



Lính Tây trả tiền cước xe-kéo, đăng trên tờ “la vie large des Colonies, năm 1912.”


Nếu Doumer vẫn tiếp tục chính sách của de Lanessan, có thể người Việt nhất là trí thức Việt Nam, có thể cộng tác với người Pháp trong tinh thần tương trợ để phát triển Việt Nam. Mình mua hai ổ cuốn sách tây viết về ông Doumer, làm tổng thống pháp, bị ám sát. Lần mò về chính trị của ông ta và người tiền nhiệm.


Theo ông Vũ Quốc Thúc kể thì đồng môn của ông ta là ông Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp học rất giỏi nhưng bị đánh rớt, không được cấp học bổng đi du học ở pháp về luật như ông ta và ông Nguyễn Mạnh Tường. Tương tự ông Nguyễn Tất Thành cũng viết thư xin học bổng học trường bảo hộ như ông Trần Trọng Kim nhưng đơn bị bác. Nếu người pháp không thay đổi chính sách của toàn quyền De Lenassan thì có thể lịch sử Việt Nam và Đông đương có thể có một kết cục khác, tươi đẹp hơn.

 

Chương trình này bị gián đoạn khi Paul Doumer được triều về pháp, sau này làm chính trị được bầu làm tổng thống Pháp quốc và toàn quyền Albert Sarault thay thế. Ông ta chọn Đàlạt thay vì Bà-na được đại uý Debay đệ trình. Ngoài ra còn có những địa danh khác được thành lập những khu nghỉ dưỡng nhưng không quy mô như Đàlạt : Sapa, Tam Đảo, Mau-Sơn ở Bắc kỳ, Bokor ở Campuchia, Tranninh ở Lào. (Còn tiếp)


Mình sẽ kể từ từ rồi sẽ ghép lại một bài tổng thể.

Nhs

 

Bột ngọt, mì chính độc hay hại?

  Nhớ dạo về Hà Nội lần đầu tiên, mình ghé quán phở để thưởng thức món phở Bắc ra sao. Có như ông Nguyễn Tuân tả ngon hơn tên đao phủ thủ mài dao chém đầu tử tù. Mình thấy bà bán phở, bỏ thịt, bánh phở rồi một thìa bột trắng trắng vào tô, rồi chang nước dùng phở lên. Mình hỏi anh chàng đi cùng, dân Sàigòn thì mới biết họ bỏ mì-chính khiến mình như ngỗng ị. Sau này được giải thích là bột ngọt. Ngoài Bắc họ dùng khẩu ngữ của người Tàu trong khi ở miền nam trước 75, gọi là bột ngọt.

 

Lần đầu tiên sang Hoa Kỳ chơi, có anh bạn học cũ Đàlạt, chở đi ăn mì. Ngon nức nở. Khi về, anh ta kêu vợ anh, bị dị ứng bột ngọt nên hơi mệt. Nghiệm lại đúng vì mỗi lần đi ăn cơm tàu, trong người bồn chồn, khó chịu do họ bỏ bột ngọt quá nhiều.

 

Có lần mình đi ăn mì ở một tiệm ngay bôn sa, khá nổi tiếng từ Sàigòn. Khi đi nhà vệ sinh, mình thất kinh, thấy một núi bao bột ngọt, chất tới trần nhà, bao nào ba nấy to như mấy bao gạo nên từ đó hết dám ăn mì ở đây. 

 

Mình có kể trong bài nước mắm làm tại Cali, hoàn toàn không có chất bảo quản hay muối giả như ở Thái Lan, Việt Nam,.. Có hai giáo sư Nhật Bản tìm ra umami rồi sáng chế bột ngọt, trong thế chiến đã tạo ra mì ramen khô để binh lính ăn. Ai thích thì đọc trên blog này.

 

Trong các đồ hộp, đồ khô, có nhiều chất bảo quản và gia vị. Trong số đó chất Monosodium glytamate thường được viết tắt là MSG, người Việt gọi bột ngọt, rất độc hại, mà ngày nay người ta khám phá nó mang lại ung thư. Giết hại các tế bào não bộ, phá hại thận, đưa đến bệnh Alzheimer, Parkingson,…

 

MSG, bột ngọt là một gia vị, đa số là Glutamic acid và Sodium. Ở á châu được sử dụng trong thực phẩm rất nhiều. Ngoài ra còn được bỏ trong các lon đồ hộp, bánh khô, thực phẩm thiếu nhi, sữa trẻ em hay thức ăn nhanh.

 

Nếu chúng ta múc một muỗng ăn thì không thấy gì, ngược lại khi chúng ta trộn với thức ăn thì bột ngọt, chạm vừa lưỡi, sẽ giúp đồ ăn ngon hơn vì đánh thức được giác quan thứ 5, thường được gọi là umami.


Các đầu bếp tây phương trứ danh, nay không sử dụng bột ngọt nữa, thay vào đó họ dùng nước mắm nhỉ để tạo ra umami. Nước mắm nhỉ có amino acid, chất đạm do cá tạo ra, giúp tạo umami.

 

Bột ngọt kích thích não bộ muốn ăn thêm, do đó các tiệm ăn bỏ vào thực phẩm để khuyến khích chúng ta trở lại. Mấy loại khoai Tây chiên đều có bột ngọt hay các loại tương tự hết.

 

Công ty Ajinomoto của Nhật Bản là công ty sản xuất bột ngọt lớn nhất thế giới, cũng là một công ty dược phẩm. Bột ngọt được ưa chuộng sau đệ nhị thế chiến, khi các binh sĩ Hoa Kỳ khám phá ra các lương khô Nhật Bản có mùi vị ngon hơn lương khô của Hoa Kỳ sản xuất. Do đó các nhà sản xuất thực phẩm, bỏ bột ngọt giúp tăng thêm hương vị. Tương tự, họ đem về các món ăn khi họ đóng quân ở âu châu như món Pizza.


Pizza là món ăn nhà nghèo, chỉ có miền nam nước ý như Napoli mới ăn. Khi quân đội mỹ đổ bộ lên nước ý, đóng tại vùng này thì được ăn món ăn nhà nghèo nhưng nhanh, hợp với quân lính không có thì giờ ăn tiệm hay tiền. Khi lính Mỹ về lại nước, đi vào các quán ăn gốc ý, hỏi Pizza khiến chủ tiệm ngọng. Từ đó họ làm thêm Pizza để bán cho người Mỹ. Văn hoá mỹ truyền bá khắp nơi, lại đem Pizza về lại xứ Ý. Mình nghe tên bạn ý ở miền Bắc Ý Đại Lợi kể. Từ đó mới có những quán Pizzeria xuất hiện ở Ý Đại Lợi.

 

Năm 1959, FDA của Hoa Kỳ tuyên bố bột ngọt; được xem là an toàn trong khi các nước khác cấm sử dụng loại này. Bột ngọt (MSG) có hệ ứng ngầm người Mỹ gọi là “chinese restaurant syndrome” , hội chứng tiệm ăn tàu như vợ anh bạn, bị sau khi làm một tô mì ở bôn-sa. Do đó đi ăn tiệm Việt Nam, xa Bolsa thì đa số thực khách là người Mỹ nên họ không bỏ bột ngọt, lại thấy không ngon như tiệm ăn ở vùng bôn-sa, dành riêng cho thực khách gốc việt. Chán Mớ Đời 

 

FDA đổi tên hội chứng này thành “MSG Symptom Complex), có lẻ sợ Trung Cộng chửi, xem như một phản ứng ngắn hạn, và cơ thể chúng ta báo động, không nên bồi dưỡng bột ngọt.

 

Trong cuốn “Exitotoxins: The Taste that kills”. Bác sĩ Russell Blavlock, giải thích MSG là một exitotoxin, kích thích quá độ các tế bào não-bộ, huỷ-hoại não bộ, và đưa đến các bệnh não bộ như MS, Parkinsons và Alzheimer.


Có dạo mẹ mình sang Hoa Kỳ chơi, đi chợ khu Việt Nam cho bà cụ vui, thấy bà cụ bỏ một gói bột ngọt to đùng vào xe, kêu có cái này nấu mới đậm đà khiến mình thất kinh, phải giải thích cho bà cụ nhưng chắc về Việt Nam, lại nấu nướng với bột ngọt.

 

Vấn đề là MSG có độ 78% “Free glutamic acid”, một loại có chức năng, dẫn truyền thần kinh mà hệ thống não bộ, thần kinh, tuyến tuỵ, mắt,…sử dụng. FDA đồng ý là nghiên cứu cho thấy cơ thể dùng glutamate, một loại amino acid, như một chất dẫn truyền thần kinh trong não và các mô phản ứng với glutamate ở các bộ phận khác của cơ thể.

 

 Chức năng bất thường của các thụ thể glutamate có liên quan đến một số bệnh thần kinh, chẳng hạn như bệnh Alzheimer và Huntington. Người ta thí nghiệm bằng cách tiêm glutamate vào động vật trong phòng thí nghiệm, kết quả cho thấy làm tổn thương các tế bào thần kinh trong não. Kinh

 

FDA cho rằng bồi dưỡng bột ngọt là an toàn nhưng lại cảnh báo các hệ ứng như sau: đau đầu, buồn nôn, tim đạp nhanh, chóng mặt, … nên nhớ là FDA có rất nhiều giám đốc các công ty dược phẩm và thực phẩm làm thành viên. Gần đây, ông Joe Biden bổ nhiệm tân bộ trưởng canh nông là một cựu giám đốc của công ty Monsanto. Kinh

 

Ngày nay, người ta bắt đầu cẩn thận, tìm cách tránh tiêu dùng MSG, khi đi ăn tiệm, hay thấy đề trong thực đơn là họ không sử dụng bột ngọt. Các công ty thực phẩm, bỏ sử dụng từ MSG thay vào đó các tên mới vì FDA, bắt buộc các công ty thực phẩm phải ghi tên “monosodium glutomate” trên nhãn hiệu nhưng không bắt buộc phải ghi trên nhãn hiệu những hoá chất “free glutamic acid” cho dù nguyên liệu là MSG. Có trên 40 danh xưng có chứa Glutamic Acic. Xem bản sau đây:




 Chúc các bác một ngày vui vẻ. Chán Mớ Đời 


Nhs