Nhà nguyện Ronchamp, từ Le Corbusier đến Renzo Piano

Này được xem như tranh của MOndrian




 RONCHAMP: NHÀ THỜ BAY


Đang chuẩn bị đi Âu châu nên xem các công trình kiến trúc nổi tiếng để viếng nếu thuận đường đi thì chợt nhớ đến ông thần kiến trúc Le Corbusier mà khi mình vào học thì phải học các công trình của ông này. Mấy ông thầy thì xem ông này như thánh. Cứ một là Corbu nói như thế này hai là Corbu nói như thế kia. Có lần đọc bài kể một chủ nhà ở Pháp kêu ông kiến trúc sư này thiết kế khi xưa, bị dột khiến chủ nhà phải mướn kiến trúc sư khác thiết kế thêm cái mái nhà để tránh bị dột. Nhà mà có mái bằng là hay bị dột. Cứ độ tối đa 10 năm là phải lợp mái lại.


Chuyến đi này mình sẽ ghé rất nhiều Nhà Thờ, vì đi theo con đường hành hương của người công giáo. Đi bộ suốt 3 tuần lễ và mỗi nhà thờ mình sẽ ghé lại thắp nến và cầu nguyện dù mình là người lương. Hy vọng sẽ dừng lại để vẽ esquisse vì không có thời gian để tô màu. Lục đồ nghề vẽ ra để sẵn chỉ sợ vác không nổi vì mỗi ngày, vác ba-lô đi bộ từ 25-30 cây số.


Có nhà nguyện được ông thánh kiến trúc Le Corbusier rất nổi tiếng nên tính đi viếng năm nay nếu không thì sang năm mình sẽ để dành vài tuần mướn xe chạy vòng vòng xứ Tây và Thuỵ Sĩ để viếng. Mình mở sách về lịch sử kiến trúc hiện đại để đọc lại thì thấy họ kể về nhà nguyện này như một công trình nổi tiếng, đột phá tư duy của thế kỷ 20.


Mình xin tóm lược lại đây. Nhất là nhà nguyện này được một kiến trúc sư danh tiếng Renzo Piano (ông này và kiến trúc sư Rogers đã thiết kế Trung Tâm Văn Hoá Pompidou ở Paris), thiết kế tiếp phần chỗ nhà ngủ mới sau này. Lâu lâu tìm về con đường nghệ thuật đã bỏ từ 30 năm qua. Như đứa con hoang đàng chợt nhớ lại chuyện cổ ngày xưa. 


Ông Le Corbusier phán một câu khi thiết kế nhà thờ này: “Tôi muốn tạo ra một nơi tĩnh lặng, bình yên và niềm vui nội tâm.” Đây là câu nói của kiến trúc sư người Pháp gốc Thụy Sĩ Le Corbusier, tên thật là gì mình quên, lười đi mò quá. Đại loại Jeanneret hay gì đó. (1887-1965) về nhà thờ Notre Dame du Haut, còn được gọi là La Chapelle. Những lời này có thể được đọc bên trong cổng, trung tâm tiếp tân mới do kiến trúc sư người Ý Renzo Piano thiết kế và khánh thành vào năm 2011. Rất khó để mô tả công trình này của ông Le Corbusier, một trong những ví dụ chính xác và thành công nhất về kiến trúc tôn giáo của thế kỷ 20, một công trình có thể được ví như Đền Pantheon của Rome hay bất kỳ biểu tượng nào khác trong lịch sử kiến trúc bởi khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ. 


Nghe nói lúc đầu ông ta từ chối vì không ngoan đạo, có thể là đạo Tin Lành. Có thể nói ý tưởng của nhà thờ này đã khai phá con đường mới về kiến trúc tôn giáo trên thế giới. Ngày nay họ không xây nhà thờ theo kiểu hình chữ Thập như xưa nữa.


Như một ảo ảnh khó giải thích; khi chiêm ngưỡng, thời gian dường như không trôi qua. Dù là vì lòng sùng kính hay sở thích, sự thật là gần 100.000 người du khách đến thăm khu phức hợp này mỗi năm. Khu vực này giờ đây là một thánh địa: ở đó, những người yêu thích nghề kiến trúc, nhiều người trong số họ là giáo dân, soạn lời cầu nguyện cho vị á thần của kiến trúc, và cầu nguyện cho những người Công giáo, bị khuất phục bởi một không gian lễ hội, nơi mà họ tham gia. Có dạo mình đi làm ở Basel, Thụy Sĩ cách chỗ này độ 100 cây số nhưng không đi viếng vì không có xe cộ. Phải chạy qua biên giới pháp-Thuỵ Sĩ đủ trò, nay thì chắc dễ.

Axonometrie của nhà thờ 

Loại esquisse này khi xưa, mình phải học vẽ kiểu này khá nhiều


Công trình tọa lạc trên một ngọn đồi cao khoảng 150 mét, mở ra quang cảnh Ronchamp, đông bắc nước Pháp. Ngọn đồi, mang giá trị biểu tượng to lớn đối với người dân địa phương, đã thu hút Le Corbusier như một yếu tố cảnh quan khi ông đến thăm vào năm 1950. Ông coi nó như một bài thơ, được bao quanh bởi rừng và hai bên là núi. Le Corbusier đã phác thảo bằng bút chì những nét phác thảo đầu tiên, bốn yếu tố trên bốn điểm chính của ngọn đồi, trung tâm là nhà nguyện. Ở đầu phía nam là nơi ở của các nữ tu; ở đầu phía bắc là một kim tự tháp bậc thang như một biểu tượng của hòa bình, được xây dựng trên phần còn lại của nhà thờ cổ bị đánh bom trong Thế chiến I; ở đầu phía tây có một lối đi dạo cho phép thực hiện các nghi lễ phụng vụ cho một số lượng lớn khách hành hương, và ở đầu phía tây là một cấu trúc kim loại chứa ba quả chuông. Sau này được ôgn Jean Prouvé, thiết kế.


Theo tài liệu thì nhà thờ và dòng nữ tu đã có từ lâu nhưng vào thế chiến thứ 1 bị bom đạn nên sau đệ nhị thế chiến, nhà thờ mới có ý định xây lại mới nên mướn ông Le Corbusier.

Cửa sổ đưa ánh sáng vào như bức tranh của Mondrian
Mái nhà được cách ly với tường bằng kính nên cảm thây như bay bổng, không dính liền. Một ý tưởng sáng tạo khá lạ vào thời ấy 



Những yếu tố tôn giáo duy nhất bên trong là Đức Mẹ Đồng Trinh và cây thánh giá. Cảm giác như một khối điêu khắc thấm đẫm trường phái Lập thể, Mondrian và có lẽ cả Baroque. Nơi đây trưng bày những hình khối kiến trúc hữu cơ của thập niên 50, chẳng hạn như Bảo tàng Guggenheim New York của Frank Lloyd Wright, hay dự án của kiến trúc sư người Mỹ gốc Phần Lan Eero Saarinen tại nhà ga New York của hãng hàng không TWA. Nhà nguyện được hình thành dựa trên khái niệm Modulor (hệ thống kết hợp hài hòa được Le Corbusier mô tả chi tiết từ kích thước của người đàn ông giơ tay lên: 226 cm), và trong tính linh hoạt của công trình, kiến trúc sư cố gắng thể hiện "joie interieure" (niềm vui nội tâm) vốn là những khái niệm kiến trúc đầu tiên của ông. Nhà nguyện bao gồm một bồn chứa duy nhất với hai lối vào trên các bức tường bên, một bàn thờ và ba nhà nguyện với các tháp tương ứng. Cửa chính dường như được phủ hai mặt bằng những tấm thép tráng men màu sắc tươi sáng.




Ánh sáng khiến người xem có cảm tưởng cái mái nhà bay bổng, không dính vào tường. Mái nhà được chịu đựng bởi các cột bê tông
Hồi mình làm cho kiến trúc sư Rafael Vignoly ở New York , thiết kế trung tâm quốc tế triển lãm ở Đông Kinh Nhật Bản, ông ta bỏ sườn chiếc tàu trên nóc nhà khiến mình nhớ đến nhà thờ này.

Bức tranh lập thể do chính Le Corbusier vẽ


Ánh sáng tự nhiên là một yếu tố quan trọng khác của tòa nhà. Một tia sáng khoảng mười cm ngăn cách trần nhà với các bức tường, tạo nên hiệu ứng cảnh quan ấn tượng bên trong. Cửa sổ được tạo thành từ các lỗ hổng trên tường, giúp chuyển động của mây và cây cối trở thành một phần không thể thiếu của tòa nhà. Hệ thống kiến trúc rất đơn giản: tường trắng; trần xám; sàn bê tông và đá; ghế dài bằng gỗ châu Phi. Vùng bóng râm được tô điểm bằng những chùm đèn. Trong một số khoảng trống, ánh sáng được lọc qua kính màu đỏ, xanh lam, vàng và xanh lục. Cái này khá hay như các cửa kính thời trung cổ được vẽ màu lên




ý tưởng làm lễ ngoài trời khá mới mẻ khi người hành hương đến quá đông





Tôn vinh những người thợ nề và là tiền thân của công nghệ số, kiệt tác kiến trúc thế kỷ 20 này được hoàn thiện với việc mở rộng dự án, được khai trương vào năm 2011 trên sườn đồi và do kiến trúc sư Renzo Piano hợp tác với nhà thiết kế cảnh quan người Pháp Michel Corajoud thực hiện. Một sự can thiệp không ảnh hưởng đến tầm nhìn của nhà thờ mà còn mở ra quang cảnh xung quanh. Trong số các tiện nghi mới có tòa nhà lễ tân, cổng chào và tu viện. Renzo Piano đã chọn sự khiêm nhường: điều mà các nữ tu tại đây cũng tìm kiếm. Sơ Brigitte của Singly, Viện mẫu, đã giao cho cô nhiệm vụ này và yêu cầu một không gian tĩnh lặng, chậm rãi, hòa mình với thiên nhiên. Renzo Piano đã chịu đựng những tranh cãi nảy sinh từ sự táo bạo xây dựng bên cạnh công trình của thiên tài này và đã hoàn thành. "Những nữ tu may mắn", một nhà phê bình đã gọi họ như vậy sau khi chứng kiến những không gian tươi sáng và hân hoan mà người Ý này tạo ra.


Vào tháng 9 năm 2011, một dự án mở rộng và cải tạo lớn cho Nhà thờ Đức Bà Haut của Ronchamp đã hoàn thành theo thiết kế của kiến trúc sư Renzo Piano (RPBW). Việc mở rộng bao gồm một cổng mới và một tu viện mới của các Nữ tu dòng Thánh Clara. Cả hai tòa nhà đều được chạm khắc khéo léo vào sườn đồi, để không cản trở hoặc làm hỏng tầm nhìn của nhà nguyện Le Corbusier.

#7 là phần của kiến trúc sư Renzo Piano thiết kế, điểm hay là ông ta chôn khu vực này để khi con chiên lên trên nhà thờ sẽ không bị chắn khi nhìn xuống. Đó là lý do vì sao kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khi thiết kế nối kết khu Hoà BÌnh và Chợ Mới Đà Lạt. Khởi đầu thì hai bên cầu thang từ đường Lê Đại Hành  xuống chợ là vườn hoa nhưng không hiểu lý do sau khi ông Diệm, thị trưởng Trần VĂn Phước bị đổi. Thị trưởng tiếp theo cho phép ông Nguyễn Linh Chiểu xây khách sạn Mộng Đẹp, ông này chơi cha xây thêm một tầng rồi trả tiền phạt thay vì bị đập phá. Nên từ khu Hoà Bình người ta không nhìn thấy hồ Xuân Hương cũng như từ hồ Xuân Hương người dân Đà Lạt không nhìn thấy nóc chuông khu Hoà Bình.

Cổng (tiếng Pháp gọi là La Porterie) bao gồm một khu vực tiếp tân, một triển lãm lịch sử nhỏ trưng bày mô hình phấn nguyên bản của Nhà nguyện được làm vào năm 1954 và mô hình mở rộng của Piano, một lò sưởi lớn, một phòng họp, một khu vườn mùa đông nhỏ, một cửa hàng và các văn phòng hành chính.

Phần chỗ trú ngụ của các sơ được kiến trúc sư Renzo Piano thiết kế với kiến trúc sư về cây cảnh (paysagiste).
Phần này do ông Le Corbusier  thiết kế khi xưa cho khách ở.
Đây cũng là một nhà thờ do ông Le Corbusier thiết kế trước khi chết nhưng chỉ được hoàn thành năm 2006. Hôm nào mình kể vụ này. Chắc năm tới đi pháp lâu lâu kêu mụ vợ đi theo, mướn xe để đi viếng mấy chỗ này.










Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Donna Donna

 Donna Donna 

Hôm qua đang đi bộ, tập luyện để đi bộ Via Francigena từ Lucca đến La Mã tháng tới, bổng nhớ đến bài hát Donna Donna khi xưa nghe ở Đà Lạt. Có lẻ kể chuyện về 4 chị em họ Chử nên nhớ đến thời xưa. Khi xưa, hàng xóm có một ông thần học Yersin trên mình đâu 5, 6 năm nên mình hay bò sang nhà để nghe ké nhạc Tây, nhạc Mỹ nhất là xem Playboy. Ông thần này dạy đối tượng của ông thần Dũng 302, xóm địa dư nay ở Montreal nhảy đầm. Cô này cũng hàng xóm của mình luôn, nay ở San Jose. 


Có bài Donna Donna do Claude Francois hát, bổng nhiên nhớ lại những ca từ nói về thằng bé, sống trong một ngôi nhà to lớn, cuộc sống chứa chan hạnh phúc và niềm vui nhưng tận đáy lòng đứa bé trai có những ước mơ, trở thành người lớn. Rồi thằng bé rời xa nhà, trải nghiệm bao nhiêu cuộc tình đẫm lệ, đói khát của cuộc đời để rồi một ngày nào đó nhớ lại và tiếc nuối thời thơ ấu đầy mộng mơ. 


https://youtu.be/vxvBHkRxLo4?si=AuMKggNy2n8nq-ol


Il était une fois un petit garçon

Qui vivait dans une grande maison

Sa vie n'était que joie et bonheur

Et pourtant au fond de son cœur

Il voulait devenir grand

Rêvait d'être un homme

Chaque soir il y pensait

Quand sa maman le berçait


Donna Donna Donna Donna

Tu regretteras le temps

Donna Donna Donna Donna

Où tu étais un enfant


Puis il a grandi, puis il est parti

Et il a découvert la vie


Les amours déçues, la faim et la peur

Et souvent au fond de son cœur

Il revoyait son enfance

Rêvait d'autrefois

Tristement il y pensait

Et il se souvenait


Donna Donna Donna Donna

Tu regretteras le temps

Donna Donna Donna Donna

Où tu étais un enfant


Parfois je pense à ce petit garçon

Ce petit garçon que j'étais


51 năm để nhìn lại ngày xưa còn bé, với nhiều ước mơ đi Tây, mơ ngày trở lại Việt Nam để rồi vài tháng sau đến Tây, Sàigòn trở thành bên thua cuộc. Bao nhiêu mộng mơ đều tan biến. Gia đình không biết sống chết ra sao suốt 3 năm trời trước khi có thư từ được cho gửi về Việt Nam. Mặc cho dòng đời đưa đẩy từ nước này sang nước nọ, từ Âu châu sang Hoa Kỳ.


Mình nhớ cũng vì bản nhạc này mà mình bị bọn Tây học chung chửi. Lý do là mình ngồi vẽ trong atelier thì buồn đời mình hát bản nhạc này. Mấy thằng Tây con đầm kêu sao mày hát toàn nhạc ýe ýe không. Rồi tụi nó cho nghe Joan Baez hát tiếng anh bản nhạc này. Lúc đó mới biết bản nhạc này được Tây chuyển ngữ như ở Sàigòn khi xưa, có phong trào nhạc trẻ, chuyển ngữ nhạc Tây, nhạc Mỹ ra việt ngữ. Có lần mình hát bài Seasons in the Sun. Rồi cãi nhau với Tây đầm là nhạc Mỹ không phải nhạc Tây khiến chúng cười, kêu mình ngu mà không biết. Sau này mới biết bài này do Jacques Brel, người Bỉ, là tác giả. Bài hát mang tên “Le Moribond”. Sau này được một ông Mỹ tên Rod McKuen chuyển ngữ ra Seasons in the sun. Từ đó mình được chúng cho mượn băng cassette để nghe nhạc Tây, kiểu có trình độ tiếng Tây cao cao hơn những bài hát của thời học sinh, choai choai. Salut les copains. 


Nghe bản chính bằng tiếng yiddish 


https://youtu.be/nrERf0RwnrQ?si=82cD7pAmEBJjBEay


Bà nhạc sĩ Joan Baez hát bài hát từ một bài hát Yiddish, của người do thái “Dana Dana"(in Yiddish דאַנאַ דאַנאַ). Nhờ bà Joan Baez khiến bài hát này nổi tiếng vào thập niên 1960. Bản nhạc chính được viết năm 1940 bởi Sholom Secunda và Aaron Zeitlin. Tên bản nhạc là Dos Kelbl (con bê). Bản nhạc nói về con bê được đưa đến lò sát sinh, khác với con chim én, tự do trên bầu trời. Biểu tượng cho tự do và sự áp bức của bạo quyền. Đến năm 1956, được chuyển anh ngữ bởi Arthur Kevess và Teddi Schwartz. 


Đến khi bà Joan Baez hát bản nhạc này vào thời gian có cuộc đấu tranh về quyền Dân sự và chiến tranh Việt Nam, khiến khắp nơi trên thế giới đều biết đến. Tương tự khi qua Tây mới nghe bài hát của Bod Dylan “Blowin’ in the wind”. Con bê tượng trưng cho những người thụ động trước sự bất công, trong khi con én tượng trưng cho những người lựa chọn tự do, ngay cả khi điều đó có đến nguy hiểm.


https://youtu.be/j1zBEWyBJb0?si=6QlACnYSYz3V3FK5


A calf is being led away on a wagon to the slaughterhouse at dawn.

Above, a swallow flies freely in the sky.

The calf cries as it watches the bird.


Refrain :

Donna, Donna, Donna, Donna… (nonsense syllables used for rhythm)


The swallow says to the calf:

“You’re weak and without will.

If calves could grow wings,

They could escape the farmer and his knife.”


The winds blow freely across the plains,

Laughing and playing with the clouds.

But calves remain trapped,

Because they never try to break free.


Cho thấy bản nhạc pháp ngữ do Claude Francois hát khác ý nghĩa với bản anh ngữ. Có lẻ âm điệu hay nên ông thần Claude Francois chuyển ngữ theo ngẫu hứng của ông ta thay vì đấu tranh chính trị như những năm của thập 60 tại Âu châu và Hoa Kỳ.


Nhớ khi xưa ở Việt Nam, mình nghe bản nhạc này thấy hay hay vì dạo ấy, mơ đi Tây hơn mê gái. Muốn thoát khỏi khung cảnh chết chóc của chiến tranh. Để rồi ngày nay, nhớ lại thời thơ ấu, lại nối tiếc những gì không thực hiện được của thời mới lớn. Đành kể chuyện đời xưa tại Đà Lạt. Chán Mớ Đời 


Parfois je pense à ce petit garçon

Ce petit garçon que j'étais


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn