Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Những con đường Trường Sơn #2


Những con đường Trường Sơn #2

Khi Mỹ bảo kê cho Lon Nol truất phế ông Sihanouk, thì Hải cảng Sihanoukville không còn được sử dụng để nhập vũ khí của Liên Xô tiếp tế cho Việt Cộng nên Hà Nội phải tìm đường khác. Họ phải sử dụng con đường 559, nghe nói được thành lập tháng 5 năm 1959. Cho thấy Việt Cộng đã tính xa việc đánh phá Việt Nam Cộng Hoà bằng vũ lực từ lâu. Họ phải tạo ra một vùng đất ngoài vòng kiểm soát của chính phủ Lonnol.

bản đồ các con đường Trường Sơn tiếp vận từ Cao Miên, Lào để xâm chiếm miền Nam


Do đó họ Việt Cộng phải liên minh và phối hợp với nhóm Khờ me đỏ, chống đối chính quyền Lonnol, để tiến hành các chiến dịch đánh phá các tỉnh miền đông Việt Nam Cộng Hoà, qua các vùng như SIÊM Reap, STUNG TRENG. Từ đó vũ khí từ con đường 559 từ Hạ Lào đưa vũ khí vào đất Campuchia và các vùng biên giới. Họ thành lập đoàn 770 chuyên chuyển hàng từ miền đông Bắc Cao miên về Việt Nam Cộng Hoà. Nghe nói có đến 3,377 người, được chia thành 5 cánh chuyên chở bằng xe vận tải lớn.


Năm 1970, khi Lonnol lên nắm chính quyền thì người Mỹ cho phép Việt Nam Cộng Hoà đánh vào các sào huyệt của Việt Cộng tại biên giới. Dạo ấy có nạn cáp duồn sát hại người cao miên gốc việt. Nên quân đội Việt Nam Cộng Hoà tiến qua biên giới nhân danh bảo vệ người Việt đánh Việt Cộng tơi bơi hoa lá. Ông tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy, ông ta cho truy kích Việt Cộng chạy về phía Bắc, Hạ Lào nhưng Hoa Kỳ không chịu, cuối cùng trực thăng của ông ta nổ trên trời.


Việt Cộng đem quân và vũ khí từ Hạ Lào xuống do đoàn 340 phụ trách. Đoàn 340 này được xem là lớn nhất trong các đoàn tiếp liệu, có đến 4,189 người, gồm 4 cánh quân nhu, 3 tiểu đoàn vận tải, 5 liên trạm nối liền từ Stung TRENG xuống Khatie. Hồi đi cao miên, mình không biết vụ này, nếu không chắc cũng bò đến mấy vùng này để xem. Họ thành lập 4 bệnh viện và một đoàn công binh để xây cầu, làm đường… năm 1970-1972, trên tuyến đường này Việt Cộng chuyên chở đến 26,147 tấn vũ khí các loại, song song họ đưa hàng nghìn cán bộ và bộ đội vào miền nam. Trong đó có ông chú ruột mình, bị B52 dập chết trên đường Trường Sơn.


Ngoài ra họ có thành lập một con đường Trường Sơn đặc biệt về hàng không, mang tên Đoàn 919. Đoàn này được thành lập vào tháng 2 năm 1960, nhằm rút ngắn đường tiếp tế vào miền Nam. Họ sử dụng phi trường Cát Bi ở Hải Phòng. Tàu bè Liên Xô chuyên chở vũ khí cập bến và đưa thẳng lên máy bay. Lúc đầu họ thả dù xuống các vùng như Mường Phìn, Mường Phalan... nhiều khi phải bay thấp để thả luôn các thùng vũ khí xuống vùng này. Sau này họ cùng Pathet Lào chiếm đóng các vùng này nên sử dụng phi trường Chepone, Hạ Lào mà khi xưa mình hay nghe đài truyền thanh nói đến. Việt Nam Cộng Hoà gọi là Hạ Lào, còn Việt Cộng gọi là Nam Lào. Họ đưa quân và vũ khí xuống mấy phi trường này. Từ đây bộ đội tiến vào Nam còn hàng hoá thì được Đoàn 559 chuyển vào Nam qua các trạm Tăng Noong thuộc Quảng Nam, Đắc LAn thuộc Kon-Tum….



Theo tài liệu Việt Cộng thì “Trong ba năm từ 1960-1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của đoàn 919 phối hợp với phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng xuống 20 địa điểm khác nhau trên đất Lào.” Nhưng chỉ tồn tại được đến năm 1963. Lý do là từ năm 1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên tâyTrường Sơn được nữa. Chỉ từ đầu năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về VN, nhiều vùng chiếm đóng đã hình thành ở miền Nam, hình thức vận chuyển hàng không quân sự mới lại được sử dụng rộng rãi. Cho thấy sau hiệp định Paris thì Việt Nam Cộng Hoà bị Hoa Kỳ cúp viện trợ trong khi Liên Xô gia tăng viện trợ cho Việt Cộng. Tính từ 1960 cho đến kết thúc chiến tranh tháng 4-1975, đoàn 919 đã vận chuyển vào miền Nam và xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, không biết mỗi lượt như vậy là bao nhiêu bộ đội, không nghe họ nói. 31.000 tấn vũ khí đạn dược, khí tài, lương thực, thuốc men và hàng hóa quân sự...


Trích tài liệu của Hà Nội 

“Vận tải hàng không dân sự là hình thức vận chuyển công khai nhưng lại tuyệt mật. Đó chính là tuyến vận tải hàng không dân dụng bình thường của Vương quốc Campuchia (Air Cambodia) bay từ Phnom Penh đi Hà Nội, hoặc từ Phnom Penh đi Quảng Châu, Hong Kong rồi theo đường sắt hoặc đường hàng không về Hà Nội. Sở dĩ công khai vì nó sử dụng một loại đường bay thương mại bình thường như mọi đường bay khác. 

Nhưng cũng là tuyệt mật vì nó gài vào trong đường bay bình thường những "hành khách" không bình thường. Máy bay của Air Cambodia được quyền bay ngang lãnh thổ miền Nam VN, cũng như máy bay của Nam VN được phép bay từ Sài Gòn qua không phận Campuchia để đi Bangkok, Tây Âu. Con đường này rất an toàn, vì nó là sự mạo hiểm được bọc lót dưới một hình thức công khai hợp pháp. 

Tất nhiên đó là sự mạo hiểm được tổ chức rất chu đáo: từ căn cước giả, tên giả, đến lai lịch giả đều có một bộ phận chuyên trách thu xếp, sử dụng đến những phương tiện hiện đại bậc nhất lúc đó. Khi đã có đủ giấy tờ hợp pháp, lại phải bọc lót suốt từ khâu soát vé đến khâu kiểm tra hành lý. Tại đây đều có người của "Ban cán sự K". Loại nhân viên này thường không phải là cán bộ cách mạng mà là những nhân viên có lý lịch rõ ràng, không có chút gì khả nghi. Thường đó là người Hoa, người Ấn, người Lào, người Khơme... có cảm tình với cách mạng VN. Đã có hàng ngàn cán bộ cao cấp đi ra đi vào miền Nam bằng con đường này, tức là bay qua không phận của miền Nam VN, mà chưa xảy ra một vụ nào rắc rối. 

Con đường này cũng đã đảm nhiệm vận chuyển những tài liệu, khí tài quan trọng như máy móc, điện đài, hàng triệu đôla để chi viện cho miền Nam. Những gia đình và con em cán bộ miền Nam cũng đi ra Bắc bằng con đường này. Đặc biệt là việc di chuyển hàng ngàn học sinh Trường Nguyễn Văn Trỗi ra Bắc theo tuyến hàng không này. Những bệnh binh, thương binh, những người ốm nặng... thường cũng được đưa theo con đường này để kịp thời ra Bắc chạy chữa, an dưỡng... 

Một trong những nhân viên lữ hành (người làm khâu quan trọng và nguy hiểm nhất như kiểm tra vé, căn cước, visa, nhận diện, cân hành lý...) ở sân bay Pochentong là ông Check Nguyễn Cang, một người Ấn Độ lai VN. Ông có cha là một thương gia lớn người Ấn Độ tại Sài Gòn từ lâu đời, lấy vợ VN và có nhiều con. Ông Cang đã bí mật hoạt động cho Việt Minh từ thời kháng chiến chống Pháp, dưới cái vỏ là một viên chức làm cho Air France ở Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève, đến năm 1955, ông sang Phnom Penh làm cho Air Cambodia với cái tên hoàn toàn Ấn Độ là Check Kesath. Với một lý lịch như thế ông không bị ai để ý. Nhưng ông là một trong những đầu mối chính lo các giấy tờ, đồng thời cũng là nhân viên cửa ga.

Ông hoạt động ở đó suốt những năm chiến tranh, cho đến tháng 3-1975 không may ông bị chính quyền Pol Pot phát hiện và thủ tiêu. Em ruột của ông Nguyễn Cang là Kamal Nguyễn, bác sĩ tại bệnh viện thành phố Lille (Pháp), cũng là chủ tịch Hội Việt kiều tại đây, kể lại: "Anh tôi đã hoạt động cho Việt Minh ngay từ những năm 1950, chuyên lo việc đưa người của mặt trận lọt qua hệ thống kiểm soát của sân bay để bay về Hà Nội và từ Hà Nội bay sang Phnom Penh, rồi từ đó bí mật đi vào vùng giải phóng". Hết trích.


Mình đang tìm kiếm xem số lượng khí tài của Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà để so sánh với Liên Xô viện trợ cho Hà Nội từ sau hiệp định Paris. Hoa Kỳ tuân theo những gì đã ký trong khi Hà Nội và Trung Cộng thì không. 


Dưới đây là thống kê ước tính vũ khí viện trợ của Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc cho các bên tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, chỉ tính vũ khí và khí tài quân sự chính yếu (không bao gồm lương thực, nhiên liệu hay hạ tầng kinh tế).

1. Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)

Súng bộ binh

Hơn 2 triệu khẩu, gồm:

    • M1 Garand, M1 Carbine
    • M16A1 (khoảng 1 triệu khẩu)
    • Thompson, M3 Grease Gun
    • Súng ngắn M1911A1

Pháo binh:

  • Khoảng 12.000 khẩu pháo (gồm pháo 105mm, 155mm, 175mm, súng cối 60–120mm)

Xe tăng – thiết giáp:

  • ~2.000 xe, gồm:
    • Xe tăng M41 Walker Bulldog
    • Xe thiết giáp chở quân M113
    • Xe tăng hạng trung M48 Patton

Máy bay:

  • ~1.000–1.300 chiếc, bao gồm:
    • F-5 Freedom Fighter (~200 chiếc)
    • A-1 Skyraider, A-37 Dragonfly
    • Trực thăng UH-1 Huey (hơn 600 chiếc), CH-47 Chinook
    • C-47, C-130 vận tải

Hải quân:

  • Khoảng 1.500 tàu và xuồng chiến đấu, gồm:
    • Tuần dương hạm, tàu phóng lôi, tàu tuần tiễu
    • Tàu đổ bộ, tàu chỉ huy, tàu vận tải

2. Liên Xô viện trợ cho miền Bắc Việt Nam

Súng bộ binh:   Xã c

  • Khoảng ~500.000 khẩu, gồm:
    • AK-47 (Type 1–2–3)
    • SKS, Mosin-Nagant
    • Súng ngắn Tokarev TT-33

Pháo binh:

  • Hơn 6.000 khẩu, gồm:
    • Pháo D-30 122mm, M-30 122mm
    • Cối 82mm, 120mm
    • Pháo cao xạ 37mm, 57mm, 85mm

Tên lửa & phòng không:

  • ~7.000 quả tên lửa SA-2 Guideline
  • Tổ hợp radar điều khiển bắn P-12, P-18
  • Hàng trăm bệ phóng và thiết bị điều khiển

Máy bay chiến đấu:

  • ~200–250 chiếc, gồm:
    • MiG-17 (~100 chiếc)
    • MiG-21 (~80–100 chiếc)
    • Huấn luyện phản lực L-29

Xe tăng – thiết giáp:

  • ~ 600–700 chiếc, gồm:
    • T-34/85
    • T-54, T-55
    • BTR-40, BTR-60 (thiết giáp)

3. Trung Quốc viện trợ cho miền Bắc Việt Nam

Súng bộ binh:

  • Khoảng ~1 triệu khẩu, gồm:
    • Type 56 (bản sao AK-47)
    • SKS, súng ngắn Type 54

Pháo binh – súng cối:

  • ~5.000 khẩu, gồm:
    • Pháo 75mm, 85mm, 122mm
    • Cối 82mm, 120mm
    • Pháo cao xạ 37mm, 57mm

Xe tăng – thiết giáp:

  • Khoảng 300–400 xe, chủ yếu:
    • Type 59 (sao chép T-54)
    • Xe thiết giáp Type 64
Trợ giúp khác:

  • Gửi hơn 320.000 quân công binh, phòng không, hậu cần (không trực tiếp chiến đấu)
  • Hàng chục ngàn tấn đạn, phụ tùng, công cụ kỹ thuật

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử

Những con đường Trường Sơn đặc biệt


Đọc mấy bài viết của ông Mỹ, cựu phi công tham chiến tại Việt Nam, kể lại các điệp vụ, nhảy toán, thám thính của ông Nguyễn Văn Cư, thuộc lực lượng đặc biệt của Việt Nam Cộng Hoà. Kể về những vụ nhảy toán vào con đường Trường Sơn, để thâu thập tin tức để thả bom. Người Mỹ bỏ bom không biết bao nhiêu tấn, thậm chí còn rãi bột da cam mà ngày nay các cựu chiến binh Hoa Kỳ, vẫn còn bị ảnh hưởng. Theo dõi mấy nhóm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, có rất nhiều người than ngày nay vẫn còn bị đau do chất da cam khi xưa được rãi trên chiến trường Việt Nam.


Hình tìm thấy trên nhóm cựu quân nhân Mỹ. Trực thăng bốc toán llđb ra khỏi vùng địch. 


Nhưng tại sao không chận được đường tiếp tế của Hà Nội vào nam. Tò mò mình đọc được cuốn sách của ông Đặng Phong, giáo sư viện Kinh Tế Hà Nội. Nói ngoài con đường mòn chính từ Thanh Hóa qua Lào, Hà Nội còn gầy dựng những con đường Trường Sơn khác thì mới hiểu thêm chút gì về cuộc tiếp liệu của Việt Cộng trong chiến tranh Việt Nam. Nhìn lại thì phải nói là Viẹt Nam Cộng Hòa quá giỏi đã cầm cự được Việc Cộng suốt 20 năm sau hiệp định Geneva. Gần đây mình đọc đâu đó nói có trên 300,000 lính tàu bận đồ bộ đội tham gia chiến tranh Việt Nam. Để mình xem lại mấy tấm ảnh người tàu bận đồ bộ đội. Nếu đúng thì có lẻ vì vậy mà Hoa Kỳ không muốn đánh tới bến, sợ Trung Cộng chơi thêm cú Triều tiên năm 1953. Theo tài liệu mới tìm được thì họ cho biết có đến 300,000 chiến binh Hồng vệ quân đã sang Việt Nam giúp Hà Nội nhưng chỉ ở hậu cần, không trực tiếp đánh nhau với Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ.


 Chỉ tìm thấy bản đồ từ Hải cảng Cao Miên đến vùng Pleiku, chưa tìm ra bản đồ đến miền Tây nam bộ. Ai có cho em xin để bổ túc.


Con đường Trường Sơn qua hải cảng Cao Miên. Mình thấy quan trọng nhất, hiểu lý do ông Hoàng Thân Sihanouk cho phép Việt Cộng chuyển tiếp liệu qua Hải cảng của xứ Khờ Me đưa đến sự thất bại chống cộng sản của Việt Nam Cộng Hoà. Vì làm vậy ông ta mất đi sự trung lập mà tổng thống De Gaulle muốn biến Đông Dương trở thành trung lập. Đã cho Việt Cộng chuyển quan, tú náu tại quê hương của ông ta là mất đi tính trung lập.


Treen nguyên tắc, Lào và Cao Miên là trung lập nhưng trên thật tế thì các cuộc chiến trong bí mật đã xảy ra tại các xứ này nhất là tại Lào, quân đội Mỹ nhất là lực lượng đặc biệt đóng quân tại đây hay thám thính, bỏ bom khá nhiều tại xứ này.


Sau hiệp định Geneva, Việt Nam bị các nước lớn chia làm đôi như xứ Triều Tiên, Đức quốc. Cựu ngoại trưởng Trần Văn Đổ kể là hai phái đoàn người Việt đại diện tham dự hội nghị cho vui vì một hôm, ông Phạm Văn Đồng, gọi điện thoại ở khách sạn cho ông Đổ, cho biết phái đoàn Liên Sô đã nói họ đã thống nhất với Hoa Kỳ, Pháp và Trung Cộng, chia cắt Việt Nam ở vỹ tuyến 17. Thế là ngọng. Người Việt không có quyền nói gì cả về sinh mệnh của quốc gia họ. Sau đó, hai phe người Việt, đại diện cho hai khối đánh nhau chí choé cho ngoại bang từ 1954 đến 1975. Tương tự ngày nay, mấy nhóm như Hezbollah, Houthi, Hamas,.. đánh dùm cho Ba Tư này nọ.  Hay Ukraine đánh cho Âu Châu và Hoa Kỳ. Dân chết chớ chả ăn nhập gì đến tương lai của họ.


Như ông Lê Duẫn đã tuyên bố là Bắc việt đánh cho Nga và tàu. Như ông thần nào tuyên bố Cuba ngủ thì Việt Nam thức. Còn miền nam thì nghe Hoa Kỳ đến nói về chủ nghĩa tự do, nhân bản, phải bảo vệ tự do của miền nam thế là đánh đến khi Hoa Kỳ bắt tay bán CoCa cola cho người Tàu là phủi tay. Chết sống mặt bây. Họ đã tiếp tục với các nước ở Trung Đông.


Họ kêu 2 năm sau, tổng tuyển cử để thống nhất lại Việt Nam. Vấn đề là ngoại bang chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17, lại quên chú ý đến số người dân vì tính ra người dân ở Bắc Việt từ Cửa Tùng trở lên có 3 triệu người hơn miền Nam sau khi có 300,000 người miền Nam tập kết ra Bắc và 1 triệu người di cư vào nam. Thời đó Việt Nam có độ 18 triệu ngoài Bắc và 15 triệu trong Nam. Ngoài ra Đảng cộng sản còn cài đặt lại miền nam nhiều cán bộ, để tạo dựng cơ sở đánh phá miền nam. Cho thấy họ không chủ trương thống nhất đất nước bằng hoà bình mà bằng quân sự.


Ông Diệm về nước làm thủ tướng rồi truất phế ông Bảo Đại, đắc cử tổng thống của đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà. Có thi hành chương trình Ấp Chiến lược, bắt chước của người Anh quốc tại Mã Lai. Mình đọc đâu đó thì ông Phạm Ngọc Thảo được cử thực hiện vụ này. Ông này lại là tình báo của Việt Cộng nên huề cả làng. Sau đó người Mỹ phải bỏ vụ này. Nhìn lại thì ông Diệm, phải lo giặc trong thù ngoài. Bình định nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn, Ba Cụt,… một mặt phải truy lùng Việt Cộng nằm vùng. Một mặt có nhóm thành phần thứ 3, chống đối, giựt dây bởi Hà Nội. 


Trong cuốn sách, kể là những năm 1960, nhu cầu chi viện cho miền Nam gia tăng. Dạo ấy, sau khi Stalin bị KHruschov lên án Stalin khiến Mao Trạch Đông nổi điên nên hai nước có lộn xộn nên đường tiếp tế của Liên Xô qua ngõ Trung Cộng hơi gặp khó khăn. Do đó họ tìm đường khác, con đường Cao Miên. Tàu của liên Xô cứ vô tư cập bến hải cảng Sihanoukville. 


Hà Nội cử ông Ca Văn Thỉnh làm đại sứ tại Cao Miên. Ông này khi xưa có dạy học tại Sàigòn và hoàng thân Sihanouk là học trò nên giúp quan hệ hai nước hữu nghị, thắt chặt hơn và cho phép Hà Nội chuyển vũ khí của liên Xô đến Hải cảng Sihanoukville. Nghe nói khi xưa ông Sihanouk qua Sàigòn học ở trường Chasseloup-Laubat, họ không nói ông Thỉnh có làm giáo sư ở trường này. Nhiều khi Việt Cộng cứ nói đại cho vui. Mình có ghé lại Hải cảng này mấy năm trước. Toàn là tàu và người Tàu. Họ xây cất sòng bài khắp nơi, nghe nói nay te tua vì người Tàu hết tiền đi chơi. Xây cất bú xua la mua. Từ Hải cảng này họ chuyên chở đến các mật khu Việt Cộng gần biên giới Việt Nam Cộng Hoà.


Dạo này Cao Miên và Thái Lan muốn đánh nhau. Điểm đặc biệt là ông Hun Sen là gốc tàu, mà bà thủ tướng thái lan cũng gốc tàu. Không biết khi điện đàm, họ nói tiếng gì, tàu hay anh ngữ.


Họ thành lập Đoàn Hậu Cần 17, chuyên tổ chức tiếp nhận từ miền Bắc qua cảng Sihanoukville , rồi từ đó chuyển vận đến B2, Nam Bộ, vùng tạm chiếm.


Người phụ trách là ông Nguyễn Gia Đằng, tự Tư Cam, lót đường hối lộ mấy tướng tá Cao Miên hay giao 1/3 khí tài cho quân đội Cao Miên. Từ năm 1966 đến 1975, họ đã tiếp nhận 20,478 tấn vũ khí, 1,284 tấn quân trang, 731 tấn quân y, 65,810 tấn gạo, 5,000 tấn muối.


Họ thành lập công ty thương mại Hắc Lỷ, có giấy phép kinh doanh khắp Cao Miên, mua hàng hoá của người cao miên và tiếp nhận hàng hoá từ Hải cảng rồi chuyển vận đến bưng, chiến trường. Công ty khá lớn vì có đến 564 nhân viên, đa số là Việt kiều và người cao miên làm việc cho công ty. Họ chuyển vận với 150 xe vận tải, có thuê thêm của người cao miên, và ca-nô để vận chuyển hàng hoá đến các chiến trường tại Việt Nam.


Họ kể đưa ông Đức Phương làm chủ hãng. Hà Nội chuyển tiền và vàng cho ông này hoạt động. Ông ta kết thân với tư lệnh an ninh Nam Vang, Unxiut nên có thể thuê xe vận tải của quân đội Cao Miên để chuyển vận khí tài. Ông ta tặng bộ trưởng an ninh cao miên một chiếc xe Merểcdes mới và ông thần này tặng lại ông chiếc xe cũ của ông ta. Thế là cứ chạy xe này phong phong khắp cao miên, không ai chận hỏi.


Từ biên giới họ chuyển vận về Tây Ninh, Long An, đồng Tháp, miền Tây,… họ thành lập đoàn thanh niên xung phong để lo công việc tải đạn được này. Nói là xung phong nhưng trên thực tế họ bắt xung phong như sau 75, họ đem thanh niên miền nam xung phong nghĩa vụ quốc tế qua Cam bu chia. Nói là xung phong chớ bị bắt làm tù không lương. Họ dùng thuyền để chuyển vận quân trang qua kinh Vĩnh Tế, sau này Việt Nam Cộng Hoà khám phá nên chận đánh khá nhiều. Máy bay bỏ bom cũng nhiều và năm 1969, gần như không còn vận tải qua đường ngày nữa vì Việt Nam Cộng Hoà càn quét nhiều.



người Tàu bận đồ bộ đội tại chiến trường Việt Nam 

Tổng kết từ năm 1967 đến 1974, họ đã vận chuyển cho miền Tây 13,650 tấn vũ khí, đưa người về miền Tây hơn 30,000 gồm bộ đội và cán bộ. Sau Hoa Kỳ kêu tướng Lonnol lật đổ ông Sihanouk thì con đường này bị chặn. Việt Nam Cộng Hoà đánh qua Cao miên khiến bọ đội bỏ chạy rút lui  về hứng Hạ Lào, ông tướng Đổ Cao trí muốn truy sát nhưng Hoa Kỳ không cho, buồn đời trực thăng ông ta nổ trên trời. Sau đó Việt Cộng sử dụng đường khác. Nếu người Mỹ cho phép thì có lẽ đã truy kích đến Hạ Lào thì có lẽ mấy năm sau không có sự thất bại của Lam Sơn 719. Khi Việt Cộng đã cũng cố lực lượng và chờ đợi phe ta. (còn tiếp)


kỳ sau rảnh mình kể vụ kinh tài, rất quan trọng cho sự nghiệp đánh chiếm miền nam.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử