Showing posts with label Chốn cũ người xưa. Show all posts
Showing posts with label Chốn cũ người xưa. Show all posts

Xung quanh chợ Đà Lạt trước 1963

 Hôm nay, ngồi lọc một ít hình ảnh cũ Đà Lạt, thấy có mấy tấm ảnh xung quanh Chợ Mới Đà Lạt, trước khi ông Diệm bị lật đổ thấy tiếc vì sau đó, ông Trần Văn Phước, thị trưởng Đà Lạt bị Hội Đồng Cách Mạng cách chức, lấy cung, xem có ăn gian khi xây chợ và không tìm chứng cứ nào cả. Lấy bụng ta suy bụng người.

Giới theo nịnh chế độ mới, tố cáo ông Phước là ăn gian, ăn hối lộ những khi đưa sổ sách ra thì thấy ông ta không ăn một đồng của dân thị xã Đà Lạt. Nên nhắc lại công ơn của thị trưởng Trần Văn Phước, ông ta mượn tiền ngân hàng để xây và sau đó bán các gian hàng cho những người như mẹ mình, đã thu vốn lại và trả hết cả vốn lẫn lời. Mình có kể vụ này rồi.

Theo mình hiểu, ông Trần Văn Phước là thị trưởng người Việt tại chức lâu nhất. Sau ông ta có vài người chỉ được bổ nhiệm vài năm hay vài tháng, đặc biệt có một nữ thị trưởng đầu tiên, tên Nguyễn Thị Hậu, mình có người dì bà con, làm thư ký cho bà, khen bà này giỏi lắm. Nghe nói bà ta đã từng làm người mẫu cho Cát Tường Le Mur ngoài Hà Nội. Người cuối cùng trước khi Đà Lạt di tản là ông Nguyễn Hợp Đoàn. Ông này sang Hoa Kỳ, mở tiệm bán đồ trang trí nội thất rất thành công. Ở Cali, cũng có một ông tướng mở tiệm loại này khá thành công, nay qua đời, cái tiệm chắc con cháu bán nên đã được phá huỷ để xây trung tâm văn hoá, thương mại.

Sau 1963, Đà Lạt bắt đầu xây lộn xộn. Các cuộc chỉnh lý liên tục, thay thị trưởng như chong chóng nên không có ai làm gì cho sự phát triển Đà Lạt, để lại dấu ấn thêm các ông tá được chỉ định làm thị trưởng Đà Lạt kiêm tỉnh trưởng Tuyên Đức, để lo về an ninh, vì Việt Cộng đánh phá. Mình chỉ biết ông Nguyễn Hợp Đoàn có chương trình dời 2 bến xe đò ở trong thị xã ra ngoại ô, ở đường Nguyễn Tri Phương mà ngày nay mình thấy họ làm ở địa điểm đã dự tính trước 1975. Ông cụ mình làm ở Ty Công CHánh và Công Quản Nước Đà Lạt nên hay kể cho bạn nghe còn mình thì hóng chuyện người lớn. Chán Mớ Đời 

Mình thấy bản vẽ thiết kế chợ Đà Lạt và xung quanh của kiến trúc sư Nguyễn Duy Thức thì không thấy khách sạn Mộng Đẹp và nhà hàng La Tulipe Rouge. Những địa điểm này được thiết kế xây vườn Bách Thảo, hoa để du khách và thị dân du ngoạn, ngày nay người ta gọi là vùng xanh. Sau này, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ được chỉ định, thiết kế đô thị khu Hoà Bình và Chợ Mới Đà Lạt nên mới thấy các khu phố hai bên chợ và nhà hàng La Tulipe Rouge và khách sạn Mộng Đẹp. 

Mình thấy cái cầu nổi đi vào chợ là điểm hay nhất của thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, chỉ tiếc là cầu thang lớn đi xuống chợ, không được liên kết với nhà hàng La Tulipe Rouge và khách sạn Mộng Đẹp. Dượng Thụ đã từng ở La MÃ 3 năm, có thể dùng cầu thang chỗ công trường Tây Ban Nha làm mẫu.

Xem hình trên, mình đoán được chụp trên mái nhà của Khu Hoà Bình. Cận cảnh là khu thương mại, có “arcade “ không biết tiếng Việt gọi là gì, sau này kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thiết kế phá bỏ, bù lại thì thêm khách sạn Mộng Đẹp và nhà hàng La Tulipe Rouge hai bên cầu thang đi xuống chợ. Mình có kể trong bài sự thành lập Khu Hoà Bình.

Ngoài ra thay vì làm vườn hoa như dự định, họ xây thêm mấy căn phố bên phải của đại lộ đi vào từ bùng binh, căn đầu tiên là cà phê Hạnh Tâm, có một ngân hàng tên Nam Đô và tiệm chụp hình gì quên tên, chắc phải lục lại mấy bài viết của mình trước đây. Già rồi nên bắt đầu quên. Chỉ nhớ là ở đường Duy Tân có một tiệm, con trai ông này, tên gì có chữ Khánh, ra đó mở để chụp hình lưu niệm cho du khách đến xứ hoa Anh Đào.

Ta thấy từ bùng binh cầu Ông Đạo chạy vào chợ có một đại lộ rộng thênh thang, hai bên đại lộ là bãi cỏ và vườn hoa. Hai bên hông vườn hoa , có hai con đường nhỏ để xe hơi có thể chạy ra, hay để đậu xe, ngoại quốc gọi là lộ chửa cháy. 

Trong trường hợp có sự cố ở trong chợ, xe không vào được vì kẹt xe,…thì xe cứu hoả có thể chạy theo hai đường nhỏ này vào. Mình về Đà Lạt thì thấy đông nghẹt, xe và người chen chút, chỉ cầu mong là đừng cháy chợ vì sẽ có người chết rất nhiều, không thoát được và xe vòi rồng cũng không chạy vào được. Mình có đi vòng vòng để xem có những vòi nước lớn để khi khi có cháy thì nhân viên cứu hỏa có thể sử dụng để chửa cháy thì tuyệt nhiên không thấy. Bệnh nghề nghiệp. Khi vào rạp xi nê hay đi xem hát, khách sạn,…mình luôn luôn xem lối thoát chửa cháy. Chán Mớ Đời 

Khi xưa, ở hai đầu chợ, đều có bể nước nên khi có hoả hoạn, người ta có thể lấy nước dội để dập tắt lửa nhỏ. Nay thì tuyệt nhiên không thấy. Có lẻ họ dấu chỗ nào mình không thấy.

 Mình nhớ sau này, khi có chợ Tết thì hai bên đại lộ từ Cầu Ông Đạo chạy vào, xe đậu nghẹt nhưng không thấy ai đậu xe ở hai đường nhỏ cả.

Dọc con đường Lê Đại Hành đã thấy trồng mấy cây mai, nở vào mùa xuân, đẹp lạ lùng. Mấy kiosque ở đường Thành Thái, nằm thấp dưới, không choáng tầm nhìn của dãy nhà, đúng hơn là cư xá công chức bên tay phải. Tiệm kem Việt Hưng là căn đầu, của một ông người bắc, nhà đâu trong đường Trần BÌnh Trọng, mình có học ở vườn trẻ Thanh Ngọc với hai cô cháu của ông ta.

Thị trưởng Trần Văn Phước (ngồi giữa), người có công xây dựng Đà Lạt sau khi người Pháp về nước. Ông này sinh trưởng tại Nam Vang, được ông Ngô Đình Diệm bổ nhiệm lên Đà Lạt. Ông ta mượn tiền để xây chợ Đà Lạt, được xem là ngôi chợ đẹp nhất Đông Nam Á dạo đó.

Mình kể cho những người cùng thế hệ của mình hay lớn tuổi chớ thế hệ của em mình thì chắc như bò đội nón, chả hiểu mô tê chi. Cuối đường Thành Thái là rạp xi-nê Eden, sau này bán lại người Việt, đổi tên lại Ngọc Lan và Ngọc Hiệp.

Phía bên kia hồ Xuân Hương thấy con đường Trần Quốc Toản, nối liền với Phạm Ngũ Lão ngay ngã ba đường lên dốc nhà thờ Con Gà. Không nhớ đường này gọi là gì. Hình như Lê Đại Hành, kéo dài từ đây qua cầu Ông Đạo rồi lên đến khu Hoà Bình. Bên tay trái, thấy biệt thự của bà dược sĩ Nguyễn Thị Hai mà nay họ mới đập bỏ, để nới rộng con đường Trần Quốc Toản. Phía sau hơi mờ là khách sạn Palace.

Hình này, cho thấy họ đang làm đường, tráng nhựa, thấy chiếc xe hủ lô của ty công chánh khiến mình nhớ vài kỷ niệm về làm đường ở Đà Lạt khi xưa. Hình này cho thấy họ mới trồng mấy cây tùng nhỏ ở ngay bùng binh, sau này to lớn hơn, không biết bây giờ còn hay không.

Bên phải là một phần của chợ mới Đà Lạt vừa mới xây xong, cầu thang to lớn để nối với khu Hoà Bình. Chúng ta thấy dãy phố do ông Võ Đình Dung xây cất cho thuê, sau này thì bán lại, khá nhiều mấy người gốc Hoa mua như Chic Shanghai, Vĩnh Chấn. Mình chỉ nhớ căn đầu bên trái, chỗ cầu thang đi băng đến đường Trương Vĩnh Ký, là nhà ông trồng răng của ông Trình, mình có học chung con ông ta tên Huy. Tên này đánh vũ cầu rất hay.

Điều phản cảm nhất trong tấm ảnh này là khách sạn Thuỷ Tiên 4 tầng, được xem là cao nhất Đà Lạt thời đó, nằm chình ình sau dãy phố của ông bà Võ ĐÌnh Dung. Bên phải chỗ cái talus là dãy phố rất tây, có arcades để tránh nắng vào buổi chiều. Nếu đi phố thì ai cũng thấy phía dẫy phố đồng hồ Tiến Đạt và tiệm thuốc Anh Lân, đều có máy tấm vãi che nắng vào buổi chiều để tránh nắng lọt vào. Có dịp mình sẽ kể rõ hơn. Sắp đi chơi cả tháng nên không biết có nhớ khi về. Ai thích thì nhắn mình.

Tấm này chắc được chụp cùng lúc với tấm trên cho thấy bên tay trái, đã bắt đầu thực hiện vườn hoa ngay cầu thang, còn phía bên phải thì bến xe đò Chi Lăng đã hoạt động, không thấy La Tulipe rouge hay khách sạn Mộng Đẹp. Tấm ảnh này chỉ rõ cầu thang chợ đi lên rồi nói tiếp với cầu thang chỗ phòng trồng trăng nha sĩ Trình, và đường Trương Vĩnh Ký. Mấy cái bàn với dù được dựng lên để bán đồ kỷ niệm cho du khách nhưng không có ai mua cả, cuối cùng quăng. Lý do không ai muốn mỗi ngày phải đem đồ đến bán rồi tối đem về. Đà Lạt mùa mưa gió là chết, không có chỗ núp.

Ông này xin phép xây 3 tầng nhưng chơi cha thiên hạ, xây thêm 1 tầng và đóng phạt nhè nhẹ, thị dân Đà Lạt mất một công viên để ra đây chơi. Phải bò đến vườn Bích câu mới có chỗ để tâm sự buồn vui đời anh em.

Hình này sau 1963, ông thầu khoán xây chợ mới Đà Lạt, tên Nguyễn Linh Chiểu, chạy chọt làm sao mua miếng đất chỗ cái vườn hoa bên cạnh cầu thang lớn, xây cái khách sạn to đùng. Cái mất dậy là ông ta xây lậu thêm 2 tầng, khiến che mất quang cảnh của thị dân từ khu Hoà Bình xuống hồ Xuân Hương. Nghe nói ông ta có bị phạt nhưng nhẹ, đút lót một tí là xong với quan chức đệ nhị cộng hoà.

Nếu mình không lầm cửa chính đi vào nhà hàng từ cầu thang. Khi có tiền mình hay đến đây mua bánh mì thịt có pâte gan, ăn ngon kể gì. Chỗ này có nhảy đầm, ăn uống dành cho giới thượng lưu Đà Lạt khi xưa. Ca sĩ Khánh Ly khởi nghiệp tại vũ trường này. Mình không biết Xí Rổ chém Đại Ca Thay ở đây hay phía dưới bên sẽ đò. Nghe kể khi xưa, Xí Rổ giỏi võ.
Nhà hàng La Tulipe Rouge, được xây cất 2 tầng, để không che quang cảnh từ khu Hoà Bình. Trong khi khách sạn Mộng Đẹp chơi cha, xây thành 4 tầng, che lấp hết. Hình này cho thấy cái tháp chuông, điểm nhấn của Đà Lạt tương tự khi người ta trông về phía nam thì sẽ thấy tháp chuông nhà thờ Con Gà.
Tấm ảnh này chụp ngày trên đường Lê Đại Hành, cho thấy khách sạn Mộng Đẹp của ông Nguyễn Linh Chiểu, xây lậu thêm 2 tầng nên che lấp quang cảnh của Đà Lạt nhìn từ khu Hoà Bình, nhất là từ xa người ta thấy khách sạn này che mất cái tháp chuông của khu Hoà Bình. Mình thích tấm ảnh này vì có chiếc xe Jeep của ông cụ. Đà Lạt khi xưa chỉ có một chiếc xe Jeep tư nhân, sơn màu xanh da trời, thêm bảng số nữa.
Họa đồ thiết kế đầu tiên của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, rể Đà Lạt cho thấy chiếc cầu nổi, nối khu Hoà Bình vào lầu 2 Chợ Mới. Thấy cầu thang cắt ngang dãy phố nhà hàng La Tulipe Rouge và khách sạn Mộng Đẹp. Đặc biệt là các kiosque dọc bên đại lộ từ cầu Ông Đạo chạy vào, khác với hoạ đồ cuối cùng. Bãi đậu pedalo nhà hàng Thanh Thuỷ sau này.

Mấy căn phố trên đại lộ vào chợ mới Đà Lạt. Căn đầu tiên bên phải là tiệm cà phê Hạnh Tâm
3 căn phố gần chợ. Dạo ấy thị dân Đà Lạt ít ai có xe nên đi bộ mệ thở
3 căn phố như hình trên nhưng hình màu, chắc người Mỹ chụp vì dạo ấy ít người Việt chơi hình màu lắm. Có tiệm hớt tóc, còn 2 căn phố kia chưa có người mua hay mướn, một sau này là tiệm chụp hình còn Nam Đô Ngân Hàng là căn thứ 4.
Hình này chắc chụp từ trực thăng, thấy mấy căn phố cách nhau, đại lộ vào chợ, hai bên có con đường nhỏ để vòng ra. Khách sạn Mộng Đẹp (Modern) nằm sát dốc Lê Đại Hành. Mình thấy đường Thành Thái có tiệm gà Gala với cái nóc nhà khác với tiệm kia. Bên trái là rạp xi nê Ngọc Lan.
Hình chụp từ đầu đại lộ đi vào, bên phải các căn phố đang được xây cất. Khi xưa đi bộ chỗ này mệt thở vì to rộng. Vào dịp Tết thì họ cấm xe đi vào phía sau chợ nên xe đậu suốt hai bên đường đầy. Lý do là họ dùng đường để làm chợ cho những ai muốn kiếm thêm tiền đẻ ăn Tết. Đông lắm. Bên trái chợ, có căn 3 tầng, đối diện photo Hồng Châu, sau này bị phá bỏ.

Bên tay phải cầu thang cũng khệnh nhà hàng La Tulipe rouge, trông rất phản cảm, làm mất vẻ oai vệ của cầu thang. (Còn tiếp)

Nguyễn Hoàng Sơn 

Tấm ảnh Đà Lạt sau 75

 Hôm qua, ai đó tải một tấm ảnh phố xưa Đà Lạt, trông rất quen thuộc nhưng chỉ khác về ánh sáng và các bảng hiệu so với thời mình còn sinh sống tại Đà Lạt. 30 giây sau thì mình mới nhận ra đâu là đâu. Hoá ra chỗ này là góc đường Minh Mạng và Nguyễn Biểu.

Tiệm ngay góc đường Minh Mạng và Nguyễn Biểu, hình như là nhà sách Thiên Nhiên xưa, số 30 Minh Mạng cũng có thời là một tiệm cắt kiếng. Lâu lâu cửa kính nhà mình bị vỡ. Con nít hàng xóm căm thù mình nên lấy đá chọi hay đá banh trúng vào, mình đo kích thước, chạy ra đây để mua kính. Họ lấy kích thước của mình xong lấy cái thước, đúng hơn là thước 2 cạnh 90 độ, bằng sắt, rồi lấy cái bút có cái đầu tròn tròn hay chi đó, nghe nói làm bằng kim cương để cắt kính. Họ để cái thước sắt rồi lấy con dao kim cương, kéo cái rẹt rồi đưa tay bẽ cái tạch làm đôi. Mình đem về ráp vào, lấy mấy cái đinh nhỏ, đóng khe khẽ để kính không di chuyển rồi lấy cao trét lên phía ngoài theo hình tam giác, phủ luôn mấy cái đinh nhỏ để không khí không lọt vào nhà.

Ảnh chụp góc Nguyễn Biểu và đường Minh Mạng, do ông Kuro, một người Nhật Bản. Không biết ông này sang Việt Nam làm gì mà chụp hình ở Đà Lạt thời sau 75 rất nhiều.

Tấm ảnh chụp sau 75 nên quang cảnh khá te tua, đường xá được đào bới nhưng không sửa chửa. Mình về Đà Lạt lần đầu tiên năm 1992, thì thấy Đà Lạt xuống cấp trầm trọng so với thời mình còn ở Đà Lạt. Thấy hiệu nhà may Anh Tú mà khi xưa là tiệm sách Thiên Nhiên và cái tiệm cắt kính mà mình hay bò ra đây mua kính cửa sổ.

Bên tay phải là đường Nguyễn Biểu, chạy cuối đường là gặp đường Tăng Bạt Hổ, thấy nhà bác Tám, tiệm chè Mây Hồng. Bác có hai người con trai tên Hải và Phước, hay chơi với mình khi xưa. Cứ gần Tết là bà cụ sai mình đem nếp, thịt heo, đậu xanh vào cho bác trai nấu bánh tét. Được dịp mình hay ra xem bác ấy cuốn bánh tét, nấu trong cái nồi to đùng. Nghe nói hai anh này chết sau 75. Nhà này có con gái đông lắm, có một chị tên Nga, học Văn Học, Dương Quang Trí hay đi chơi với chị.

Ngay góc Tăng Bạt Hổ và Nguyễn Biểu, bên tay trái có tiệm Hiệp Tam Kỳ, bán đồ phụ tùng xe hơi thì phải, có 2 anh em học chung với mình khi xưa ở Yersin, người anh học đánh đàn với ông thầy Hà, nằm vùng ở đường Tăng Bạt Hổ, sau này đánh đàn cho đài phát thanh Đà Lạt. Đối diện dãy phố Hiệp Tam Kỳ là bãi đậu xe hàng. Nhìn xéo qua là tiệm vàng Lung, sau này làm sui gia với bố mẹ mình.

Đối diện tiệm Thiên Nhiên, góc Nguyễn Biểu, nói chung là phía này toàn là talus, chấn đất trùi vì dốc, không có tiệm nào cả, ngay góc Tăng Bạt hổ có một bãi đất, đậu xe hàng, thấy mấy ông vá bánh xe,.. Nhớ có một xe bán phở ở đây, mình có ăn một hai lần nên nhớ. Mình không nhớ con đường song song với đường Nguyễn Biểu, chỗ tiệm vàng Bùi Duy Chước là đường gì, chỉ nhớ ngay góc đó có quán sữa đậu nành của bà Bảy Quốc khi xưa. Có người nói cũng tên đường Nguyễn Biểu.

Bên tay phải có tiệm vàng Bùi Duy Chước, bố của bà Bùi Thị Hiếu. Bà này quen bà cụ mình, có dặn cô em mình ở Pháp khi nào mẹ sang thì cho cô gặp. Hình như sau này, bà ta về sống và chết tại Đà Lạt. Bên trái là tiệm vàng Kim Thịnh, của gia đình Nguyễn Biểu, học chung với mình khi xưa ở Yersin, có liên lạc được với anh chàng qua cô em. Khi xưa đi học, mình thắc mắc hắn tên Nguyễn Biểu, lại ở gần đường Nguyễn Biểu. Thế lầy nà thế Lào. Tên này thì ai học chung với hắn đều nhớ tên cúng cơm của hắn vì hắn có tài chửi bằng tiếng Huế cực đỉnh. Chán Mớ Đời 
Tiệm vàng Hùng Thanh của ông Bùi Duy Chước, nơi ban đêm thì bà Bảy Quốc bán sữa đậu nành. Bố Huỳnh Ngọc Ánh, học nghề kim hoàn với ông ta, sau mở tiệm vàng ở Đà Lạt. Nói chung thì đa số dân mở tiệm vàng, làm nghề thợ bạc, đều xuất xứ từ làng Kế Môn ở Huế, đa số sống tại Ấp Ánh Sáng nên họ hay nói người làng Kế Môn sáng lập gia Ấp Ánh Sáng. Mình có kể vụ này rồi, ai tò mò đọc bài Ấp Ánh Sáng.

Trở lại tấm ảnh đầu tiên, phía trái là đường Minh Mạng. Mình không nhớ rõ mấy tiệm kia, chỉ nhớ cái tiệm nơi có mấy người ngồi, trước 75 là tiệm bán sĩ cà phê. Lý do nhớ là vì mấy thang cấp, chỗ này có một thang cấp rất cao, nhảy xuống là đau chân, mình bị một lần. Mỗi lần đi ngang đây, ngửi mùi họ rang cà phê thấy phê cà luôn. Nhà này có một cô con gái, cùng tuổi với mình, học Bùi Thị Xuân, học chung lớp Hội Việt mỸ với mình, không nhớ tên. Lớp năm đó có ông thầy Cường, chạy xe Vespa, đẹp trai khiến học trò mê mẩn. Chỉ nhớ cô nầy khá xinh, má đỏ môi hồng của gái Đà Lạt, tóc ngắn. Thấy thằng Hùng còn ông Nguyễn Hợp Đoàn, thích cô này vì học chung lớp. Khoá đó mình rớt ở lại nên không học chung nữa. Chán Mớ Đời 

Bên cạnh tiệm này là tiệm giày Mỹ Hưng, thuê nhà của ông Tư, anh mệ ngoại mình ở Sàigòn. Trước khi đi Tây, ông cụ dẫn mình ra đây, đặt một đôi giày thời đó có cái mũi tròn như đầu vịt. Tưởng qua tây, sẽ đúng Mode của Paris, ai ngờ tây nhìn đôi giày cười nức nở nên mình hết dám mang, tốn tiền bà cụ. Chán Mớ Đời 

Gia đình dì Bơn, bán trái cây ngoài chợ, mướn tầng trên ở. Sau này, mua nhà ở trong Dốc Nhà Làng, đối diện nhà của mẹ ông Lê Xuân Ái, đi tập kết. Hình như ông này dính dáng gì đến vụ ám sát tên mật thám Tây Lai, ngay trước tiệm Đức Xương Long, khiến tây đem 20 tù nhân ra Cam Ly bắn, chỉ có một bà tên Lan là sống sót, ỏ trên Số 4.

Ai đó bỏ lên mạng cái bằng tiểu học người bản xứ của ông Lê Xuân Ái, hình như là bác của Lê Xuân Thảo đánh bóng bàn cho Adran ngày xưa, con ông Lê Xuân Lợi. Ông Ái theo việt minh rồi tập kết ra Bắc, sau 75, nghe nói có trở về Đà Lạt. Khi xưa mình đi học chương trình pháp, nghe nói đi thi trung học, tú tài đều có hai đề thi: 1 cho mẫu quốc và 1 cho các thuộc địa được gọi là indigène. Trong tấm ảnh thấy đề Franco-indigene. Thấy ký  ngày 10 tháng 12 năm 1937 mà đến 4 tháng sau mới được giám học của trường Khải Định ký duyệt.

Mình nhớ lâu lâu ra nhà Dì Bơn chơi, hay lấy nước đứng trên lang cang, đỗ xuống đầu thiên hạ đi ngang. Có lần trúng áo một cô nào đang đi bát phố với ông bồ hay chồng gì đó khiến tên này tức chạy lên nhà nhưng mình đóng cửa lại. Họ đi ngang tiệm giày Mỹ Hưng, đứng lại xem cái tủ kính trưng bày giày dép, mình đứng trên balcon, đỗ nước xuống rồi thụt người xuống cười khoái chí. Những ai bị mình đỗ nước xuống người, có đọc được bài này thì xin nhận nơi đây lời xin lỗi chân thành nhất của ông đạo Bơ. Nay mình ăn bơ hàng ngày, mới giác ngộ cách mạng là làm điều sai khi xưa. Xong om

Sau này, ông Tư kêu mẹ mình mua căn nhà này nhưng bà cụ kêu đắt hay sao đó. Ông đòi 1.4 triệu trong khi căn phố ở 13 đường Duy Tân, chỉ kêu bán có 1 triệu. Hình như chị vợ của ông Tư theo Việt Cộng nên sau 72, hiệp định Paris được ký kết thì họ bán nhà cửa hết nên 75 vào không bị đánh tư sản. Chuyện người lớn nên mình không rành lắm. Để có dịp mình trở lại thăm dì bà con ở Montreal, sui gia của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, để hỏi thêm. Xong om

Cuối dãy phố này là tiệm giặt ủi của cậu Châu, con Mệ Cai Thỏ, ở ngoài ấp Hà Đông, đường Nguyễn Công Trứ, nơi ông Phúng bán vía mình cho Cậu Tám. Hồi nhỏ thấy cậu Châu, hay đánh quần vợt và làm trọng tài đá banh ngoài sân vận động.

Góc Mình Mạng và Tăng Bạt Hổ. Thấy tiệm chè Vọng Nguyệt Lầu ở tầng trên, lối lên là cái cửa nhỏ ở đường Tăng Bạt Hổ, phía dưới là tiệm Hủ Tiếu Nam Vang, lối vào đường Mình Mạng. Nói cho ngay, 17 năm sinh sống tại Đà Lạt, mình chưa bao giờ ăn hủ tiếu Nam vang cả. Chỉ có ăn chè trên lầu.

Cuối tấm ảnh, thấy có tiệm chè Vọng Nguyệt lầu (ở trên lầu, đi lên ngõ đường Tăng Bạt Hổ, có mấy cầu thang nhỏ), ở tầng dưới thì bán hủ tiếu Nam Vang. Nhìn tấm ảnh này, khiến mình nhớ đến anh bạn thân học chung khi xưa, tên Đào Văn Quý vì nhà anh ta nằm bên cạnh tiệm chè này. Nhà một tầng, được quét vôi màu xanh tím. Ông bố chạy xe đò Đà Lạt Di Linh, có ông anh tên Sơn, đai đen nhu đạo, có tập võ với mình ở võ đường Ngã Ba Chùa trong chỗ hãng cưa của gia đình Xu Tiếng. Bên cạnh nhà Quý là nhà của ông Xí Rổ, một tay anh chị Đà Lạt khi xưa, bảo kê các cô gái vũ trường La Tulipe, nổi tiếng đã chém Đại Ca Thay trước cửa vũ trường này. Chắc anh ta bảo kê mấy chị em ta ở dưới Vọng Nguyệt Basement.

Cứ tết đến là Xí Rổ mở sòng tài xỉu trước nhà. Quý giải thích cho mình là anh chàng này dán miếng mousse dưới đáy cái chén để chận mấy hột xí ngầu nhảy khi lắc để ăn gian.

Đặc biệt chỗ này có một địa điểm lạ của dân chơi Đà Lạt. Giữa tiệm Vọng Nguyệt Lầu và nhà Quý có một cầu thang đi xuống động mấy chị em ta, một xóm Bà Thái kiểu mẫu. Cuối tuần các sinh viên Võ Bị ra đây thăm viếng động này, sau đó ăn hủ tiếu Nam Vang để lấy lại sức vì nắng mưa quân trường, anh không sợ chỉ sợ lên giường đá gà với em. Quý kể mình mấy tên học chung trường, tên nào bò xuống đây. Vui là khi ra chơi, chỉ mặt mấy tên này.

Con gái của tiệm hủ tiếu Nam Vang kể là sau 75, có ông nằm vùng nào kể cho mẹ cô ta nghe. Ông ta được lệnh đặt chất nổ vào cuối tuần vì sinh viên Võ Bị ăn đông lắm. Hôm ấy, ông ta đặt mìn trong gà mên, ra đây nói để mua rồi bỏ quên gà mên có mìn lại. Khi thấy mấy đứa con nít đang chơi trước cửa tiệm nên ông ta không để chất nổ lại. Chủ nhân của Lữ Quán Sàigòn đối diện cũng là chủ tiệm hủ tiếu Nam Vang.

Nghe kể thì mình không tin lắm vì chính sách của Việt Cộng là khủng bố, họ đặt chất nổ chết trẻ em vô số. Mình đọc đâu đó tài liệu của Việt Cộng, cho nằm vùng làm hộ lý để lấy tin tức, có tiền để giúp cách mạng. Mình nghe nói có vài chị em ta nằm vùng ở trong xóm BÀ Thái khi xưa. Biết đâu, ông ta sợ làm chết vài em hộ lý nằm vùng ở bên cạnh.

Trở lại tấm ảnh đầu, đối diện bên kia đường Mình Mạng là đầu dốc Nguyễn Biểu, đi xuống Dốc Nhà Làng. Chỗ này chiều là thấy thiên hạ bán bắp nướng, đồ ăn. Đặc biệt buổi sáng có bà bán bánh căn. Trước đây, bà ta bán ở dưới chợ, chỗ mấy quầy thịt mà mình thường ra ăn. Sau bà ta dọn lên chỗ này để bán khá hơn.

Tấm ảnh này do ông Kuro chụp sau 75, phản ánh khá đúng với những gì mình thấy năm 1992, khi về Đà Lạt lần đầu. Hôm nào, đồng chí gái chửi mình, buồn đời, sẽ tải mấy tấm ảnh của ông Kuro lên cho mấy bác xem. Tấm này chụp ở đường Phan đình Phùng, thấy trạm biến điện ở cạnh cầu thang từ Minh Mạng đi xuống trước rạp Ngọc Hiệp. Hồi bé mình có thấy xe thổ mộ ở Đà Lạt, sau này thì không thấy nữa vì xe Lam đầy, đến khi về lại Đà Lạt thì thấy xe ngựa. Nhà cửa không được Quét vôi lại. Khi xưa, cứ đến Tết là cả Đà Lạt cho người quét vôi để ăn Tết. Đi thụt lùi với lịch sử. Chán Mớ Đời 

Chỗ này là nơi mình hay đi qua mỗi lần ra chợ Đà Lạt. Nay về Đà Lạt thì cứ như Từ Thức về quê, không nhận đâu ra đâu, đâu là bến bờ. Chán Mớ Đời 

Có chị bạn ở Đà Lạt gửi cho tấm ảnh này , ngay góc tiệm sách Thiên Nhiên ngày xưa

Nói cho ngay, Đà Lạt nay còn chút không gian ở đường này, chưa được bê tông hoá nên còn chút gì của Đà Lạt xưa. Đi xuống chút xíu, cạnh nhà sách Khái Trí khi xưa, có em trai mình bán bánh căn ở đây.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Phá ngục Bastille 1789


Hôm trước, có người imeo nói là đọc bài 14 Juillet của mình, giúp nhớ lại những gì ông thầy tây dạy về cuộc cách mạng Pháp và hỏi ngày 13/7/1789 là ngày họ phá ngục Versailles phải không. Mình nói ngục Bastille chớ còn bỏ tù ở lâu đài Versailles thì mình xin đi tiên phong vào tù. Nhân dân thành Paris vào nhà tù Bastille, giải cứu tù nhân ngày 14/7 nhưng chỉ có 7 tù phạm ở trong. Lý do dân nổi loạn vào ngục Bastille, không phải để giải thoát tù phạm mà để lấy súng ống và thuốc súng hầu chống trả lại lính của triều đình đang bao vây thủ đô. Ngày 14/7 được xem là ngày đầu tiên cho cuộc đời mới, một kỹ nguyên mới.

Một trong những nguyên do chính của cuộc cách mạng ở Pháp là khủng hoảng tài chánh khởi đầu bằng cuộc chiến dành độc lập của 13 tiểu bang thuộc địa Anh quốc ở Châu Mỹ, khiến trên 50,000 loyalist, người gốc Pháp bị trục xuất khỏi vùng Quebec tại Gia-nã-đại, trong số 90,000 dân cư nói tiếng Pháp, buộc lòng nước Pháp phải tham chiến, giúp đỡ 13 thuộc địa của Anh Quốc. Có lẻ vì vậy mà ngày nay dân francophone ở Gia Nã Đại ít hơn dân nói tiếng Anh. Cuộc khủng hoảng tài chánh kéo dài, thêm giới trưởng giả lên án những đặc ân dành cho thành phần quý tộc, họ hàng với vua và nhà thờ được miễn thuế trong khi Tiers état bao gồm 97% dân số lại bị đánh thuế nặng.

Từ khi Đặng Tiểu Bình cho TQ đổi mới, dùng kinh tế thị trường là ngọn đuốc cách mạng thì ngày nay, giới đại gia, trung lưu là giới làm nên chuyện, cải tổ đất nước nên người ta lo ngại là giai cấp này sẽ đòi hỏi thêm quyền tự do, chia sẻ chính trị vì bao nhiêu quyền lợi, chính trị đều nằm trong tay các đảng viên. Nếu có cuộc khủng hoảng kinh tế ở TQ thì giới trung lưu sẽ lên tiếng đòi hỏi quyền lợi của họ trong tay của nhà cầm quyền. Người ta lo ngại 14/7/1789 sẽ xẩy ra tại TQ nếu có cuộc khủng hoảng kinh tế. Gần đây, các nhân vật được ái mộ ở Trung Cộng, như Jack Ma,…bị chính quyền làm khó dễ.

 Nhà vua hay giai cấp quý tộc, có đất đai nhiều nhưng không phải đóng thuế. Họ cho thuê đất để các nông dân cầy cấy rồi đóng tiền cho họ. Thiên chúa giáo được xem là quốc giáo, được miễn thuế dù nhà thờ có nhiều đất đai để canh tác và cho thuê. Đức Hồng Y Richelieu, "l' Éminence rouge" rất nổi tiếng, ông được xem một thời, người cai trị của nước Pháp. Mình điên đầu về ông này, thầy giảng mà chả hiểu gì cả, tại sao ông cha lại làm thủ tướng cho vua Louis 13. Sau này coi phim 3 chàng ngự lâm pháo thủ của Alexandre Dumas thì mới hiểu đôi chút, lý do người ta không muốn tôn giáo và chính trị đi đôi với nhau.

 Nước Pháp được xem là mạnh nhất Âu Châu vào thế kỷ 18, bắt đầu thời cai trị của vua Louis 14, tây hay gọi "Le roi du soleil". Nghe kể không biết có đúng không là trời mưa mà ông ta bước ra là tạnh. Ông ta cai trị theo chính thể Quân chủ tuyệt đối ( monarchie absolue). Ông ta dời cả gia đình và triều đình về cung điện Versailles, cách Paris độ 20 km thay vì ở Palais Royal, cạnh vườn Tuileries ở Paris. Có lẻ vì lẻ đó mà mấy ông vua sau này không biết đến tình hình sinh sống của dân chúng ở Paris, như hoàng hậu Marie Antoinette ở chổ hoang vắng, miền quê nên chán, chơi trò cô bé chăn cừu, cho xây dựng mấy chuồng dê để mỗi ngày bà ta vắt sữa,..., theo phong trào lãng mạn của thời đó.

 Nhớ hồi học trường tây thì ông tây có dạy về Jean Jacques Rousseau, Diderot, Voltaire,.., những người khai sáng cho thế kỷ ánh sáng của nền văn hoá Pháp với tinh thần cartésien. Mình có viếng thăm mấy cung điện của vua chúa của Anh, Pháp, Áo-Hung Gia Lợi, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,..., nhưng phải công nhận điện Versailles do mấy kiến trúc sư danh tiếng Le Notre, Le Vau,..., vẽ theo tinh thần cartésien rất là đẹp. Năm thứ 3, mình hay ghé lại đây mỗi tuần để vẽ, nghiên cứu kiến trúc của lâu đài này.

 Mình không nhớ nhiều hay hiểu rõ sau khi đọc cuốn Contrat Social mà ông tây bắt cả lớp mua ở tiệm sách Hoà Bình, chỉ nhớ tra tự điển Larousse mệt thở, nhớ mang máng là phong trào văn hoá được gọi Ánh Sáng (Lumière) tạo nên một trường phái lãng mạn khiến các nhà trí thức mơ đến một xã hội khác, đẹp hơn qua các bài thơ của Lamartine,..., dựa trên căn bản quyền làm người, tự do và bình đẳng đưa đến cuộc cách mạng dành độc lập của Hoà Kỳ và cuộc cách mạng tại Pháp....

 Trước 1945, các nhà trí thức của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi phong trào lãng mạn nên ta thấy xuất hiện những tác phẩm như Thiên Thai của Văn Cao, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong,..., đã nói lên ảnh hưởng của thanh niên thời ấy vì thế mới có 13 vị anh hùng Yên Bái bị chém đầu mà gần đây mình có xem được hình ảnh lính Tây chém, bêu đầu ngoài chợ. Các thanh niên tham gia các phong trào cách mạng để chống Pháp, dành độc lập. Khi có óc lãng mạn thì con người mới mơ tưởng đến một cái gì xa xa là lạ, một xã hội bình đẳng,... Thanh niênthời mình học đại học rất mê Che Guevarra, vì ông ta từ khước cuộc đời trưởng giả, bỏ học y khoa để đi làm cách mạng khắp nơi. Gieo chết chóc khắp nơi, tôn sùng bạo lực cách mạng.

 Các giới trưởng giả bị đánh thuế nặng để vua giúp đỡ 13 thuộc địa Hoa Kỳ đánh Anh Quốc dành độc lập mà ta nhận thấy tướng Lafayette có mặt tại Châu Mỹ. Người ta kể có trên 8,000 cuộc bạo động bởi nông dân vào thập niên 1780. Ông  Necker, tổng giám đốc tài chánh của nhà vua trình bày tình hình ngân quỹ quốc gia: thâu thuế được 503 triệu cân Anh, chi tiêu mất 620 triệu cân Anh trong đó có đến 310 triệu để trả nợ. Dân chúng lên án khi được biết nhà vua tiêu trên 31 triệu vào các cuộc ăn chơi, xa xỉ trác táng tại điện Versailles.

 Năm 1788 lại bị mất mùa, giá bột mì lên cao khiến các phụ nữ rũ nhau đi Versailles để đòi bánh mì. Những cải tổ về luật Pháp, thuế vụ được thi hành nhưng chỉ đánh thuế thêm người dân. Giới Tiers Etat đòi được thêm số đại biểu trong quốc hội vì họ chiếm 97% dân số, (quý tộc và nhà thờ là hai thành phần còn lại) nên nhà vua chấp thuận nhưng quyền đầu phiếu thì chưa quyết định.

 26/6/1789, nhà vua cho vời 20,000 lính ngoại quốc về Paris để dẹp loạn, tương tự binh đoàn Wagner ngày nay ở Syria và Ukraine. Dạo đó người ta có quyền đi lính thuê cho một nước khác tương tự ngày nay lính Thuỵ Sĩ đứng gác, bảo vệ toà thánh Vatican. Nếu ai viếng Vatican thì thấy mấy ông lính bận áo quần thời phục hưng, đứng gác ở cửa ra vào hay ở trong toà thánh. Ngay ở Hoa Kỳ, vua Anh Quốc muớn mấy đoàn lính Hessois và Đức để dẹp tan đoàn lính tạp hợp của Washington nhưng may thay đám quân thiện chiến này, ỷ y nên bị quân của Washington bao vây, đánh tan.

 Đầu tháng 7, nhân dân Paris nổi loạn, vua Louis 16 sa thải các bộ trưởng cấp tiến. Ngày 12 /7, luật sư và nhà báo Camille Désmoulins kêu gọi dân chúng đấu tranh vì nhà vua sẽ gửi mấy đoàn quân Thuỵ Sĩ và Đức để tàn sát người dân, do đó được mệnh danh là "L' homme du 14 Juillet". Ngày 13 /7 thì mấy chổ chấn đóng của nhà vua bị đốt phá, dân chúng vào cướp mấy kho lúa của nhà thờ. Có hình của ông Désmoulins trong viện bảo tàng Carnavalet, mình có đến xem thì được biết ông ta cũng bị chém cùng lúc với Georges Danton. Mình chỉ nhớ hai ông Robespierre và Danton được ông tây dạy sử địa nói đến nhiều nhất.

Làm cách mạng, đem đầu lâu của cai ngục Bastille đi khắp phố phường Paris.

 Ngày 14/7 thì dân chúng  chạy vào Hôtel des Invalides (viện thương phế binh) để cướp súng nhưng không thấy thuốc súng nên chạy qua ngục Bastille để lấy thuốc súng. Thật ra trong ngục chỉ có 7 tội phạm và chính quyền dự định sẽ phá nên trong khi chờ đợi thì dùng làm nơi chứa thuốc súng. Cai ngục Launay đồng ý cho đoàn dân phiến loạn vào ngục nhưng rồi ra lệnh cho lính bắn vào dân, khiến một số đông lính bất bình nên quay ngược chống lại ông ta, cuối cùng ông ta bị bắt, kéo lê khắp phố và bị cắt cổ bởi một tên bán thịt. Đầu lâu của ông ta được gắn vào cái thương, vác đi khắp nơi, khởi đầu cho cuộc thanh trừng giết người của cách mạng.

Hình ảnh này khởi điểm cho cuộc thanh trừng ghê rợn nhất của cuộc cách mạng Pháp. Vì tội phạm nhiều quá nên đao phủ thủ chém không xuể nên có ông Bác sĩ Guillotin với lòng bác ái lương y như từ mẫu, đề nghị dùng máy chém cho nhanh nên sau này dân tây đặt tên cái máy chém là "la guillotine" thay vì "la louisette"  vì do một bác sĩ khác tên Antoine Louis phát minh ra. Sau này họ đem sang Việt Nam để chém các người yêu nước của thuộc địa như 13 liệt sĩ Yên Bái.

 Vua Louis 16 ra lệnh các đoàn binh đang bao vây Paris về lại trại lính, mời các bộ trưởng cũ lại và đồng ý với đề nghị thành lập nền chính trị mới là Quân chủ lập hiến như Anh Quốc. Sau cuộc bạo loạn thì khắp nước chìm trong lo sợ vì không có quân lính, cảnh sát của nhà vua bảo vệ, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Em trai của vua chạy sang cầu cứu các nước Phổ và Áo, đem quân sang dẹp loạn. Lính Pháp bị đại bại vì các vị chỉ huy thường là thuộc các gia đình quý tộc bỏ chạy ra Hải ngoại hết nên không có ai chỉ huy nên thảm bại.

 Cuộc thanh trừng bắt đầu và hội đồng cách mạng tuyên bố hủy bỏ nền quân chủ và chém đầu hai vợ chồng vua Louis 16. Những người tiên phong tạo dựng lên cuộc cách mạng thuộc nhóm Jacobins bị chém đầu như Robespierre, Danton, Desmoulins,.. Cuộc cách mạng Pháp khởi đầu cho một kỹ nguyên của thế giới: Cách mạng công nghiệp và sự bành trướng của các đế quốc Âu châu trên thế giới và hơn một thế kỷ sau, cũng những tư tưởng của Jean Jacques Rousseau, Voltaire, Diderot và những người sau như Karl Marx, Engels đã giúp các thuộc địa đứng lên, đánh lại các nước cai trị họ để dành lại chủ quyền dân tộc.

Các nhà cách mạng Pháp lật đổ được chế độ quân chủ nhưng chưa quen hay biết cách sinh hoạt theo quy định dân chủ nên cãi nhau rồi bắt kẻ đối lập của mình, đem lên máy chém mặc dù kêu gọi tự do, binh đẳng rốt cuộc ông Bonaparte Napoleon, một sĩ quan xuất thân ở hải đảo Corse, cướp chính quyền, tự phong là hoàng đế, khởi đầu cuộc chinh phạt của đế quốc Pháp khắp năm châu và đế quốc Pháp kết thúc khi đoàn lính của Hitler tràn ngập kinh đô ánh sáng. Sau đó thì các thuộc địa đều được trao trả lại cho người sở tại.

 Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nhs

My Father, My Hero

 Hôm nay, tại hội Toastmasters, đến phiên mình làm toastmaster. Mình chọn đề tài “tình phụ-tử” (Fatherhood) vì cuối tuần này là ngày Từ Phụ, người Mỹ sẽ ghi nhớ công ơn dương dục người cha như tháng trước là ngày từ mẫu. Trong khi biên soạn chương trình, mình khám phá một điều là vai trò người cha rất quan trọng trong cuộc đời của những đứa bé. Thiếu vắng bóng người cha, những đứa trẻ lớn lên thường gặp vấn đề giao tiếp trong xã hội, bạo lực,…

Trước đây, ai cũng nghĩ tình mẫu tử mới quan trọng, nay các chuyên gia tâm lý, cho rằng sự hiện diện của người cha, quan trọng hơn cả vai trò của người mẹ. Kinh


Dạo mình ở New York, báo chí ca ngợi ông thị trưởng Giuliani tài ba, đã làm giảm chỉ số tội phạm theo chương trình giảm tội ác của ông ta và ông cảnh sát trưởng. Trên thực tế thì cách đó 20 năm, Hoa Kỳ cho phép phụ nữ được phá thai nên tình trạng thiếu niên phạm pháp giảm vì ít người mẹ đơn côi. 

Một cô bé vị thành niên, yêu đương bị dính bầu thì bỏ học, nuôi con, ăn trợ cấp xã hội. Cha đứa bé thường thì bỏ chạy mất hay vào tù. Người mẹ đơn côi phải đi làm những việc tay chân, nhiều khi hai ba job nên không có thì giờ dạy dỗ con thêm còn bé chưa trưởng thành thì khó dạy dỗ con. Thường ông bà nội, ông bà ngoại dạy cháu tốt hơn vì có kinh nghiệm, có thời gian để dạy cháu tốt hơn cha mẹ chúng, bận công việc, thiếu kinh nghiệm làm cha mẹ.

Có một anh hội viên, kỹ sư đọc diễn văn: “My Dad, my Hero“ trong vòng 7 phút. Anh ta cho biết là sinh tại Mễ Tây Cơ, khi bà mẹ dính cái bầu rồi gia đình di cư sang Hoa Kỳ. Mẹ anh ta, chị cả nuôi 8 người em vì bố mẹ qua đời. Lo cho các em, con mình, chồng khiến bà mẹ bị stress quá nên anh ta và bà mẹ hay cãi lộn. Anh ta hỏi ông bố, lý do nào mà bố chịu đựng mẹ, con chỉ đợi 18 tuổi là ra khỏi nhà, thoát khỏi sự nhiếc mắng của mẹ.

Ông bố cho biết vì con nên bố mới chịu đựng lối hành xử của mẹ. Chiều lái xe đi làm về, bố không biết sẽ gặp chuyện gì nữa đây nhưng vì thương con nên bố chịu đựng. Cuối cùng anh ta chiếu tấm ảnh của ông bố đã qua đời, và đứng khóc như trẻ thơ. Kêu rằng My Father, My Hero. Cha tôi, người anh hùng của tôi.

Cuối tuần rồi con gái mình nhắn tin, cho biết bố của cô bạn, bị tai biến, được đưa vào nhà thương, đang nằm Coma. Con gái mình chợt nhận ra cuộc đời rất mong manh, người thân của mình có thể ra đi bất kỳ lúc nào. Nó mong đến ngày gặp lại gia đình ở Dubai tháng tới.

Chúng ta thường không để ý hay trân trọng người thân, cha mẹ để rồi một ngày nào đó chưng hửng nhìn lại mình là kẻ mồ côi, phải gắn hoa hồng trắng vào ngày Vu LAn. Ước gì đổi thiên thu để tìm lại nụ cười của mẹ hay bố, người thân.

Sau phần diễn văn thì đến phần Tabletopic thì mọi người được hỏi 1 câu về sự liên hệ, kỷ niệm với cha. Mình rất ngạc nhiên vì ai cũng kể về những kỷ niệm đẹp với cha, nhiều khi có sự khắc khẩu. Ai cũng nghĩ bố mình làm gương cho mình đi theo.

Mình nhớ khi xưa, ông cụ làm công chức tại ty công chánh Đà Lạt, tối đi học thêm để thi bằng tiểu học để vô ngạch công chức kiếm thêm tiền nuôi con. Tối tối, mình hay đi đón ông cụ ở trường Hiếu Học, ở đường Hai Bà Trưng. Nhiều đêm thấy ông cụ ngồi học bài. Không ngờ, sau này lập gia đình, mình cũng nối gót ông cụ, đi học thêm lớp tối về nhà cửa, đầu tư để có khả năng mua thêm sữa cho con.

Có lần sau khi học lớp đêm, mình ngồi nán lại chém gió với mấy tên mỹ quen. Khi về đến nhà, mình thấy hai đứa con nằm ngủ dưới đất, trước cửa phòng của mình. Lý do là mỗi tối, trước khi đi ngủ, mình đều đọc truyện cho chúng nghe. Chúng không bao giờ chịu đi ngủ trước khi nghe mình kể chuyện đời xưa. Đồng chí gái đọc thì chúng kêu Chán Mớ Đời.

Từ dạo đó, đi học ban đêm, tan lớp là mình bò về, đọc truyện cho hai đứa trước khi đi ngủ. Nay lớn lên chúng kêu bố kể chuyện không tin được. Dạo đó mình kể chuyện Tam Quốc Chí, Thuỷ Hử, Anh Hùng Lĩnh Nam, bú xua la mua. Chán Mớ Đời 

Nhìn lại thì mình có ảnh hưởng khá lớn với mấy đứa. Có chuyện gì như tình yêu, tài chánh,…chúng đều hỏi mình.

Năm nay thanh long đỏ ra nhiều

Nhìn lại mình chỉ ở gần ông cụ có vài năm, khá lắm là 8 năm. Khi mình mới ra đời thì ông cụ còn trong quân đội, sau này giải ngủ thì làm công chức ở Ban Mê Thuật mấy năm. Sau này, được tướng Đổ Cao Trí can thiệp nên được thuyên chuyển về lại Đà Lạt. Mình cũng ít khi đi chơi với ông cụ, chỉ nhớ vài kỷ niệm. Ông cụ kỳ vọng vào mình nhưng mình học cực ngu. 

Chỉ có khi ông cụ ở trại cải tạo suốt 15 năm, mình mới nhớ đến ông cụ nhiều. Nhiều khi ăn ngon tiệc tùng, chợt nhớ đến ông cụ trong trại cải tạo. Về Việt Nam thăm nhà, mình mới khám phá ra mấy người em ở Việt Nam, cũng bù trớt vì ông cụ ở trại cải tạo khi còn bé. Lớn lên không có người cha bên cạnh, mẹ mình phải đóng vai trò người mẹ vừa người cha. Có cô em kể, thời bé đến nhà bạn, thấy họ có bố chăm sóc còn mình thì chả biết đâu mà rờ. Đi thăm nuôi thì xa xôi, tốn kém.

Sau này, mình có hỏi về thời gian trong trại, ông cụ có kể, mình có thu âm lại để sau này mấy đứa con nghe. Văn hoá người Việt không bầy tỏ tình cảm như người tây phương. Chỉ qua ánh mắt, chúng ta có thể cảm nhận được tình cảm của người cha dành cho con cháu.

Mình lựa tựa đề buổi họp khiến nhiều người có cơ hội, nhớ lại những giây phút của người cha. Có lẻ trong chúng ta, ai cũng cũng có một người cha anh hùng. Xong om

Cuối tuần này, em xin chúc các bác một ngày vui vẻ, đoàn tụ bên người cha anh hùng của mình. Tuần sau em leo núi Whitney, cao nhất nội địa Hoa Kỳ. Đồng chí gái nghe em leo núi thì đã mua vé đi Gia-nã-đại chơi. Chán Mớ Đời 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Tướng độc nhãn và chiến tranh Việt Nam

 Nhớ hồi nhỏ, nghe chiến tranh 6 ngày và Yom Kipour giữa Do Thái và các liên quân của các xứ Ả Rập đánh nhau ở sa mạc Sinai. Báo chí huyền thoại hoá ông tướng độc nhãn tên MOshe Dayan, một danh tướng của DO Thái. Dạo mình làm luận án ra trường, tính nghiên cứu xây dựng một thành phố trong sa mạc Sinai. Có đến trung tâm văn hoá Ai Cập, nói chuyện nhưng họ khuyên không nên vì tình hình khá phức tạp. Hoà bình chưa vãn hồi dù tổng thống Anuar Sadat đã ký hiệp ước hoà bình với Do Thái và đã trả bằng mạng sống của mình. Sau đó thì mình sang Ý Đại Lợi làm việc, và làm luận án bên đó.

Mình nhớ ông tướng này có đến Việt Nam thăm vì báo chí việt ngữ có nhắc đến ông ta. Sau này qua Tây, đọc hồi ký của ông ta mới biết là có lần ông, mất ghế bộ trưởng vì thay thế chính phủ, buồn đời được tờ báo DO Thái trả tiền cho ông qua Việt Nam, làm phóng sự. Nói cách khác là để ông ta nghiên cứu thêm về chiến tranh, và quân pháp của quân đội Hoa Kỳ để làm tài liệu cho quân đội DO Thái. Nhờ đó sau này ông ta đã giúp Do Thái chiến thắng trong cuộc chiến 6 ngày và Yom Kipour, tương tự Mậu Thân của Việt Nam. Một lễ lớn của đạo Do Thái, và liên quân Ả Rập tấn công bất ngờ.

Tướng độc nhãn Moshe Dayan. Một trong những vị tướng nổi tiếng nhất thế giới của thế kỷ 20.

Ngày nay, hồi ký của ông ta với chữ ký của tác giả, được rao bán trên $120,000. Kinh

Ông ta kể tờ báo mướn ông ta đi làm phóng sự chiến trường Việt Nam. Trước khi lên đường sang Việt Nam. Ông ta qua Pháp để gặp các tướng Tây khi xưa tham chiến tại Việt Nam, sang Anh quốc gặp tướng Montgomery. Nghe nói ông tướng người Anh này, kêu chiến lược của Hoa Kỳ tại Việt Nam là điên rồ. Ông ta có gặp các tướng Mỹ, ngay ông MacNamara, bộ trưởng bộ quốc phòng của Hoa Kỳ để nghe họ giải thích về chiến lược của họ tại chiến trường Việt Nam. Khi sang Việt Nam, ông ta có gặp các tướng lãnh đạo như Westmoreland,… để nghe họ tường trình tình hình tại các chiến trường.

Ông ta đi hành quân với các lực lượng quân đội mỹ, không sợ chết khiến các ông tướng Mỹ ngán, lỡ có chuyện gì xẩy ra cho ông ta là mất mặt. Ông ta chỉ trích các Ấp CHiến lược của Việt Nam Cộng Hoà như các trại tỵ nạn, khác với các Kibutz của Do Thái. Người dân sống tại đây, không tin tưởng người Mỹ hay chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Hình như mình đã kể vụ Ấp CHiến Lược rồi, thất bại vì đã thay thế các hệ thống làng xã, khiến mấy người từng làm chức vụ trong làng do dân làng bầu lên, bất mãn chạy theo Việt Cộng.


Ông ta cho rằng, Hà Nội đưa ra ý thức hệ là chủ nghĩa cộng sản thì người Mỹ cần đưa ra một mô hình như chủ nghĩa xã hội cấp tiến thay vì một trại tỵ nạn. Người dân bị bứng ra khỏi làng của họ để lùa vào các ấp được mệnh danh là ấp chiến lược, phỏng theo chiến lược của người Anh quốc đã sử dụng tại MÃ Lai Á. Đó là sai lầm về ý thức hệ trong cuộc chiến.

Mình nhớ giáo sư Lê Xuân Khoa kể, có lần bác được mời làm cố vấn bộ giáo dục. Bác đề nghị chính quyền cho các giáo chức được hoãn dịch. Lý do là người trong làng, trọng nể các giáo viên. Các giáo viên không phải đi quân dịch thì sẽ theo Việt Nam Cộng Hoà. Khi đã thu phục được giáo viên trong làng thì sẽ kéo cả làng theo chính phủ miền nam. Đề nghị này không được hội đồng tướng lãnh nghe và sau đó nội các được thay đổi.


Ông ta có gặp ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Ông ta thất kinh khi nghe ông Kỳ nói là rất cảm phục ông Võ NGuyên Giáp. Một chủ tịch uỷ ban hành pháp trung ương, tương đương với chức thủ tướng ngày nay, chức quyền cao nhất trong hội đồng các tướng lãnh đảo chánh. Mình nhớ dạo ấy đi về Tùng Nghĩa, có thấy mấy tấm bảng đề “Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ là chính phủ của người dân”.


Chuyến công du của ông ta gây nhiều tranh cãi vì phát ngôn linh tinh

Mình đoán sau này, không như ông ta kể trong hồi ký của ông, nhường cho ông Thiệu khi tranh cử chức tổng thống và làm phó tổng thống. Ông ta bị Hoa Kỳ loại ra, để ông Thiệu ra ứng cử tổng thống vì tuyên bố vớ vẩn không đúng chỗ. Ông ta công du qua Âu châu, tuyên bố là rất phục ông Hitler, vì đã giúp Đức quốc khôi phục lại sau thế chiến thứ 1, Việt Nam Cộng Hoà cần đến 4 người như Hitler, khiến báo chí quốc tế chửi bới tan nát một đời trai. Làm sao một thủ tướng của một quốc gia có thể tuyên bố trước báo chí ngoại quốc là cảm phục một tên đồ tể vừa diệt chủng 6 triệu người Do Thái. Mình tình cờ đọc một bài báo của một nhóm cựu chiến binh mỹ nói về ông Kỳ với các bài báo thời đó đăng ở âu châu. Mình nghĩ ông ta muốn nói đến tài hùng biện của Hitler nhưng có lẻ ngoại ngữ không rành nên xổ bậy, dùng từ ngữ không đúng gây hiểu lầm.


Có lần ông Phạm Văn Đồng qua Pháp xin viện trợ sau 75. Báo Paris Match phỏng vấn về số người ở trại cải tạo. Ông này trả lời khiến báo chí dựa theo lời ông ta, kêu có trên 2 đến 3 triệu người của chế độ Việt Nam Cộng Hoà trong trại cải tạo. Kinh

Năm 14 tuổi, ông Dayan đã cầm súng, lên chức Tổng tham mưu trưởng quân đội Do Thái năm 38 tuổi, và thiết kế cuộc chiến Sinai, khiến ông ta trở thành huyền thoại. Người Do Thái không muốn một cuộc diệt chủng thứ 2 sau Holocaust nên họ hăng say đánh giặc như người Ukraine ngày nay, dù thiếu súng đạn.

Dạo đó, buồn đời không biết làm gì khi bị thất sũng, tờ báo Maariv, trả tiền cho ông sang Việt Nam, bị các chính trị gia của đảng cộng sản Do Thái Maki chửi bới. Lý do là DO Thái trung lập trong cuộc chiến Việt Nam. Ông ta đến Sàigòn vào ngày 25/7/1966. Nói chung là một người lính nên ông đi nghiên cứu cuộc chiến vượt qua các chỉ tiêu của tờ báo. Ông xem cuộc chiến là phòng thí nghiệm của chiến tranh tuyệt vời nhất vì dạo ấy chỉ có Việt Nam là có đánh nhau.


Ông viếng thăm hàng không mẫu hạm, lên vùng ba biên giới nơi các lực lượng đặc biệt Việt Nam và Hoa Kỳ đóng tại đó. Ông ta đi theo quân đội Hoa Kỳ trong chiến dịch “tìm và huỷ” mà thấy trên đài truyền hình, hộp quẹt Zippo, đốt nhà tranh của người dân quê, rồi lùa họ lên xe, chở vào các trại tỵ nạn. Ông cho biết, có gặp cảnh một cán binh Việt Cộng bị khẩu cung, nhổ vào mặt người đang lấy cung mình. Ông cho biết là một người cầm súng khinh bỉ người Mỹ, không sợ chết thì cuộc chiến không có tương lai.

Có lẻ ông đạo diễn Francis Coppola đã dùng câu này để cho Michael Corleone nói khi thấy cảnh một ông du kích người Cuba, tự tử với trái lựu đạn khi bị bắt và giết một đám lính chung. Quyết định không đầu tư vào Cuba.

Trong một chuyến đi ra mặt trận với đại đội Hoa Kỳ, ông chứng kiến sự thiệt hại của quân đội mỹ. Ông ta kể là trực thăng vừa đáp xuống thì bị phục kích: 25 chết tại chỗ, 70 bị thương xem như 70% tổn thất ngay những giây phút đầu tiên mới đáp xuống. Có đến 1,700 chiếc trực thăng mỹ được sử dụng tại chiến trường Việt Nam.


Ông cho biết hoả lực Hoa Kỳ quá mạnh. Ông ta có chứng kiến 130 lính Nam Hàn chống trả 1,000 Việt Cộng và gọi không quân Hoa Kỳ yểm trợ. người Mỹ nã 21,000 quả đạn pháo, nhiều hơn số toàn bộ đạn pháo binh của Do Thái ở mặt trận Sinai và chiến tranh dành độc lập cộng lại. Kinh

Ông ta kết luận là người Mỹ đang tiến hành sai một cuộc chiến ở Việt Nam, khá nhất là hoà. Phía cộng sản thì ông ta cho rằng sẽ không thắng được người Mỹ. Hoả lực của Hoa Kỳ không đánh Hà Nội, không đánh Hồ Chí Mình, mà đánh cả thế giới tương tự tình hình Nga Sô hiện nay trong chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine.

Ông kết luận người Mỹ kiêu ngạo, tin rằng qua cuộc chiến Việt Nam, họ muốn phô trương sức mạnh của họ cho thế giới biết. “Họ muốn chứng tỏ rằng quyết định của người Mỹ là trên hết, và khi họ bước chân vào bất cứ cuộc chiến nào thì không gì có thể ngăn nổi.” 

Ông kết luận 'người Mỹ thắng ở mọi chỗ, chỉ không thắng cuộc chiến' (The Americans are winning everything 'except the war”. Người Mỹ không tính yếu tố người Việt tại miền nam trong cuộc chiến. Sự thật được lập lại tại các chiến trường mà quân đội mỹ tham gia như Iraq, Á phủ Hãn,…

Khi thăm viếng một Ấp Chiến Lược, ông ta cho rằng người dân có cái nhìn không thiện cảm, trẻ em khốn khổ. Khi ông ta phỏng vấn một phụ nữ thì bà ta đã lùi lại, cố thủ.

10 tháng sau chuyến thăm viếng Việt Nam, ông ta được bổ làm bộ trưởng quốc phòng DO Thái (06/1967) và vài ngày sau đó ông chỉ huy binh sĩ DO Thái đánh thắng liên quân Ả Rập trong cuộc chiến 6 ngày.


Báo chí truyền thông cho rằng nhờ tham quan cuộc chiến tại Việt Nam, đã giúp ông ta có cái nhìn chiến lược và chiến thuật cho quân đội Do Thái. 260,000 binh sĩ Do Thái chống chọi với 340,000 quân Ai Cập-Syria-Jordan. 800 chiến xa Do Thái đánh thắng 1,800 chiến xa Ả Rập.

Trong thời gian làm bộ trưởng ngoại giao Do Thái, ông ta đồng ý nhận người Việt tỵ nạn. Hiện nay có một số người Do Thái, gốc Việt, đi quân dịch cho DO Thái. Mình có xem một phim tài liệu của DO Thái, kể một gia đình gốc vIệt, về Việt Nam khu vực Quảng Nam, thấy nhà cửa đất ruộng của họ bị Việt Cộng tịch thâu. Mấy người con không hiểu tại sao người ta có thể vào chiếm đất của gia đình bố mẹ của họ. Chán Mớ Đời 

Tương tự người Palestine không hiểu tại sao lại bị bỏ vào các trại tỵ nạn từ năm 1948 khi Do Thái thành lập đất nước của họ. Đến nay là 3 thế hệ, con cháu vẫn sống lây lấy ở trại tỵ nạn bên Lebanon.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Quê hương và lá cờ

 Mình nhớ tết đầu tiên ở Paris, người Việt quen rủ đi xem văn nghệ, ăn tết do nhóm người Việt yêu nước, thân cộng sản tổ chức thì thất kinh khi thấy họ chào cờ với cờ Mặt trận Giải Phóng Miền NAm và cờ Hà Nội. Đó là lần đầu tiên mình thấy tận mắt hai lá cờ này vì trước đây ở Đà Lạt, không thấy ngoài trên báo trắng đen. Đặc điểm là không thấy người Việt yêu nước hát quốc ca của Hà Nội. Chắc xa nhà lâu năm nên họ quên tiếng Việt, có rất nhiều người sinh tại pháp khi cha ông bị pháp đưa sang đánh trận chống Đức quốc.

Ngược lại tuần sau, mình đi dự tết của tổng hội sinh viên Việt Nam tổ chức. Nhóm này thì chống cộng. Khi lá cờ vàng 3 sọc đỏ được treo lên thì mọi người đều hát bản quốc ca do ông Lưu Hữu Phước, một người theo Hà Nội sáng tác. Cũng là người Việt nhưng một bên thì hát quốc ca gần như cả rạp và một bên thì không ai ca bài tiếng quân ca của ông Văn Cao.

Thời sinh viên mình hay thấy người Việt đánh nhau vì bên thân cộng và một bên chống cộng. Cứ đến Maubert MUtualite là thấy đánh nhau chí choé. Từ đó mình tránh đi mấy vụ do hội Việt kiều yêu nước tổ chức, sợ bị đánh. Mình phải đọc sách báo của nhóm Đoàn Kết để hiểu họ thêm vì ở Việt Nam chỉ nghe tuyên truyền qua đài phát thanh và báo chí Việt Nam Cộng Hoà.

Dần dần tin tức các thuyền nhân vượt biển đưa đến Paris, các cuộc diệt chủng của Khờ Mẹ đỏ khiến thế giới chới với nhất là nhóm thân Hà Nội, thiên tả hay cộng sản. Dạo ấy Pháp quốc có đến 25% cử tri bầu cho cộng sản. Đi làm, cãi lộn với tây đầm về chiến tranh Việt Nam, cộng sản mệt thở. Chúng kêu gào thánh chiến chống tư bản đủ trò, tôn thờ Mao sến sáng. Ngày nay đảng cộng sản pháp không quá 2% cử tri. Ngược lại số đông theo nhóm cực hữu. Về âu châu, đi đâu cũng thấy Bích chương của các nhóm cực hữu mà mới đây Ý Đại Lợi đã bầu nhóm này. Bạn bè mình ở Ý Đại Lợi, khi xưa thích Hà Nội, đánh cho mỹ cút ngụy nhào nay thì họ lại bầu cho đảng cực hữu mà trước đây họ gán cho mình cái từ. Chơi với nhau nhưng cũng không cãi nhau nhiều về chính trị. Dạo ấy có sự tôn trọng ý kiến chính trị cá nhân, nay thì không theo họ là họ chửi.

Phải công nhận là nhóm Việt kiều yêu nước rất mạnh. Mình nhớ lúc mới xuống phi trường Charles De Gaulle đã thấy 2 tên Việt kiều đứng hỏi có cần chỗ ngụ hay không. Ai từ Sàigòn qua là họ vớt theo họ ngay trong khi sứ quán Việt Nam Cộng Hoà không cho có ai ra đón, giúp đỡ kẻ mới đến. Ai mà được họ vớt về thì xem như theo họ luôn. Mình đọc đâu đó, ông Hàn Lệ Nhân cũng đi cùng thời với mình từ Ai Lao, đến Paris, gặp người của hội Việt kiều. Ông này sinh trưởng tại Ai Lao, gốc Việt, học trường tây từ bé mà tiếng Việt rất giỏi.

Mình có ông cậu bà con, du học từ năm 1955, Đảng viên cộng sản, ra đón nếu không chắc cũng đi theo họ về nhà của họ để được giúp đỡ lúc đầu.

Sau này đi làm ở Thuỵ Sĩ mình chỉ tham gia các họp mặt của người Việt tỵ nạn nên chỉ thấy cờ Việt Nam Cộng Hoà. Đến khi mình sang Luân Đôn làm việc thì ngạc nhiên vì trong các buổi họp mặt người Việt tỵ nạn không có hình bóng lá cờ Việt Nam dù đỏ hay vàng. 

Hỏi ra thì mới khám phá các người Việt tỵ nạn đi từ miền bắc, không muốn chào cờ Việt Nam Cộng Hoà và người Việt đi từ miền nam thì không chịu chào cờ Hà Nội. Cả hai cộng đồng đều là nạn nhân của cộng sản, phải bỏ nước ra đi. Bên thì đi qua Hương Cảng và bên thì chạy về hướng biển đông của Việt Nam. Nói chung thì 2 cộng đồng người Việt này không thân thiện lắm, chỉ hợp tác nếu có tiền bạc của chính phủ cho. Mình có gặp vài người, nói chuyện nhưng không thân lắm.

Mình chả hiểu lý do đến khi nhận tấm ảnh của hai cô em ở Việt Nam, chụp hình bận áo đỏ sao vàng, chuẩn bị xem đội tuyển túc cầu Việt Nam đá với ai đó. Chắc là với Thái Lan vì nghe nói Thái Lan đi sau Việt Nam đến 15 năm. Hai cô em đi bão đủ trò.

Hoá ra hai cô em còn bé khi 4/75 xảy ra. Lớn lên chỉ biết lá cờ hồng là của Việt Nam, tượng trưng cho quê hương, tổ quốc. Lúc đó mình mới hiểu vì sao người đi từ miền bắc không muốn chào cờ Việt Nam Cộng Hoà và người miền nam không chịu chào cờ miền bắc. Tương tự bắt mình chào lá cờ Lào, Nam Dương hay của nước nào khác mà mình không có liên hệ tí nào.

Người hai phía đều có chung một quê hương nhưng biểu tượng qua lá cờ khác nhau. Mình sinh ra tại miền nam nên lá cờ Việt Nam Cộng Hoà là biểu tượng của quê hương mình. Em mình cũng sinh ra tại miền nam nhưng lớn lên quen với lá cờ đỏ sao vàng. Ai đúng ai sai? Chả có ai sai cả. Lá cờ có thể thay đổi nhưng quê hương vẫn còn đó.

Mình nghe kể đức Phật, có lần nhìn mặt trăng đẹp nên ông ta đưa ngón tay chỉ mặt trăng để giảng các đệ tử về cái đẹp hay chi đó. Các đệ tử đều nhìn theo ngón tay thay vì cái đẹp của mặt trăng. Lá cờ là ngón tay còn quê hương là mặt trăng. Chúng ta nên tránh nhìn ngón tay, chê bai ngón này đẹp ngón kia xấu. Nhìn mặt trăng biểu tượng cho quê hương mới là quan trọng.

Mình có đọc những văn thư của Chúa Trịnh và CHúa Nguyễn thời xưa. Họ viết cho nhau như hai quốc gia khác nhau, xưng ngài vớ vẩn,… cờ xí của đàng trong và đàng ngoài khác nhau. Nhìn lịch sử thì mình thấy là lạ nhưng ở thời điểm đó thì đúng như Việt Nam trước 1975, bị phân đôi.

Mình có chị bạn nhỏ tuổi hơn đi vượt biển từ miền Bắc. Bố là gốc tầu, mẹ là người Việt nên năm 1979, Hà Nội làm áp lực phải xuống tàu đi vượt biển qua Hương Cảng. Nhiều khi nói chuyện với nhau, chị ta kể về các cuộc dội bom của không quân Mỹ khi còn bé trước 75. Các hầm trú bom hay đi sơ tán. Mình có hỏi có thù hận gì người Mỹ hay không. Chị ta cho rằng gia đình bên ngoại bị đánh tư sản trong vụ cải các ruộng đất, mẹ không được đi làm việc, được liệt kê vào thành phần tư sản. Nay ở Hoa Kỳ, rất mến người Mỹ, yêu quê hương này.

Gần đây mình có quen hai du sinh tại Liên Xô qua chương trình giúp đỡ người tỵ nạn Ukraine. Họ đi du học từ miền Bắc năm 1975, con cán bộ gộc trong chương trình đào tạo hạt giống đỏ. Học xong thì họ ở lại Liên Xô, làm việc rồi khi Liên Xô sụp đỗ thì họ nhảy ra làm ăn. Có anh nói là làm chung mì gói với ông chủ Vìnfast lúc khởi đầu. Hai người này rất thành công, nay định cư tại Hoa Kỳ và là công dân Hoa Kỳ. Hôm lên vườn mình chơi, họ có hái vài quả bơ rồi gửi qua Nga Sô cho bạn bè.

Hai người này có giới thiệu mình thêm vài người khác, khi Nga đánh Ukraine năm 2014, bỏ Ukraine chạy qua Hoa Kỳ theo diện đầu tư. No sức hung họ vẫn còn cơ sở làm ăn, tài sản tại nga và Ukraine nhưng là công dân mỹ. Có anh kể là có công ty làm xì dầu, có đến 600 công nhân làm việc. Hỏi sao không khuếch tưởng lớn hơn hay ngành khác. Anh của cho biết, nếu làm lớn thì mấy anh nga sẽ bảo đây là công ty cua ranh nhé, cướp trắng vì không có luật lệ bảo vệ gì cả.

Nói chuyện với họ mới hiểu được căn cơ của hệ thống Liên Xô. Họ cho biết là từ 13 năm nay, ở Nga, nhà máy của 1 anh, đã bôi trơn chính quyền, cán bộ hơn 1 triệu đôla nhưng họ vẫn chưa gắn đường nối ống ga vào nhà máy để sản xuất. Khiến mình nhớ anh bạn xây một trạm xăng ở Sàigòn. Tốn 1 triệu để xây và 500,000 đô để bôi trơn và mất mấy năm trời trong khi ở Hoa Kỳ thì chỉ cần 30 ngày là xong giấy tờ.

Họ cho biết Liên Xô sụp đỗ nhưng hệ thống Liên Xô vẫn tiếp tục đến ngày nay. Điển hình là lò sưởi. Ở Hoa Kỳ thì ai nóng ai lạnh thì tự động mở sưởi vào mùa đông còn ở Nga Sô thì theo chế độ xã hội chủ nghĩa cũ. Từng khu một được sưởi dù nóng vẫn không tắt được. Khi lạnh những khu dân cư mình ở không được sưởi thì ngọng. Rất phí!

Có lẻ vì vậy mà tại chiến trường Ukraine, đã lộ ra sự thật về chế độ Liên Xô vẫn tiếp tục dù Liên Xô đã sụp đỗ từ 1991, 30 năm về trước. Họ chưa cập nhật hoá với công nghệ hiện đại ngày nay thêm chế độ quan liêu của xã hội chủ nghĩa từ trung ương, không uyển chuyển tại địa phương. Tham nhũng đã diệt đội quân nga sô.

Mình chắc chắn là hai anh du sinh từ miền Bắc sẽ rất khó chịu khi thấy cờ Việt Nam Cộng Hoà, một lá cờ mà họ không có dính dáng gì cả, thậm chí đã được tuyên truyền từ bé là lá cờ nguỵ, tương tự khi mình thấy lá cờ hồng như Trần Dần năm nào đi giữa phố Hà Nội trong mưa.

Chuyện quan trọng là mình có thể nói chuyện với họ về Việt Nam. Họ được sinh ra tại miền Bắc, được đãi ngộ, được đi du học tại Liên Xô nhưng họ nhận ra những sai lầm của hệ thống Việt Nam, khó mà tiến bộ, bắt kịp thế giới. Do đó họ không trở về Hà Nội. Họ hiểu rõ Việt Nam, Liên Xô và Hoa Kỳ và đã chọn lựa Hoa Kỳ. Theo mình hiểu thì họ rất thành đạt. Nếu về Việt Nam họ sẽ còn giàu hơn nhưng họ không chấp nhận. 

Có thể họ đã được đào tạo sống trong môi trường cộng sản từ bé đến khi qua Liên Xô nên họ thấu hiểu rõ những gì cần thay đổi để Việt Nam có thể bắt kịp thế giới. Họ gửi tiền giúp đỡ dân chúng Ukraine, tỵ nạn chiến tranh xâm lược của Nga. Tuy còn cơ sở làm ăn ở Nga Sô nhưng họ vẫn theo đuổi con đường mà họ nghĩ người dân Nga Sô hay Ukraine cần phải thay đổi. Người dân nga sô bị tuyên truyền, như ngồi đáy giếng nên không hiểu rõ thế giới bên ngoài. Sách báo truyền thông đều được gạn lọc. Lâu lâu họ cho một cô phóng viên đưa bảng kêu chống chiến tranh để cò mồi để bắt nhốt những người chống đối khác. Trong khi cô phóng viên này được thả ra, không bị lộn xộn như hàng ngàn người khác. Phải tự hỏi lý do. Đó là tính xảo quyệt của nhà cầm quyền.

Khi xưa bố mẹ họ đánh cho mỹ cút nguỵ nhào thì nay họ lại là công dân của Hoa Kỳ, khen đời sống tự do Hoa Kỳ. Có nói chuyện với họ mới hiểu rõ chế độ Liên Xô. Họ được đào tạo từ bé trong môi trường xã hội chủ nghĩa nên thông hiểu rõ hơn mình, chỉ qua sách vỡ hay nghe kể lại. Làm sao anh bắt kịp thế giới khi đã bôi trơn 1 triệu đô la từ 13 năm qua vẫn chưa được gắn được cái ống ga để tăng gia sản xuất, thêm lợi nhuận. Tại Hoa Kỳ, chỉ cần làm đơn rồi công ty ga đưa chuyên viên ra xem, xem xét chỗ nào cần phải đào rồi vẽ hoạ đồ cho mình. Lên đóng tiền rồi họ cho chuyên viên đến gắn. Không đầy 3 ngày.

Làm sao anh đánh trận khi bộ bánh xe hậu cần giá $300,000, anh thay vào đó bộ bánh xe maze in Trung Cộng giá $350.00.

Mình nhớ câu chuyện phái đoàn Liên Xô viếng thăm Anh quốc sau khi đổi mới. Người Liên Xô muốn viếng thăm lò bánh mì của Anh quốc khiến bên Anh quốc như bò đội nón. Kêu ở đây không có lò bánh mì mà chỉ có tiểu thương tự làm bánh mì mỗi ngày cho người tiêu dùng trong khu vực của họ. Phái đoàn liên Xô kêu là xạo, họ muốn đi thăm nên Anh quốc cho họ đến phố xá nào họ muốn các lò bánh mì. Họ hiểu ra  là người làm bánh mì, cuối tuần nghỉ nên ngày thứ 6 làm nhiều hơn vì khách mua để dành do cuối tuần,…

Hai hệ thống sản xuất khác biệt. Một là theo chỉ thị từ trên xuống, và ăn chận. 2 là sản xuất tuỳ theo nhu cầu của thị trường do tư nhân tự thành lập.

Tấm ảnh thấy trên mạng hôm nay. Tụi này gây quỹ để giúp những người nghèo như thế này.

Mình nghĩ người Việt không nên nhìn nhau qua lá cờ đỏ hay cơ vàng vì đó chỉ là biểu tượng. Có thể trong tương lai, lá cờ Việt Nam sẽ được thay thế bằng một màu khác. Việt Nam hay đúng hơn người Việt tại Việt Nam mới chính là đối tượng để chúng ta bàn.

Mình có hỏi một anh du sinh khi xưa tại New York. Quê hương là gì? Anh ta trả lời quê hương là nơi nào mình cảm thấy bình an.

Có mấy người quen kêu mình tại sao lại giúp người tỵ nạn chiến tranh tại Ukraine, cộng sản cũ, da trắng đủ trò. Mình chỉ biết là khi xưa, người Mỹ họ giúp đỡ người Việt trong thời kỳ chiến tranh. Họ gửi thực phẩm, áo quần cũ cho người Việt nhưng bị mấy người có quyền, mấy bà sơ lấy đem bán lại cho người dân. Nay mình ở Hoa Kỳ thì thấy hình ảnh như Mậu Thân, Đại Lộ Kinh hoàng ở Ukraine thì gửi giúp người tỵ nạn chiến tranh, không phân biệt màu da.

Ông Phan Văn Trường, từng làm cố vấn cho chính phủ Pháp về kinh tế có nói là từ khi ông ta thay đổi tư tưởng, khi ông ta tự nhận mình là người Pháp thì lúc đó ông ta mới tiến thân, thành công trong xã hội Pháp quốc. Nếu chúng ta cứ khư khư giữ lấy những tư duy cũ thì sẽ không bao giờ thay đổi. Ở Hoa Kỳ thì cứ sinh sống như người Mỹ như khi xưa mấy ông ta bà đầm dạy mình là đến La MÃ thì xử sự như người La MÃ.

Ngày mai, Bút NHóm Lửa Việt tổ chức gây quỹ “Người Nghèo không thể đợi” để giúp người nghèo tại Hoa Kỳ, Việt Nam,.. mình có mời họ tham dự thì họ lại kêu đem tiền về Việt Nam, Việt Cộng lấy hết. Xong om

Địa điểm và ngày giờ của Gala gây quỹ.

Đồng chí gái kêu mời mấy người giàu như bác sĩ, nha sĩ thì họ sợ đi mấy vụ này lắm. Mời mấy người trung trung một tí thì họ dễ cảm thông hơn. Chán Mớ Đời 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo giang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Võ Công Toàn, kiến trúc sư Việt nổi tiếng thế giới

 Mình nhớ khi viếng thăm Ma-rốc, ông bố của tên bạn người Ma-rốc kêu có một ông kiến trúc sư người Việt rất nổi tiếng, thiết kế lăng mộ của vua Mohammed, được Unesco phong tặng kho tàng văn hoá của thế giới. Ngoài ra ông ta có vẽ những phi trường, sân vận động, những công trình nổi tiếng to lớn, nổi tiếng khác của Ma-rốc.

Tò mò mình đi kiếm tên ông ta trong niên giám điện thoại. Khổ cái là tên việt hay tây tàu gì đều được viết chữ ả-rập khiến mình ngọng. Cuối cùng mình bò vào bưu điện lớn nhất của thủ đô thì họ có niên giám điện thoại bằng pháp ngữ. Cứ mò kiến trúc sư, họ nguyễn, trần Lê đến cuối cùng thì gặp Võ công Toàn.

Hình này lúc ông ta mới sang Ma-rốc. Lúc mình gặp ông ta thì đã trên 58 tuổi. Chỉ nói tiếng tây với mình, tiếng Việt rất ngọng.

Gọi ông ta thì ông ta hẹn gặp tại văn phòng ngày mai. Mình bò lại, ông ta xem vài tấm tranh của mình, kêu muốn làm việc thì đến làm, ông ta trả rẻ như bèo. Hình như dạo ấy, vua Hassan II qua đời nên ông ta bớt công việc nên văn phòng cũng vắng teo. Tên bạn Ma-rốc kêu mình đừng ở lại nên mình dọt về Pháp rồi kiếm được việc ở Thuỵ Sĩ.

Ông này sinh tại Cao Miên nhưng bố mẹ lại gốc Sàigòn như thị trưởng Trần Văn Phước của Đà Lạt. Năm 1945, ông ta xuống thuyền sang pháp. Thay vì tìm đường cứu quốc, học làm cách mạng, ông học kiến trúc tại trường cao đẳng quốc gia mỹ thuật. Con ông ta nói là ông ta đoạt giải Grand prix de Rome năm 1954 nhưng mình xem danh sách các khôi nguyên thì không thấy tên ông ta. Chỉ có kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đoạt giải thưởng này năm 1955.

Chạy trên đại lộ thì thấy lăng mộ của vua Mohammed V nổi bật ở thủ đô. Trắng toát.

Ra trường, không kiếm được việc ở pháp. Cuộc đời đưa đẩy ông ta thiết kế gian hàng năm 1961 của Việt Nam Cộng Hoà tại triển lãm đấu xảo Casablanca, Ma-rốc. Ông thái tử Hassan II, vừa lên ngôi khi vua cha Mohammed băng hà, đi ngang gian hàng Việt Nam Cộng Hoà, thấy đẹp nên hỏi ai thiết kế thì gặp ông ta. Ông vua trẻ muốn xây lăng mộ cho vua cha và hỏi ông ta có thể cho ý kiến. Ông ta vẽ sơ xài trên tờ đồng tiền của Ma-rốc và được vua trẻ chấp thuận. Cuộc đời ông ta bước sang một trang sử mới. Định cư luôn tại Ma-rốc. Nghe ông con kể là khi ông ta đoạt giải Grand Prix de Rome, người Pháp muốn ông ta vào dân tây nhưng ông ta không chịu, vẫn giữ sổ thông hành Việt Nam Cộng Hoà. Tên tây của ông là Eric.

Kiến trúc ả rập hồi giáo do một kiến trúc sư người Việt vẽ
Lăng mộ này được UNESCO xem là di tích lịch sử, văn hoá loài người.

Khi đến Ma-rốc mình rất ngạc nhiên là một người Việt lại thiết kế kiến trúc ả rập rất cổ điển. Hoá ra ông ta sử dụng đến 400 nghệ nhân Ma-rốc để hình thành lăng mộ của vua Mohammed V, người đã dành lại độc lập từ Pháp cho xứ Ma-rốc mà không tốn 1 viên đạn như xứ Algerie hay Việt Nam. Công trình này mất 10 năm mới thực hiện xong.

Diện tích của lăng mộ đâu có đến 1,500 m2. Kiến trúc theo kiểu ả rập hồi giáo. Tường phía ngoài được lắp bằng đá trắng từ Ý Đại Lợi. Mái nhà thì được lợp bằng ngói màu xanh như màu lá cờ của xứ Ma-rốc, hình tượng alawide của vương quốc này. Nói chung thì khó tưởng tượng chính một người Việt thiết kế lối kiến trúc này. Có lẻ ông ta nghiên cứu rất nhiều về kiến trúc ả rập hồi giáo như ở Alhambra, Tây Ban Nha. 

Sau đó, mình viếng Casablanca thì viếng mosque ông ta thiết kế ở đây, dạo ấy mình chỉ thấy sơ sơ vì đang thực hiện. Sau này thấy hình chụp thì cực đỉnh. 

Nhà thờ hồi giáo tại Casablanca
Công trình lớn cuối của ông ta ở Casablanca

Theo mình thì ở hải ngoại, kiến trúc sư người Việt đã thiết kế những công trình to lớn thì phải kể ông Võ Công Toàn. Ở Pháp có ông Lê Văn Kim mà khi còn sinh viên, mình có làm việc mấy tháng với ông ta nhưng chỉ thiết kế các căn hộ cho người nghèo tại pháp. Ông ta có thực tập ở Chicago với công ty kiến trúc Skidmore Owing S.O.M.

Phải công nhận một công trình đẹp của thế giới 

Ông ta qua đời đâu năm 2004 vào tuổi 80. Một nhân tài của Việt Nam, không làm gì cho Việt Nam được cả như ông Nguyễn An đời Lê, qua tầu xây cung điện Tử Cấm Thành, được người Tàu nhớ ơn. Số phận của Việt Nam. Nghe con trai ông ta kể là ông ta không vào dân tây, không biết có vào dân Ma-rốc hay không. Chán Mớ Đời 

Ông nổi tiếng thế giới nhưng có lẻ Việt Nam ít ai biết đến ông ta nên mình viết lại đây vì có hạnh ngộ gặp ông ta ở Rabat, Ma-rốc 1 lần nhưng không làm việc với ông ta vì lương ở Ma-rốc rẻ hơn bên pháp nên phải trở về pháp. Cuộc đời kiến trúc sư mình đưa đẩy đi làm việc ở Ý Đại Lợi, Thuỵ Sĩ, Anh quốc rồi Hoa Kỳ. Láy vợ thì mình bỏ nghề kiến trúc sư luôn, lo làm ăn, đầu tư về địa ốc.

https://en.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_An

Nguyễn Hoàng Sơn