Trăm năm chung một chuyến đò


Hôm qua, buồn đời mở ứng dụng đã được cài đặt không biết tự bao giờ, cứ tự động tính số bước chân của mình mỗi lần mình đi bộ hàng ngày, để xem hôm nay đi bộ trên vườn được nhiêu bao dậm. À nhớ rồi sau khi mua cái vườn. Vậy xem như mình mua cái vườn này được gần 11 năm vào cuối tháng này. Bổng nhiên hiện lên số bước chân mình đã đi từ khi bắt đầu làm vườn khiến mình thất kinh. Thật ra nhiều khi đi bộ, không đem theo điện thoại cũng như đồng hồ đeo tay. Lý do là khi đi bộ với vợ mình không thích đem theo điện thoại vì muốn dành tất cả thời gian cho mụ vợ, vì hai vợ chồng chỉ có thời gian 3 dậm chung cho mỗi ngày. Lý do là đi bộ cứ 3 dậm là mụ vợ kêu mắt tè nên phải canh là vậy. Ra biển hay đi Đâu đều phải canh. Nay đồng chí gái mê tập đàn nên hai vợ chồng bớt đi biển hay đi bộ mỗi ngày trong khu vực.

Đọc cái này thất kinh

Mình đã đi từ ngày 22 tháng 9 năm 2016 đến hôm nay được 19,113,761 bước chân (7,843.2 dậm) sử dụng ứng dụng Pedometer++, xem như 12,548.80 cây số. Xem như gần 8.5 năm, trung bình mỗi năm đi bộ được 1,476.33 cây số hay là 123.03 cây số cho mỗi tháng hay trung bình 4.1 cấy số mỗi ngày. Xem ra cũng bình thường, không có chi là đặc biệt. Mà mình cũng cài đặt trung bình phải đi 3 dậm. Khi đi nhiều hơn, khi thì đi ít hơn vì có tập mỗi ngày nội công Hồng Gia và Thái Cực Quyền. Hay bơi mỗi tuần.


Ở trên San Jose, có một cặp vợ chồng gốc Đà Lạt, sáng nào hai vợ chồng đều leo núi. Hôm ghé lại nhà họ ngủ qua đêm, họ rủ leo núi nhưng đồng chí gái thức dậy không nổi vào giờ đó nên đành hẹn khi khác. Về Đà Lạt, lại nhận được tin nhắn rủ đi bộ xung quanh hồ Xuân Hương nhưng cũng quá sớm cho đồng chí gái nên chịu. Đồng chí gái mà thức giấc, không có mình bên cạnh là mệt nên phải ở trong phòng, đọc sách đợi nàng thức giấc. 


Từ ngày mua cái vườn để chia lô bán, mình đi bộ mệt thở mỗi khi vào vườn. Cứ tính đi từ đầu vườn đến cuối vườn là 1 dậm, đi ngược lại là 2 dậm thêm dốc đồi nên mau oải lắm. Nhiều hôm đi đâu cả 9 dậm. Lý do là mỗi khi vào vườn, mình phải đi vòng vòng xem có gì khác lạ như ống nước bị coyote cắn phá, thiên hạ ăn cắp bơ. Thường họ hái xong, bỏ vào trong thùng hay bao gạo để chỗ nào, lấy lá che lại hay để khơi khơi. Lý do nặng quá để khiêng, nên đợi kêu thêm người lại phụ hay có nhiều người hái buổi sáng rồi chiều đi làm về, ghé lại lấy thì mình đem về bán. Hay nhiều khi họ nghe tiếng động thấy mình đến nên bỏ chạy. Vườn rộng 20 acres nên không thể nào làm hàng rào được vì tốn tiền. So với số tiền bị mất bơ thì không đáng. Cho dù có rào đi nữa cũng bị mất trộm. Có vườn bơ gần vườn mình, rào dây kẽm gai đủ trò, thiên hạ cắt dây kẽm gia, de xe bán tải vào rồi hái, rọi đèn pin hái rồi nhiều khi không nhớ để bao tải đựng bơ ở đâu. Quản lý sáng ra đi vòng vòng thấy, đem bán.


Do đó khi đi tuần, thấy ống nước hư, lại phải đi bộ về nhà kho để lấy đồ nghề và vật liệu để sửa chửa. Cứ đi tới đi lui là hết ngày, bù lại thì có sức khoẻ. Nay mình có con ngựa với cái rờ-mọt, kéo đồ nghề đi theo nên cũng khỏe. Con ngựa sắt là chiếc xe ATV mà thiên hạ dùng chạy băng đồi vượt suối. Hái bơ cũng bỏ lên xe rờ-mọt kéo, đỡ phải đi tới đi lui mất thời gian. Mình mua nhà, chủ nhà có hai chiếc này nên mình kêu họ tặng cho mình gây tình cảm hữu nghị.

Con ngựa sắt và cái xe rờ-mọt

Tuần rồi mình có cho thợ đem xe máy cày, làm mấy con đường leo đồi để xe ATV có thể kéo đồ lên trên cao vì trước đây, phải đi bộ, đem đồ nghề lên khá châm nhất là khi hái bơ, vác mấy thùng bơ cả 100 cân đi xuống đồi là hơi mệt. Nay thì cứ cho thùng lên rồi thợ hái xong bỏ trong thùng trên đồi, rồi xe lên cẩu xuống hay mình đi sửa chửa ống nước cũng dễ. Để đày đủ đụn gục, đồ nghề, không phải chạy đi chạy lại kiếm. Được thêm có đường đi bộ dưới bóng mát của 1,200 cây bơ. Có một ông thần nào, về hữu, buồn đời, chạy vào vườn mình, hỏi có cần giúp gì không rồi mỗi tuần anh ta đến phụ giúp. Anh ta tự đi mua mấy các tag có số, rồi đi đóng mỗi số lên mỗi thân cây nên mới biết bao nhiêu cây trong vườn. Khi mua mình có đếm rồi nhưng sau này có trồng thêm. Lâu lâu anh ta đem thức ăn của vợ nấy vào cho mình đem về ăn với đồng chí gái. Chị vợ nấu ăn cực ngon. Muốn ăn bưởi quýt hay bơ thì cứ tự nhiên hái về cho vợ.


Khi xưa, mình chỉ làm cầm chừng, đủ vốn, đợi bán cho developers nhưng nay thằng con đồng ý theo nghề của mình nên bỏ thêm tiền sửa chửa lại và cải tiến cho hợp với kỹ thuật ngày nay. Mình thay lại hệ thống tưới nước dùng ống nước schedule 40 để khỏi bị coyote cắn vì hệ thống drip của Do Thái được chủ trước sử dụng mau bị mục vì nắng. Mình mất thời gian mỗi ngày để sửa chửa. Nay thì khoẻ chỉ có lâu lâu phải thay cái đầu tưới. Bớt tiền bảo hành. Mình cho gắn hệ thống wifi để ở nhà mình có thể dùng ứng dụng tắt mở hệ thống nước nếu thấy các thiết bị đo độ ẩm báo động cây ở khu vực nào cần tưới. Khi mình mua cái vườn thì chủ trước mướn một ông thợ, sáng ông ta đến vườn mở nước tưới khu vực này, đóng khu vực kia nên khá tốn nước. Mình gắn đồng hồ tự động, chia thời khoá biểu, khu vực nào tưới mấy giờ rồi đến khu vực bên cạnh. Mình không cần phải vào vườn mỗi ngày, có thể đi chơi này nọ. Vấn đề là khi trời nắng nóng quá thì cần phải tưới thêm, hay trời mưa, không cần tưới thì mình phải chạy lên vườn. Do đó mình gắn hệ thống wifi để ở nhà ôm vợ mở ứng dụng tưới hay tắt, không mất 2 tiếng đồng hồ chạy lên chạy về.

Hoa bắt đầu nở nên người nuôi ong đem các tổ ong mới đến

Mấy cây bơ thường được chủ trước trồng trên 30 năm nên rất cao. Vấn đề là cây cao thì các chất dinh dưỡng được cây hấp thụ dùng để nuôi thân cây nên trái rất nhỏ nên mình chặt cây thấp C xuống để cây tự mọc mấy nhánh mới ra thấp hơn, cho nhiều trái to hơn trước đây, nên bán có giá hơn. Phải chịu khó không có trái 1 hay 2 năm nên phải chặt từng khu vực, năm nay là năm cuối cùng chặt hết các cây cao nên 2 năm nữa là xem bơ ra hoàn toàn vườn. Là vui vẻ cả nhà.


Cái duyên mua cái vườn giúp em tìm hiểu thêm về trồng trọt và sức khoẻ. Rồi cơ duyên lại đưa đẩy em leo núi. Nếu không leo đồi mỗi ngày tại vườn thì khó mà leo núi Kilimanjaro, Machu Picchu hay mấy chỗ khác. Em đang dự định đi bộ ở Bồ đào Nhà và Tây Ban Nha với thằng con tháng 9 này. Mỗi ngày 25 cây số. Sau vụ bơ bán xong em sẽ bắt đầu tập luyện. Mỗi ngày đi bộ trong vườn, sửa chửa hay cắt nhánh khô, dọn dẹp 10 dậm thì hy vọng trong vòng 3 tháng, hai cha con có đôi chân cứng cỏi để đi bộ trên con đường đến Santiago de Compostella.


Bác sĩ khuyên chúng ta đi bộ mỗi ngày trung bình độ 2 cây số. Để giúp áp huyết, tim mạch lưu thông,… có vườn nên em không cần phải phấn đấu đi bộ gì cả. Phải lết vào vườn vì nếu không thì tốn nước, tốn tiền. Mấy năm đầu hệ thống tưới nước cũ nên cứ bị hư, chảy nước khơi khơi nên cực nên muốn bán. Nay với hệ thống tưới được thay mới nên khỏe đời, giờ chỉ cần chăm sóc cây, toả nhánh khô để có không gian cho nhánh khác ra trái là vui đời nông dân.


Do đó dạo này có mấy bác gửi tin tức cho em đọc nhưng không có thì giờ vì phải hái bơ bán. Em chỉ đọc tin tức làm ra tiền chớ tin tức chống trump hay bênh trump thì chịu. Không có thời gian để đọc. Người ta nói giàu nhờ bạn. Đi chơi về, có anh bạn kêu Short Tesla thì em nghe theo và khi Tesla xuống thì em vui. Gửi cho anh bạn một thùng bơ. Cách đây mấy năm có anh bạn khác kêu mua cổ phiếu một công ty ở Gia-nã-đại, em nghe theo, rồi hai năm sau anh ta gọi còn giữ cổ phiếu này không. Em kêu 2 năm qua chưa xem. Mở ra thì thấy từ khi mua $126, nay lên $1,000  và anh ta kêu bán thế là em bán, tuần sau nó xuống te tua. Do đó em chỉ đọc tin nhắn của bạn bè nếu làm ra tiền còn mấy bác nào thương em, muốn bồi dưỡng thêm trí tuệ nông dân cho em thì em xin gửi tin tức làm ra tiền, đầu óc em không thích đọc dính dáng đến chính trị hay tri thức gì cả. Từ ngày lấy vợ, đồng chí gái đã cài đặt định hướng kinh tế thị trường tỏng não nông dân của em. Có gửi cho em cũng không đọc. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Châu Âu ngày nay và ký ức

Vụ ông Zelensky cãi nhau ở toà Bạch Cung khiến thiên hạ bàn tán đủ trò. Ai cũng là chuyên gia về quân sự, ngoại giao như talleyrand hay Mitternich khi xưa. Mình đọc thêm tài liệu trên mạng ở Âu châu thì thấy có nhiều điều đáng được nêu ra khi tổng thống pháp Macron lên tiếng, rồi liên hiệp Âu châu họp hành xôm tụ, đồng ý chi viện cho Ukraina này nọ. Về nhà hỏi vợ thì thấy không đủ tiền nên chỉ chi viện 2% số tiền dự định. Thế là ngọng. Bác Puchin lại cười thối mũi. Kêu chúng mày mà đánh tao, tao cúp bán dầu khí cho chúng mày thì vợ con chúng mày đề đầu chúng mày ra mà đập.

Tổng thống Zelinsky lại quay lại với bác Trump. Bác Trump lại viện cớ đến xứ tôi ở xa, chả dính dáng gì đến mấy bác, tại sao lại kêu em trả tiền cho mấy bác đánh nhau vì Đại đế Napoleon tuyên bố những không biết có đúng hay không, rằng mọi cuộc chiến tranh ở châu Âu đều là một cuộc nội chiến.

 Ngẫm lại thì đúng với những gì mình được ông Tây bà đầm dạy sử Tây khi xưa vì các triều đình ở Âu châu đều cho con cháu lấy nhau nên vua xứ nào cũng là họ hàng với nhau. Nên khi đánh nhau ở Âu châu như ông Nã phá Luân tuyên bố là nội chiến. Do đó sử gia cho rằng giai đoạn 1914-1945 là một cuộc tự sát dài kéo dài. Châu Âu không bị chinh phục. Nó tự hủy diệt. Những gì nó mất không phải là đất đai, vì các cuộc chiến ở Âu châu khi xưa, dành đất nhau từ các vua chúa họ hàng với nhau. Người Tây phương mất ký ức, sự cao quý và quyền tự định nghĩa, bản tính của họ. Do đó ngày nay Âu châu bị tha hoá bởi các ý thức hệ mới.

Trước năm 1914, châu Âu vẫn mang cấu trúc hữu hình của một trật tự cổ xưa và hữu cơ. Lục địa này không được cai trị bởi những nhà tư tưởng hay quan liêu, mà bởi những nhóm tinh hoa cha truyền con nối, những người hiểu vai trò của họ là người giám hộ di sản. Các quốc vương cai trị bằng quyền thiêng liêng và luật tổ tiên, tính hợp pháp của họ không bắt nguồn từ những điều trừu tượng mà từ dòng dõi, đất đai và huyết thống. Nhà Habsburg, Borghese, Hohenzollern, Romanov và Bourbon không chỉ là những người cai trị; họ là hiện thân của ký ức văn minh của châu Âu. Tòa án của họ ủng hộ một thế giới mà thứ bậc là tự nhiên, nơi nghĩa vụ lấn át ham muốn, và nơi chiến tranh, nếu có xảy ra, thì bị giới hạn bởi phong tục và luật pháp.


Châu Âu khi đó không phải là chiến trường của các hệ thống tư tưởng, mà là một gia đình lớn của các quốc gia, vừa chia rẽ vừa anh em, gắn kết với nhau bởi nguồn gốc chung và các hình thức thừa kế. Đại khái hoàng hậu Marie-Antoinette là con gái của hoàng đế Áo Quốc, lấy con của vua Pháp. Các dân tộc châu Âu—Latin, Đức, Slav—đã được định hình bởi Kitô giáo, tinh thần hiệp sĩ và di sản cổ điển. Các cuộc chiến của họ, mặc dù nhiều, nhưng bị giới hạn bởi trật tự Westphalia: chiến tranh được tiến hành giữa các quốc gia, không phải giữa các dân tộc; hòa bình là điều có thể vì kẻ thù không bao giờ bị đối xử như một tội phạm, mà là một đối thủ có yêu sách về danh dự. Khi xưa, họ trọng danh dự, thà đấu kiếm để lấy lại danh dự còn ngày nay, em chả có gì để mất nên chỉ biết Chán Mớ Đời.


Bên dưới thế giới quý tộc này là sự thống nhất về mặt tinh thần. Khái niệm “noblesse oblige” phản ánh đạo đức chiến binh của thời xưa: quyền lực mang theo nghĩa vụ, và quy tắc chỉ được biện minh khi được thúc đẩy bởi lòng dũng cảm, sự hy sinh và phục vụ cho một điều gì đó cao cả hơn bản thân. Đây chính là bản chất của nền văn minh châu Âu. Ở Phổ, nó thể hiện dưới dạng kỷ luật; ở Áo, dưới dạng sự gắn kết đế quốc; ở Nga, dưới dạng chính thống thần bí; ở Pháp, dưới dạng chủ nghĩa cộng hòa hào hiệp với tàn dư quân chủ; ở Anh, dưới dạng nghĩa vụ khắc kỷ. Đây không phải là những mâu thuẫn, mà là những biến thể của một chủ đề duy nhất.


Trật tự này không hoàn hảo, nhưng nó vẫn tồn tại. Nó bảo tồn thứ hạng và ý nghĩa trong một thế giới trước khi đại chúng hóa. Nó chống lại làn sóng dân chủ, kỹ trị và thương mại đang dâng cao. Nó chứa đựng bên trong nó những tàn tích của sự thiêng liêng, của ngai vàng và bàn thờ, của người lính và nhà hiền triết. Nội chiến châu Âu, khi nó xảy ra, sẽ không chỉ phá hủy các quốc gia hay biên giới. Nó sẽ cắt đứt châu Âu khỏi ký ức của nó, phá vỡ tầng lớp tinh hoa hữu cơ của châu Âu và lập nên một chế độ mà đồng tiền thống trị, nơi lịch sử là tội ác và nơi bản thân giới quý tộc bị nghi ngờ.


Đi viếng Trung-Á và vùng Caucase thì thấy họ trùng tu lại các nhà thờ và giáo đường hồi giáo đã bị phá hay làm chỗ nuôi bò dê,… ngày nay các nhà thờ ở Âu châu, không có người đi, được biến thành các khu thượng mại, vũ trường. Mặc dù tôn giáo không bị cấm đoán.


Đại chiến không phải do ý thức hệ gây ra, mà do sự điên rồ của anh em. Một lục địa của những người anh em họ, gắn bó với nhau bởi huyết thống và lịch sử, đã lao vào một cuộc xung đột chưa từng có. Những gì bắt đầu là một cuộc tranh chấp Balkan đã di căn thành một cuộc chiến tranh toàn diện sẽ san bằng ngai vàng, làm chảy máu các tầng lớp quý tộc và giải phóng những con quỷ mà không một chính khách nào có thể nhớ lại. Các quốc gia châu Âu đã huy động quân đội vào năm 1914 với niềm tin vào một cuộc chiến tranh danh dự ngắn ngủi. Những gì họ nhận được là cuộc tàn sát cơ giới, chiến tranh chiến hào và sự tan rã của mọi sự chắc chắn dẫn đường. Thấy chiếu cảnh các Binh sĩ bị hơi ngạt giết như mơ thấy chiến tranh huynh đệ tàn khốc. Đó là chưa kể đến đế chế Ottoman cũng nằm bên cạnh, cũng bị tiêu diệt luôn trong trận hòng thủy này.


Đây là vết thương tự gây đầu tiên của phương Tây. Chưa bao giờ các quốc gia da trắng lại tập hợp sức mạnh công nghiệp của mình một cách tàn nhẫn như vậy để chống lại nhau. Những thành quả của thiên tài phương Tây—hóa học, đường sắt, pháo binh, điện báo—đã hướng vào bên trong. Châu Âu, mẹ của nền văn minh, đã tự xé nát mình bằng những móng vuốt bằng thép và lửa. Các chiến hào ở Somme và Verdun không chỉ là nghĩa địa của con người; chúng là nghĩa địa của ý nghĩa. Bộ luật quý tộc, đạo đức kiềm chế, lòng dũng cảm và sự cân xứng, đã bị nhấn chìm trong bùn và khí gas. Khi viếng thăm Trieste, mình có chạy ngang nhưng không có thời gian để ghé viếng cái nghĩa địa trên 600,000 người của thế chiến thứ 1. Mình có kể mấy anh lính Ý Đại Lợi ngu cứ tấn công để mấy anh lính Áo-Hung ria chết như rạ.


Khi chiến tranh kết thúc, trật tự cũ đã nằm trong đống đổ nát. Nhà Habsburg, Hohenzollern và Romanov đã bị cuốn trôi, vương miện của họ bị chôn vùi dưới những đam mê dân tộc chủ nghĩa và giáo điều tự do. Cách mạng nổ ra ở Nga, tình trạng hỗn loạn lan rộng khắp Trung Âu, và ngay cả trong phe chiến thắng, Anh và Pháp, cái giá phải trả quá lớn đến nỗi chiến thắng trở nên không thể phân biệt được với thất bại. Hoa Kỳ, không bị ảnh hưởng và đang lên ngôi, nổi lên không phải như một người anh em mà là một chủ nợ, mang chủ nghĩa tự do cứu thế nhầm lẫn thương mại với hòa bình và dân chủ với văn minh. Sự suy sụp của Âu châu trên đống tro tàn sau cuộc đại chiến, chỉ còn biết mơ về Giấc Mơ Hoa Kỳ.


Hiệp ước Versailles đã không khôi phục lại trật tự. Nó tôn thờ sự trả thù và làm mất ổn định những gì còn lại của sự cân bằng lục địa. Khi nghiền nát kẻ bại trận, nó đã đầu độc tương lai. Chiến tranh không giải quyết được bất cứ điều gì. Nó chỉ đặt nền tảng cho một sự tính toán khủng khiếp hơn. Điều khiến nó trở thành một cuộc nội chiến theo nghĩa sâu sắc nhất không chỉ là tổ tiên chung của những người tham gia, mà còn là những hàm ý về mặt tinh thần của cuộc xung đột. Châu Âu đã tự quay lưng lại với chính mình, làm kiệt quệ những người đàn ông giỏi nhất của mình, và mở ra cánh cổng cho một giai cấp thống trị mới không bị ràng buộc bởi danh dự, lịch sử hay quốc gia.


Những gì đã mất vào năm 1918 không chỉ là lãnh thổ hay triều đại, mà là quyền lực trong ký ức của Châu Âu. Một thế giới từng biết sự khác biệt giữa chế độ cai trị và chế độ chuyên chế, giữa trật tự và hiệu quả, giờ đây loạng choạng tiến tới một tương lai được cai trị bởi hệ tư tưởng, quần chúng và máy móc. Cái gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất" không phải là sự kết thúc của lịch sử mà là sự khởi đầu của một cuộc suy thoái dài, một cuộc tự tử thực sự bắt đầu của nền văn mình âu châu.


Cuộc chiến năm 1939 không phải là phần tiếp theo mà là sự tiếp diễn. Châu Âu, vốn đã bị tàn phá và sỉ nhục, lại bị đẩy vào cuộc chiến thứ hai mà không còn đủ sức để tồn tại. Các hệ tư tưởng trỗi dậy từ đống tro tàn năm 1918 — Chủ nghĩa cộng sản ở phương Đông, Chủ nghĩa tự do ở phương Tây và Chủ nghĩa xã hội quốc gia ở Đức — không phải là những sự lệch lạc mà là biểu hiện của một châu Âu bị xé toạc khỏi cội nguồn, tìm kiếm sự cứu rỗi ở những vị thần mới. Sự hòa hợp cũ của các dân tộc đã bị phá vỡ. Cuộc đấu tranh anh em năm 1914 đã trở thành cuộc chiến của toàn bộ.


Trong giai đoạn thứ hai của cuộc nội chiến này, phương Tây mất mát nhiều hơn là con người và thành phố. Nó đã mất đi linh hồn của mình. Cuộc đấu tranh không còn là giữa các quốc gia đối địch của một nền văn minh chung mà là giữa những viễn cảnh hủy diệt lẫn nhau về con người, lịch sử và quyền lực. Cuộc chiến đã mang đến sự đảo ngược hoàn toàn hệ thống phân cấp của châu Âu. Các chế độ quân chủ đã sụp đổ trong giai đoạn đầu tiên; giờ đây, tàn dư quý tộc của trật tự cũ của châu Âu bị coi là phản động, tội phạm hoặc lỗi thời. Đội tiên phong quân sự của linh hồn cũ của châu Âu, những người theo chủ nghĩa dân tộc sẵn sàng chống lại làn sóng toàn cầu nhất, đã bị tiêu diệt trên chiến trường, bị treo cổ tại Nuremberg hoặc bị lưu đày trong im lặng.


Dưới ngọn cờ dân chủ và chống phát xít, những người chiến thắng đã tàn phá những gì còn lại của nền độc lập châu Âu. Hồng quân đã trải rộng trên một nửa lục địa, thiết lập các chế độ chư hầu cai trị bằng khủng bố và dựa vào sự đổ nát của truyền thống. Ở phương Tây, Hoa Kỳ áp đặt hình thức chiếm đóng của riêng mình, nhẹ nhàng hơn, tinh tế hơn nhưng không kém phần thực tế. Tiền của Mỹ đã xây dựng lại đống đổ nát, nhưng cái giá phải trả là tinh thần: giáo dục lại, giải trừ quân bị về mặt đạo đức và một vị trí cố định trong đế chế tiêu dùng toàn cầu. Ở cả phương Đông và phương Tây, kết quả đều giống nhau. Châu Âu sẽ không bao giờ còn nắm quyền kiểm soát vận mệnh của chính mình nữa. Bao nhiêu thuộc địa cũ đều bị bắt trao trả lại cho các nước nhược tiểu. Phía đông thì có khối Varsovie do Nga nắm đầu, phía Tây thì có khối NATO do anh Mỹ nắm đầu. Không có anh Tây bà đầm nào lãnh đạo cả.


Cuộc chiến tranh thứ hai này đánh dấu sự rạn nứt cuối cùng giữa châu Âu và ký ức quý tộc của nó. Bản thân khái niệm về một quốc gia có chủ quyền bắt nguồn từ văn hóa và nghĩa vụ thiêng liêng được coi là nguyên nhân gây ra thảm họa. Thay vào đó, một chế độ chống châu Âu được định nghĩa bởi các quyền phổ quát, sự suy thoái được quản lý và nỗi sợ hãi bệnh hoạn về sức mạnh đã trỗi dậy. Những người chiến thắng đã viết lại ý nghĩa của cuộc chiến. Nó không còn là một thảm kịch giết anh em mà là một vở kịch đạo đức. Những người chết bị lãng quên trừ khi họ phục vụ cho câu chuyện mới. Công lý của những người chiến thắng đã được tôn sùng; những kẻ bại trận đã bị quỷ ám. Toàn bộ các quốc gia đã được dạy phải ghét quá khứ của chính họ. Đưa đến chủ nghĩa thức tĩnh.


Vụ tự tử thứ hai của phương Tây đã hoàn thành việc phá hủy hệ thống miễn dịch văn minh của nó. Giới tinh hoa văn hóa của nó, từng được thúc đẩy bởi lịch sử và đức tin, đã bị thay thế bởi các nhà quản lý, kế toán và nhà tư tưởng. Giáo hội, vốn từng là trung gian giữa kiếm và quyền trượng, giờ đây là một tổ chức phi chính phủ mặc áo choàng. Gia đình đã được định nghĩa lại, biên giới được mở ra, trường học bị đầu độc và nghệ thuật bị vô trùng. Khi chiến binh, linh mục và nhà thơ bị loại bỏ, không còn gì để bảo vệ tâm hồn của châu Âu. Khi thủ tướng Anh quốc nói sẽ gửi lính sang Ukraina khiến thiên hạ cười, lính của Đức quốc tập trận mà không có súng, phải dùng chổi thế. Diễn văn của phó tổng thống Vance tại Âu châu như đã thức tĩnh người Âu châu. Không có quân đội Mỹ thì họ sẽ bị tấn công vì bao nhiêu năm nay, họ bỏ vụ quân dịch. Dọa sinh viên năm thứ 3 mình có đi quân dịch, khám sức khoẻ thì ngày nay, pháp đã bỏ chế độ quân dịch 1 năm nên nếu có đánh nhau thì lính ở đâu ra. Không lẻ kêu mấy bà đầm chở trần phanh ngực ra để lính nga đầu hàng. Mình xem phim đức, kể khi lính nga chiếm đóng Đức quốc thì ngày đêm lính nga hiếp dâm phụ nữ đức như hải tặc chận ghe vượt biên.


Những gì bắt đầu ở Sarajevo đã kết thúc ở Dresden. Ánh sáng không chỉ tắt; chúng đã được thay thế bằng ảo ảnh huỳnh quang về sự tiến bộ. Cái gọi là "Chiến tranh thế giới thứ hai" đã không khôi phục lại hòa bình. Nó đem đến sự khuất phục. Và thứ phải khuất phục không phải là một quốc gia, mà là một nền văn minh.


Những gì xảy ra sau năm 1945 không phải là hòa bình mà là sự chiếm đóng. Đệ tam Đế chế đã sụp đổ, nhưng bản thân châu Âu cũng vậy. Những gì xuất hiện là một lục địa bị khuất phục bởi chủ nghĩa tự do tiêu dùng của Mỹ và chủ nghĩa cộng sản quản lý của Liên Xô, cả hai đều xa lạ với truyền thống hữu cơ của nó. Ở phương Đông, các ủy viên đỏ đã xóa bỏ tổ tiên, cướp bóc những thứ thiêng liêng và xây dựng một sự nhại lại màu xám, vô hồn về cộng đồng loài người. Ở phương Tây, Coca-Cola và đô la thay thế cho kiếm và thánh giá. Cả hai hệ thống đều đào tạo thần dân của họ để quên đi. Cuộc chiến cuối cùng, cuộc chiến chống lại ký ức, đã bắt đầu.


Nỗi kinh hoàng thực sự của thời kỳ hậu chiến không phải là sự tàn phá về vật chất, mà là sự triệt sản về mặt tâm lý. Đức, trung tâm văn hóa và triết học của lục địa, đã bị nghiền nát với độ chính xác mang tính nghi lễ. Các thành phố của nó bị ném bom, đàn ông bị tàn sát, phụ nữ bị làm nhục. Quá khứ của nó bị coi là tội phạm, tương lai của nó bị phủ nhận. Và khi Đức ra đi, thì toàn bộ châu Âu cũng vậy. Những gì từng là Kitô giáo, sau đó là nền văn minh, giờ đây được định nghĩa lại thành một bảo tàng ngoài trời đầy tội lỗi, một bài giảng sống động chống lại chính nó.


Có lần có cô gái đức, con người quen sang ở nhà mình học anh văn hè. Coo ta kể là ở Hoa Kỳ điều cô ta ngạc nhiên là đi đâu cũng thấy chào quốc kỳ, treo cờ trong khi ở Đức quốc ngày nay thì không. Cô ta ước gì xứ cô ta cũng được dào tạo như tại Hoa Kỳ.


Những người chiến thắng đã thiết lập một trật tự đạo đức mới, nơi mà việc ghi nhớ là phản quốc. Trường học dạy sự tự khinh miệt. Phương tiện truyền thông ca ngợi sự đảo ngược. Luật pháp cấm phòng thủ. Lịch sử được viết lại không phải để hiểu mà là để lên án. Lòng kiêu hãnh trở thành bệnh lý, lòng trung thành trở thành lòng căm thù, sức mạnh trở thành chủ nghĩa phát xít. Người châu Âu không còn coi mình là người thừa kế của Pericles, Charlemagne hay Dante mà là kẻ gây ra tội ác cho thế giới. Những gì từng là ánh sáng của thế giới đã phải bò trước bàn thờ của kẻ thù.


Điều này không phải là ngẫu nhiên. Đó là kết quả tất yếu của hai cuộc chiến tranh thế giới mà mục tiêu không chỉ là đánh bại các quốc gia mà còn là xóa bỏ bản chất quý tộc của châu Âu. Trật tự tổ tiên không thể được phép quay trở lại. Một dân tộc có khả năng ghi nhớ họ là ai, gắn bó với truyền thống và địa điểm, sẽ gây ra mối đe dọa đối với trật tự toàn cầu về tài chính, công nghệ và kiểm soát quản lý. Để ngăn chặn sự phục sinh, châu Âu đã phải bị cắt bỏ thùy não về mặt đạo đức, tràn ngập những đám đông nước ngoài và bị mê hoặc bởi đồ chơi.


Tuy nhiên, cuộc nội chiến chưa bao giờ thực sự kết thúc. Nó đã thay đổi hình thức. Ngày nay, nó hoành hành trên đường phố Paris, những tàn tích của Detroit, khu ổ chuột Malmö và các cơ quan hành chính của Brussels. Cuộc xâm lược không còn đến từ phía đông nữa mà từ bên trong. Quân đội không mặc quân phục. Vũ khí không phải là xe tăng mà là truyền hình, chính sách nhập cư và thuốc an thần. Giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến là về mặt tinh thần và nhân khẩu học, một cuộc chiến tranh nhằm vào những tàn dư cuối cùng của ý chí sống của châu Âu.

Nhưng ngay cả bây giờ, ký ức vẫn còn chập chờn. Có những người nhớ về trật tự cũ không phải như một câu chuyện cổ tích mà là một định mệnh. Họ thu thập những mảnh vỡ của nó, thì thầm tên của nó, tôn vinh những anh hùng của nó. Trong huyết quản của họ chảy dòng máu của những người đàn ông đã từng xông vào cổng thiên đường và xây dựng những nhà thờ lớn bằng đá và lòng dũng cảm. Nếu phương Tây được tái sinh, thì đó sẽ không phải thông qua chính sách hay phản đối, mà thông qua một thế hệ tinh hoa mới được rèn luyện trong đau khổ, im lặng và tưởng nhớ. Nội chiến vẫn chưa kết thúc vì linh hồn của châu Âu vẫn chưa chết. Hy vọng nhưng rất khó khi họ không sinh con đẻ cái và di dân thì tha hồ đẻ nên một nagyf nào đó họ sẽ trở thành thiểu số tỏng đất nước của họ. Biết đâu, vì trăm năm sau, học sinh trung học sẽ học về lịch sử, cho biết vào những năm của thế kỷ 20, có một nhóm người như khi xưa Vikings, đã từng sống tại Âu châu. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Hung Gia Lợi tìm lại dấu chân xưa của đế chế


Trong mấy nước Đông Âu mà mình dịp đi viếng thì có nước Hung Gia Lợi thấy cách xây dựng lại và phát triển có chiều hướng khác với các nước khác của Liên Hiệp Âu Châu. Đặc biệt là họ có xây một viện bảo tàng về tội ác của Cộng Sản và Phát Xít, được gọi là Căn Nhà Khủng Bố với lối kiến trúc khá lạ nhưng hợp với đề tài của viện bảo tàng. 

Nếu đến Budapest sẽ thấy đường xá tương tự như ở Paris với loại kiến trúc tương tự nên nhớ Hùng Gia Lợi từng là một đế chế với Áo Quốc đến khi bị Anh quốc và Pháp quốc đánh banh ta lông ở đệ nhất thế chiến sau thế chiến thứ 2 lại bị Liên Sô còng đầu. 


Ngày nay dân số tại các nước phát triển bị giảm trầm trọng, người dân không chịu đẻ, họ giàu sang muốn trải nghiệm cuộc sống thay vì sống như bố mẹ hay ông bà của họ khi xưa, sinh con đẻ cái. Nay chỉ cần nuôi con chó hay con mèo thủ thỉ là vui. Một hôm bổng giật mình, tự hỏi mai mốt về già ai sẽ nuôi mình  thế là họ đột phá tư duy, cho bọn dân ở các xứ nghèo đến ở, lao động chăm sóc mình. Xong om


Trước tình trạng giảm dân số, tương lai không có người lao động để nuôi người về hưu trí nên có nhiều quốc gia cho nhập di dân để thay thế làn sóng lao động về hưu. 


Mặc dù thuộc liên hiệp Châu Âu nhưng xứ này hay chống đối với các dự luật của Châu Âu không chịu bị áp lực gần như đồng hóa, làm mất đi những căn bản của xứ họ. Mò tìm thêm tin tức thì thấy họ làm nhiều điều về mặt xã hội khác xa với các nước như Pháp, Đức hay Anh quốc. 


Khi mình đọc cuốn Killing Fields của ông Dith Pran thì không hiểu nhiều nhưng đến khi xem cuốn phim thì mới thất kinh. Mới hiểu con của mình là do nhà nước và Đảng giáo dục, mình chỉ là máy đẻ thôi. Chúng ta không còn tiếng nói hay đóng vai trò vào sự hướng dẫn con cái. Ngày nay, hai vợ chồng cùng đi làm để trả nợ nên con cái mặc cho nhà trường đúng hơn là chính phủ giáo dục để rồi một ngày đẹp trời, nhìn lại con mình chửi mình là phản động.

Ai cũng đồng ý gia đình là căn bản cho một xã hội mà ngày nay tại Hoa Kỳ, ly dị lên đến 51% cho các cuộc hôn nhân đầu tiên. Con cái tuần này sống với bố, tuần sau xách gói qua nhà mẹ ngủ rồi lênh bênh như vậy đến cuộc hôn nhân thứ nhì, rồi thứ ba. Ở trường thầy cô dạy đổi giới tính thì đổi cha mẹ không có quyền can thiệp cũng như phá thai này nọ.


Sau khi dành độc lập, Hung Gia Lợi phát triển con đường xứ họ khác với các thành viên của Liên Hiệp Âu Châu. Họ tạo dựng lại gia đình, làm nền móng cho xã hội mới vì họ đã trải qua 50 năm dưới chế độ Cộng Sản. Họ không muốn đi theo con đường của các nước trong liên hiệp Âu châu như Pháp quốc, Anh quốc, Ý Đại Lợi,… bị tiếng sáo Trương Chi, chủ nghĩa xã hội mê hoặc. Họ đã từng làm Mỵ Nương đã gặp Trương Chi suốt 50 năm trời.

Giữ gìn truyền thống không phải là thờ các tro tàn mà để giữ gìn lửa (Gustave Malher)

Gia đình là chính. Họ có chương trình giúp đỡ người dân như mẹ hai con sẽ không bị đóng thuế suốt đời. Mẹ hai con được xem là người mẹ anh hùng, miễn thuế. Còn mẹ một con thì sẽ được miễn thuế dưới tuổi 30.

Có tổ chức giúp đỡ người mẹ ở nhà không đi làm hay cần việc làm lại sau khi sinh con. Còn nếu ở nhà thì xem như không phải đóng thuế. Năm 2023 thì dân số có gia tăng nhưng sau đó thì lại xuống và người ta tiên đoán đến năm 2050, dân số sẽ giảm 9.9%. Ai sẽ nuôi dân về hưu. Ý Đại Lợi cũng theo chính sách này là không muốn di dân nhưng không chịu để thì năm 2050 cũng oải luôn.

https://en.wikipedia.org/wiki/Family_policy_in_Hungary#:~:text=Family%20policy%20in%20Hungary%20refers,subsidize%20childcare%20for%20new%20parents.


Nhà cửa giúp các cặp vợ chồng mới cưới như tiền lời thấp, nhất là có con trong khi các nước lân cận có chương trình giúp đỡ người di dân lậu để nâng cao dân số. Bù lại Hung Gia Lợi gia tăng dân số những cũng còn thấp, độ 10 triệu người.

Các nước Âu châu khác đập phá các dinh thự cổ để xây các toà nhà vô hồn với kiến trúc Tân đại. Trong khi đó Hung Gia Lợi trùng tu lại các dinh thự , toà nhà cổ xưa thậm chí xây lại nhà của ngự lâm quân bị đập phá dưới thời cộng sản, đã được xây lại. Mình có đến viếng chỗ này, thấy họ làm lại nhưng chất lượng chưa đạt lắm có lẻ thiếu tiền. Thấy trên toà lâu đài, họ cho mấy người đi ngựa, bận áo quần thời xưa này nọ.

Họ cho trùng tu lại các nhà thờ, hay xây thêm. Có lẻ sau 50 năm dưới chế độ cộng sản, con người bị tha hoá nên tìm đến sự bình yên với tôn giáo. Mình thấy có nhiều giáo dân đi lễ hơn là tại Ý Đại Lợi khi vào các nhà thờ viếng kiến trúc. Tại Âu châu như Hoà lan, mình thấy họ biến nhà thờ thành trung tâm thương mại, bán sách báo, thịt rượu hay quán cà phê,… nghe nói có chỗ xây làm hộp đêm, nhảy đầm này nọ vì nhà thờ không có tiền để trả tiền bảo quản. Họ cho biết từ năm 2010 đến nay có đến 3,000 nhà thờ đã được xây cất hay trùng tu. Ngoài ra họ còn cộng tác với nước Lebanon để trùng tu trên 100 nhà thờ tại đây. Cuộc đời lạ. Ai đã từng sống dưới chế độ cộng sản thì muốn tìm về tôn giáo còn mấy ai chưa bao giờ biết mùi cộng sản thì lại bỏ chúa chạy theo bác mác và bác LÊNIN.

Về kiến trúc, mình có đi xem mấy dinh tự hay tượng đài dưới thời cộng sản, được gọi là trường phái Brutalist. Phải công nhận nhiều cái rất quái nhưng có vài cái có chút gì sáng tạo. Nay họ cho trùng tu lại, thấy dễ thương hơn. Họ đầu tư vào giáo dục như dạy tiếng la-tinh, sử học, triết học và văn chương. Mình về Việt Nam, sau 50  năm thì ngạc nhiên vì ở miền Bắc, giới trẻ sinh sau 75, lên xe nghe họ mở nhạc Việt Nam Cộng Hoà, Bolero,… hỏi thì họ trả lời , nghe hay, ngôn từ rất đẹp. Hỏi họ về nhạc đỏ thì cứ kêu thôi thôi chán lắm.

Họ cũng quảng bá về nghệ thuật, mình và đồng chí gái có đi xem opera ở đây. May mua được vé, tuy hạng cá kèo nhưng mình nghe nói nhà hát opera này rất đẹp thời sinh viên nên cố mau vé đi xem để xem bên trong ra sao.


Một nền văn minh mà quên quá khứ của nó sẽ không có tương lai. Họ tìm lại các phong tục cổ truyền để truyền bá và cách Tân. Hai vợ chồng có đi xem các buổi văn hoá múa và hát cổ truyền như quan họ Bắc ninh,…để gìn giữ căn cước của nước này, một thời la một đế chế. Nên họ không muốn di dân lậu.

Liên hiệp Âu châu đòi hỏi các thành viên phải tuân theo các đề mục, luật lệ đã được số đông biểu quyết nhưng Hung Gia lợi không tuân theo nếu ngược lại chiều hướng phát triển của xứ sở họ. Năm 2024, Liên Hiệp Âu CHâu phạt xứ này 200 triệu Euro.

2 tuần trước liên hiệp Âu châu ký ủng hộ Ukraina đánh cho đến tên lính cuối cùng thì chỉ có Hung Gia lợi là không ký. Nghe nói nay Pháp, Đức này nọ cũng chỉ muốn chi sơ sơ không như đã hô hào vì không có tiền.


Tuy là thành viên của Liên Hiệp Âu châu nhưng xứ này vẫn liên kết hiệp thương với Trung Cộng, Thổ Nhĩ Kỳ. Cho nên cái gì có lợi cho xứ họ thì họ làm. Nhưng vấn đề là khi giàu có, ăn uống đầy đủ thì lại sinh để ít. Vì ăn uống đầy đủ nên no không muốn làm gì cả. Mình đọc đâu đó người nghèo thì dễ thụ thai hơn vì có những yếu tố sinh lý gì đó mình không rõ lắm. Có bà bác sĩ phụ khoa ở xứ Kenya thì phải, du học bên Anh quốc về kể là muốn có con nhưng không được sau bà ta nghe ai giải thích là ăn uống nhiều quá sẽ khó tạo hormone gì đó. Bà ta cho biết là bệnh nhân của bà ta muốn thụ thai không được thì tình cờ một bệnh nhân nghe ai kêu vô thất 1 tuần lễ sao đó thì dính bầu. Bà ta đột phá tư duy nhịn đói xuống 10 ký thì một ngày đẹp trời dính bầu. Sau này, bà ta muốn có con thêm nhưng không được, phải nhịn đói thì lại dính bầu. Sau đó bà ta có viết về vụ này với những từ ngữ y khoa nên mình ngọng. Đại khái chỉ biết nghèo thì khả năng đẻ nhiều còn giàu thì khó đẻ.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Con Gái nhà Vua (les filles du roi)

 Con gái của vua, les filles du Roi


Dạo này, lùng bùng vụ ông trump trêu chọc cựu thủ tướng Gia-nã-đại, ông Trudeau, cho rằng Gia-nã-đại là tiểu bang 51 của Hoa Kỳ vì hàng năm, cán cân Mậu dịch hai nước lên đến rất nhiều so với mấy tiểu bang của Hoa Kỳ. Thiên hạ chửi bới đủ trò nhất là mấy ông Tây bà đầm khiến mình buồn cười nhớ đến thời xưa, khi nước pháp cho người đến vùng Québec để chiếm đóng, gọi là France Nouvelle (Tân Pháp quốc) cũng như ở vùng Louisiana territory, thuộc Hoa Kỳ ngày nay để rồi đại đế Nã Phá Luân, buồn đời, bán đất hết, còn chút xíu vùng Québec, sợ mấy ông Anh quốc chiếm đóng luôn nên xúi dục mấy ông Mỹ nông dân nổi dậy chống lại của Anh quốc. Do đó ngày nay Québec thuộc Gia-nã-đại nhưng lại nói tiếng Tây. Mà tiếng Tây ở xứ này rất là khó nghe. Mình nhớ lần đầu xem phim Gia-nã-đại nói tiếng Tây là ngọng quay qua hỏi nhỏ cô bạn đầm, hỏi mày có hiểu không, cô ta cũng đơ ra. Sau này mình có viếng Gia-nã-đại, có đến vùng Québec thì thất kinh. Chắc phải ở lâu mới quen được.

Vấn nạn khi các ông Tây nghèo, được chính phủ dụ sang Gia-nã-đại ngày nay để sinh sống, săn thú, gửi các da thú về bán này nọ. Mà người Việt chúng ta sau 75 chạy giặc ra hải ngoại, cũng lâm vào trường hợp này. Đó là tình trạng trai thừa gái thiếu. Thời đó đi kiếm người yêu hay vợ là khổ cho các đấng nam nhi như mình. Đi dự sinh Nhật, party này nọ là vị chi tỷ lệ 10 thằng con trai với một cô mít. Cô nào dù có xấu như Thị Nở, cũng có một đám thanh niên bu vào như ruồi. Còn Chí Phèo như mình thì khỏi mơ tưởng Thị Nở. Đánh nhau dành gái là chuyện cơm bữa. Dạo đó có câu nói bất thành văn của mấy cô chưa chồng: “phi bác sĩ bất thành phu phụ”. Nông dân như mình thì chỉ có nước ở giá.


Không biết, chính phủ Mỹ có nhận ra vấn nạn này hay không, mà họ thương lượng với Hà Nội, cho mấy ông cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, ở tù  trên 3 năm được di dân qua Mỹ với cả gia đình theo chương trình H.O. May quá thời đó không có ông Trump làm tổng thống. Nhờ mấy trăm ngàn gia đình này, khiến thị trường gái Việt ở Hoa Kỳ bớt khan hiếm, ngày nay thì dư. Mấy ông tỵ nạn mới có cơ hội lập gia đình nên bề gia thất. Hoan hô H.O.


Tình trạng khan hiếm phụ nữ cho người di dân lậu ngày nay vẫn còn, còn khi xưa nhất là mấy ông Tây thích ăn ngon, cơm phải có phô-mát bú xua la mua. Thời đó chưa có chương trình DEI, nên chưa có vụ chuyển giới tính để ông Tây lấy bà đầm chuyển giới. Họ lên tiếng đến tai vua Louis 14, roi du soleil. Ông bộ trưởng Jean-Baptiste Colbert mà ngày xưa học sử của Tây, ông giáo Tây làm mình chới với vì cứ lộn với ông Richelieu rồi Colbert đủ trò. Ông Colbert này, uống rượu ăn phô-mát bổng đột phá tư duy, kêu mấy cô gái ế chồng, nghèo mồ côi, khó kiếm chồng, sao không cho họ qua mấy vùng xứ lạnh này, một mặt gả chồng, một mặt sản xuất thêm Tây con ở vùng Québec. Phải chi thời khan hiếm gái việt tại thị trường Hoa Kỳ, Hà Nội học nghề của ông Colbert, gửi mấy cô mấy bà goá, có chồng liệt sĩ sang Hoa Kỳ, gả cho mấy người tỵ nạn, là thu phục hết đám phản động ngay. Khỏi phải trả tiền lương liệt sĩ này nọ mà kéo về Việt Nam.

Tranh vẽ lúc các cô gái được bộ trưởng Colbert tuyển mộ đưa sang Québec


Vào năm 1663, Pháp bắt đầu một chương trình dưới thời Vua Louis XIV để gửi khoảng trên dưới 800 phụ nữ, được gọi là Filles du Roi (Con Gái của Nhà Vua), chắc là gái nuôi nên không gọi công chúa (princesse) đến Tân Pháp (ngày nay là Quebec) từ năm 1663 đến 1673. Hình như bà đầm nào ở Québec, lo đóng tiếp mấy cô gái này, đặt tên như vậy. Đây không phải là một sự kiện duy nhất trong năm 1663 mà là một nỗ lực kéo dài một thập kỷ nhằm giải quyết sự mất cân bằng giới tính nghiêm trọng trong thuộc địa và thúc đẩy dân số của nó. 


Đến năm 1663, Tân Pháp có dân số khoảng 2.500 đến 3.200 người định cư, chủ yếu là nam giới—binh lính, thương nhân buôn lông thú và linh mục. Tỷ lệ nam giới có thể kết hôn so với phụ nữ cao tới 14:1, và các thuộc địa Anh ở phía nam vượt trội hơn người Pháp với tỷ lệ dân số tổng cộng là 18:1. Để bảo đảm tương lai của thuộc địa và cạnh tranh với sự mở rộng của Anh, Bộ trưởng của vua Louis XIV, Jean-Baptiste Colbert, và Quan chức Tân Pháp, Jean Talon, đã lập kế hoạch khuyến khích định cư và hình thành gia đình. Các Filles du Roi được tuyển mộ để kết hôn với nam giới định cư, lập gia đình và tăng tỷ lệ sinh con. Kiểu ngày nay, mấy cô ở Việt Nam muốn lấy chồng Việt kiều.


Những người phụ nữ, với số lượng khoảng 770 đến 850, hầu hết là độc thân, nghèo khó hoặc mồ côi, độ tuổi từ 12 đến 40, dù phần lớn từ 16 đến 25. Nhiều người đến từ các khu vực đô thị như Paris, Rouen, hoặc La Rochelle, trong khi những người khác từ vùng nông thôn. Thật ra gái ở gần các hải cảng thường hay bị giá chồng hay có người yêu nhưng họ đi tàu ra biển nhiều khi không trở lại. Nên dễ tuyển hơn chớ đâu ai đi về nông thôn khác mà hỏi. Họ không phải là gái mại dâm, hộ lý như một tin đồn dai dẳng cho rằng, mỗi người phải cung cấp giấy chứng nhận về phẩm chất đạo đức tốt từ linh mục hoặc quan tòa. Nhà vua tài trợ chuyến đi của họ, cung cấp vé tàu, của hồi môn (quần áo và đồ gia dụng), và thường là một khoản hồi môn từ 50 đến 100 livres từ ngân khố hoàng gia.


Những người phụ nữ khởi hành từ các cảng như Dieppe hoặc La Rochelle trên những con tàu mất khoảng hai đến ba tháng để đến Thành phố Quebec. Chuyến đi đầy nguy hiểm—bệnh tật như sốt hoặc kiết lỵ rất phổ biến, và ước tính ít nhất 60 người đã chết trên đường. Nhóm đầu tiên gồm 36 người đến vào ngày 22 tháng 9 năm 1663. Các con tàu thường dừng ở Thành phố Quebec, sau đó một số tiếp tục đến Trois-Rivières và Montreal, cho phép người định cư gặp những người mới đến.

Tranh vẽ các cô gái lên bờ được Tây thiếu gái chào đón

Khi đến nơi, các Filles du Roi được ở cùng các gia đình đáng kính hoặc trong các tu viện do các nữ tu Ursuline điều hành, chẳng hạn như những nơi do Marguerite Bourgeoys dẫn dắt (người sau này đặt ra thuật ngữ Filles du Roi). Không giống như nhiều phụ nữ thời đó, họ có quyền tự do chọn chồng. Họ tham gia các cuộc gặp gỡ “bạn muốn hẹn hò” được giám sát—đôi khi được mô tả như một hình thức hẹn hò nhanh—do Talon và các nhân vật tôn giáo giám sát. Hầu hết kết hôn nhanh chóng, thường trong vòng vài tuần hoặc vài tháng, mặc dù một số mất đến hai hoặc ba năm để tìm được người phù hợp. Trong số khoảng 835 cuộc hôn nhân của người nhập cư ở Tân Pháp trong giai đoạn này, 774 cuộc có sự tham gia của một Fille du Roi. Hợp đồng hôn nhân được ký trước công chứng viên, mang lại các bảo vệ pháp lý như quyền sở hữu chung tài sản và tùy chọn hủy bỏ nếu cuộc hôn nhân không phù hợp. Vụ này khác với ở thuộc địa Anh quốc, mấy phụ nữ đến Hoa Kỳ là cứ lấy nhau để sống chớ chả có lựa chọn gì cả.

Kết quả

  • Tăng trưởng dân số: Chương trình thành công. Đến năm 1672, dân số Tân Pháp tăng lên 6.700 người, hơn gấp đôi so với năm 1663. Các gia đình đông con—trung bình năm đứa trẻ, với các ưu đãi như 300 livres mỗi năm cho những gia đình có 10 con trở lên. Điều này đặt nền móng cho dân số Pháp-Canada, với hai phần ba người Pháp Canada hiện đại có tổ tiên từ những người phụ nữ này.
  • Thích nghi: Nhiều Filles du Roi không được chuẩn bị cho cuộc sống nông thôn, vì họ đến từ các khu vực đô thị, nhưng họ đã thích nghi. Sự phong phú của tài nguyên ở Tân Pháp cho phép họ sinh nhiều con hơn và sống lâu hơn so với những người cùng thời ở Pháp.
  • Di sản: Họ góp phần vào việc chuẩn hóa văn hóa và ngôn ngữ, mang theo tiếng Pháp Paris ảnh hưởng đến phương ngữ của thuộc địa. Các hậu duệ bao gồm những nhân vật nổi tiếng như Hillary Clinton, Madonna và Angelina Jolie. Chỉ khoảng 30 người trở về Pháp, và chỉ một người, Madeleine de Roybon d’Alonne, vẫn độc thân ở Tân Pháp.

Cuộc sống khắc nghiệt—mùa đông lạnh giá, và công việc nặng nhọc. Tin đồn rằng họ là gái mại dâm bắt nguồn từ những hiểu lầm ban đầu về việc nhập cư thuộc địa Pháp, nhưng chỉ một người, Catherine Guichelin, đối mặt với cáo buộc như vậy sau khi chồng bỏ rơi cô vào năm 1675. Phần lớn là những người tiên phong kiên cường đã định hình tương lai của thuộc địa.


Tóm lại, chương trình Filles du Roi đã biến Tân Pháp từ một tiền đồn chủ yếu là nam giới thành một khu định cư phát triển mạnh, để lại tác động lâu dài về dân số và văn hóa.


Vai trò của phụ nữ thuộc địa ở Tân Pháp, đặc biệt là các Filles du Roi và những người định cư nữ khác từ năm 1663 đến đầu thế kỷ 18, rất đa dạng và thiết yếu cho sự sống còn và phát triển của thuộc địa. Trách nhiệm của họ vượt xa các nhiệm vụ gia đình truyền thống, phản ánh nhu cầu của một môi trường biên giới nơi lao động khan hiếm, tài nguyên hạn chế và việc xây dựng cộng đồng là ưu tiên hàng đầu.


Vai trò trong gia đình

  • Người quản lý gia đình: Phụ nữ là xương sống trong việc quản lý gia đình. Họ nấu ăn bằng các dụng cụ thô sơ—nồi sắt trên lửa trần—dựa vào các nguyên liệu địa phương như cá, thú săn, ngô và rau từ vườn. Việc bảo quản thực phẩm bằng cách muối, hun khói hoặc phơi khô là công việc quanh năm để đảm bảo sống sót qua mùa đông khắc nghiệt.
  • Người sản xuất vải: Họ kéo sợi từ len hoặc lanh (nếu có), dệt vải và may quần áo, chăn ga gối đệm. Nhiều người đến với kỹ năng may vá cơ bản từ của hồi môn nhưng thích nghi với việc dùng lông thú hoặc vật liệu thô hơn khi nguồn cung từ Pháp cạn kiệt.
  • Người chăm sóc trẻ em: Với các gia đình đông con được khuyến khích bởi các ưu đãi hoàng gia (ví dụ, 300 livres cho gia đình có 10 con trở lên), phụ nữ dành phần lớn thời gian mang thai hoặc nuôi dạy con cái. Họ cho con bú, dạy đọc viết cơ bản hoặc cầu nguyện, và quản lý sự hỗn loạn của những gia đình trung bình từ 5 đến 10 đứa trẻ.

Đóng góp nông nghiệp và kinh tế

  • Công nhân nông nghiệp: Hầu hết Filles du Roi kết hôn với những người định cư có đất được cấp theo hệ thống lãnh địa, khiến họ trở thành những người tham gia tích cực vào việc canh tác tự cung tự cấp. Họ trồng và thu hoạch các loại cây như lúa mì, đậu Hà Lan và bí, chăm sóc vườn rau nhỏ gần nhà, và nuôi gia súc—vắt sữa bò, cho gà ăn hoặc giết mổ lợn. Trong mùa gieo trồng và thu hoạch, lao động của họ rất quan trọng bên cạnh chồng.
  • Người quản lý tài nguyên: Phụ nữ chế biến nguyên liệu thô xay ngô, đánh bơ hoặc xử lý da thú để dùng trong gia đình hoặc buôn bán. Ở các trung tâm buôn bán lông thú như Montreal, một số người giúp chuẩn bị da lông hoặc trao đổi với các nhóm bản địa để lấy hàng hóa, gián tiếp hỗ trợ nền kinh tế của thuộc địa.
  • Vai trò kinh doanh: Góa phụ hoặc phụ nữ độc thân đôi khi điều hành trang trại hoặc các doanh nghiệp nhỏ. Ví dụ, nếu chồng qua đời, một người phụ nữ có thể quản lý đất đai cho đến khi tái hôn hoặc giám sát người thuê đất trong hệ thống lãnh địa, tận dụng quyền pháp lý của mình theo luật tục Pháp (coutume de Paris). Puerto Rico ngày nay vẫn sử dụng luật của thời Napoleon. 

Vai trò xã hội và cộng đồng

  • Người xây dựng cộng đồng: Phụ nữ thúc đẩy sự gắn kết xã hội trong các khu định cư thưa thớt. Họ tổ chức các buổi tụ họp, lễ rửa tội, đám cưới hoặc ngày lễ như Noël hay St. Jean Baptiste, nơi thức ăn, âm nhạc và khiêu vũ tăng cường mối quan hệ. Việc thăm viếng hàng xóm để trao đổi hàng hóa hoặc hỗ trợ sinh nở đã tạo ra mạng lưới hỗ trợ lẫn nhau.
  • Trụ cột tôn giáo: Là những người Công giáo sùng đạo, họ duy trì đời sống tôn giáo, tham dự thánh lễ khi có thể hoặc dẫn dắt gia đình cầu nguyện tại nhà. Họ làm việc với các nữ tu (ví dụ, Ursulines) để rửa tội cho trẻ em và chôn cất người chết, củng cố vai trò của Nhà thờ trong thuộc địa. Một số người dạy giáo lý cho con cái, bảo tồn bản sắc Công giáo Pháp.
  • Người trung gian với người bản địa: Phụ nữ sống gần các cộng đồng bản địa, như Wendat hoặc Algonquin, thường đóng vai trò trung gian không chính thức. Họ trao đổi hàng hóa (ví dụ, vải lấy ngô), học kỹ năng sinh tồn như làm đường từ nhựa cây phong, hoặc chăm sóc con cái lai từ những cuộc hôn nhân hiếm hoi, âm thầm kết nối các nền văn hóa.

Vai trò chăm sóc sức khỏe

  • Người chữa bệnh và bà đỡ: Không có bác sĩ chính thức, phụ nữ sử dụng các bài thuốc thảo dược—vỏ cây liễu trị đau, cây xô thơm trị cảm lạnh—được truyền lại hoặc học từ hàng xóm bản địa. Nhiều người trở thành bà đỡ, hỗ trợ sinh nở trong cộng đồng; một Fille du Roi như Anne Le Moine đã đỡ đẻ hàng chục đứa trẻ qua nhiều thế hệ.
  • Y tá: Họ chăm sóc các thành viên gia đình hoặc hàng xóm bị bệnh trong các đợt bùng phát dịch đậu mùa hoặc cúm, thường chỉ với lời cầu nguyện và chăm sóc cơ bản. Tỷ lệ tử vong khi sinh cao khiến họ cũng phải than khóc và chôn cất người thân, một nhiệm vụ buồn bã nhưng thường xuyên.

Vai trò pháp lý và hành chính

  • Người quản lý tài sản: Theo luật Pháp, phụ nữ có quyền sở hữu một nửa tài sản hôn nhân (communauté de biens). Góa phụ có thể thừa kế và quản lý đất đai, một vai trò mà một số Filles du Roi đảm nhận khi chồng qua đời trong các cuộc tấn công hoặc do bệnh tật. Họ ký hợp đồng với công chứng viên, một di sản từ thỏa thuận hôn nhân, mang lại cho họ quyền tự chủ bất thường vào thời đó.
  • Nhà giáo dục: Mặc dù trường học chính thức hiếm có, phụ nữ dạy con cái các kỹ năng thực tế—làm nông, nấu ăn, may vá—và khả năng đọc viết tiếng Pháp cơ bản, đặc biệt ở các trung tâm đô thị như Thành phố Quebec. Các nữ tu như Marguerite Bourgeoys đào tạo một số Filles du Roi để hỗ trợ giáo dục trẻ mồ côi hoặc người mới đến.

Thách thức và thích nghi

  • Nhu cầu thể chất: Vai trò của họ đòi hỏi sức bền lớn—khuân nước, chặt củi, hoặc đi bộ qua tuyết. Mùa hè mang đến công việc đồng áng không ngừng; mùa đông giam họ trong những căn nhà đầy khói. Tuổi thọ trung bình thấp (40–50), mặc dù dinh dưỡng tốt hơn ở Tân Pháp thường kéo dài tuổi thọ hơn so với tiêu chuẩn ở Pháp.
  • Rủi ro biên giới: Các cuộc tấn công của người Iroquois cho đến năm 1701 đe dọa các trang trại hẻo lánh, buộc phụ nữ phải bảo vệ nhà cửa hoặc chạy trốn cùng con cái. Bệnh tật, suy dinh dưỡng và biến chứng khi sinh cướp đi nhiều sinh mạng, nhưng những người sống sót đã thích nghi, học cách phát triển trong một vùng đất khắc nghiệt.
  • Thay đổi văn hóa: Những Filles du Roi từ thành thị như Paris hay Rouen đến không chuẩn bị cho lao động nông thôn nhưng đã thành thạo các kỹ năng mới, lột da thú, nhóm lửa, hoặc thương lượng với thương nhân, biến họ thành những người tiên phong linh hoạt.

Không giống phụ nữ ở Pháp, nơi nghèo đói hoặc cấu trúc giai cấp cứng nhắc hạn chế vai trò, phụ nữ thuộc địa ở Tân Pháp có cơ hội gắn liền với sự phong phú và nhu cầu:

  • Địa vị cao hơn: Sự khan hiếm phụ nữ mang lại cho họ lợi thế trong việc chọn chồng và ảnh hưởng cộng đồng. Một Fille du Roi như Catherine de Baillon, xuất thân quý tộc, có thể kết hôn với một người định cư bình thường nhưng vẫn giữ được sự tôn trọng xã hội.
  • Tác động dân số: Vai trò sinh sản của họ mang tính chiến lược, con cái của mỗi người phụ nữ tăng cường số lượng dân cư của thuộc địa, nhận được lời khen ngợi từ các quan chức như Talon, người gọi họ là “những người mẹ của một dân tộc.” Việt Nam gọi là người mẹ anh hùng.

Đọc về đời sống dạo đó, một ngày của phụ nữ thuộc địa có thể bắt đầu lúc bình minh với việc nhóm lửa, cho gà ăn và nhào bột, tiếp theo là làm việc đồng áng hoặc may vá, rồi nấu bữa tối và vá đồ dưới ánh nến. Chủ nhật mang lại sự nghỉ ngơi và cầu nguyện, trong khi các tình huống khẩn cấp, sinh nở, tấn công hoặc bão tuyết, đòi hỏi hành động tức thì. Lao động của họ biến vùng hoang dã thành những ngôi nhà, sự kiên cường của họ định hình một xã hội Pháp-Canada trường tồn.


Phụ nữ thuộc địa ở Tân Pháp, đặc biệt là Filles du Roi, không chỉ là những người vợ mà còn là nông dân, người chữa bệnh, giáo viên và trụ cột văn hóa. Vai trò của họ kết hợp sự nữ tính truyền thống với tính thực dụng của biên giới, đặt nền móng cho một bản sắc thuộc địa riêng biệt của vùng Québec.


Tương tự khi các gia đình người Việt theo diện H.O., sang Hoa Kỳ, đã giúp cho mấy ông người Việt ở đây có cơ hội cưới được vợ. Mình nhớ có bác giúp việc, đi theo diện H.O., ông chồng mang sang rồi kêu xong trách nhiệm, nay ông ta đi theo bà vợ 2, đã chạy năm 75. Mấy năm đầu là đi ăn cưới con gái bác mệt thở. 5 cô con gái. Bác kêu không biết nuôi chúng ra sao, có thằng nào đến là gả cho yên mồ yên mả. Vấn đề là từ từ mấy cô này hiểu được chuyện bên Mỹ, nhập gia tuỳ tục thì cài số de hết nên mấy cô này nay đều ly dị hết. Kinh


Hình như đồng chí gái đang chuẩn bị chuyến đi Gia-nã-đại tháng 7 này.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn