Hạt giống đỏ tư bản

 Lò sản xuất tổng thống và bộ trưởng pháp


Hôm nay tình cờ xem phỏng vấn cháu nội của tổng thống De Gaulle, tên Pierre de Gaulle, con của đô đốc Philippe de Gaulle), được xem là một nhân vật ít lên tiếng, trầm lặng trong giới tài chánh sinh sống tại Thụy Sĩ khiến mình thất kinh nên mò thêm tài liệu để đọc. 



Ông thần cháu nội được xem là bênh vực Puchin trong cuộc chiến tại Ukraine, ông ta chỉ trích NATO và ủng hộ Puchin khiến dòng họ De Gaulle kêu chỉ ông Thần này thôi còn cả dòng họ vẫn cương quyết ủng hộ Ukraina tới cùng. Mình nghĩ ông cháu nội này có tư tưởng như tổng thống De Gaulle, chống Mỹ. 


Ông thần này lên đài truyền hình kêu là các tổng thống pháp hay các nhà cầm quyền của Âu châu đều xuất thân từ chương trình Young Leaders của French-American Foundation do CIA tài trợ như Sarkozy, Hollande và Macron. Chương trình các lãnh đạo trẻ là ngọn đuốc của cơ quan French -American Foundation, một tổ chức vô vụ lợi được thành lập năm 1976 với mục đích nối kết liên hệ của Pháp quốc và Hoa Kỳ. Năm 1981, họ chọn đâu 20 người vừa pháp và Mỹ có khả năng lãnh đạo, tuổi độ 30-40 tuổi để giúp tiến cử vào các môi trường chính trị và truyền thông. Họ tổ chức các buổi hội thảo hai bên nhằm thắt chặt tình hữu nghị xuyên Bắc Đại Tây dương.  Các nhân vật tham dự đặc biệt như: 

•  François Hollande (1996)

•  Emmanuel Macron (2012)

•  Alain Juppé (1981)

•  Édouard Philippe (2012)

•  và (Arnaud Montebourg, Najat Vallaud-Belkacem, etc.)

Nicolas Sarkozy không tham dự trực tiếp nhưng các công sự viên như Pierre Mariani tham dự vào 1996).


Chương trình này thường bị chỉ trích như một công cụ gây ảnh hưởng của Hoa Kỳ đúng hơn là CIA. Mình chưa tìm ra bằng chứng do CIA trực tiếp nắm chương trình này. 

French-American Foundation được tài trợ bởi các nhà hảo tâm, công ty tư nhân. 


Mình nghĩ mỗi nước tại Âu châu đều có một hiệp hội tương đương, mình chỉ tìm ở pháp vì có theo dõi tình hình ở pháp còn mấy nước khác thì ít để ý. 


Tương tư mình nghe có người kể là Hoa Kỳ có tổ chức khóa hội thảo tại DC và mời một số luật sư trẻ và trí thức Việt Nam, một số du học sinh. Được đào tạo về tranh đấu dân chủ này nọ. Sau khi trở về Việt Nam thì họ có lên tiếng này nọ rồi bị bắt nay đa số đều được thả và ở hải ngoại. 

Tiền bạc mà USAID đài thọ các tổ chức vô chính phủ trên thế giới mà nay chính phủ thay đổi không muốn dính dáng gì đến nữa nên cắt hết các tài trợ để quay về với chủ nghĩa của tổng thống Monroe để cải thiện lại kinh tế Hoa Kỳ trong cuộc tranh đua cách mạng trí tuệ nhân tạo với Trung Cộng. 


Bác nào có tài liệu về các tổ chức này thì cho em xin. Em nghĩ phía Trung Cộng hay nga sô cũng xen vào nhằm bố trí các lãnh đạo trẻ trong các nước lân cận để hổ trợ cho cuộc xây dựng một đế chế mới ở Á châu. 


Lâu lắm rồi mình có đọc một bài về 100 hạt giống đỏ đầu tiên được Hà Nội cho qua liên xô đào tạo. Mình có dịp gặp vài người này như chị Hằng Nga, kiến trúc sư ở Đà Lạt và vài người khác. Bài báo cho biết các hạt giống đỏ này cũng không đem lại hay giúp gì cho đất nước. Bài báo do một người trong nước hình như cũng là hạt giống đỏ viết. Thấy Tấm ảnh chụp cả nhóm 100 hạt giống đỏ, con của các cán bộ cấp cấp của Hà Nội. Hình như có ông Nông Đức Mạnh. Bác nào có thông tin gì thêm thì cho em xin. Cảm ơn trước. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Trà Hoa Nữ là ai


 Trà hoa nữ


Nhớ hồi nhỏ hóng chuyện người lớn, nghe họ nói về Trà Hoa Nữ chi đó, một cô gái đẹp được nhà văn Alexandre Dumas con hay cha không nhớ viết về cuộc đời của cô này chết trẻ vì bệnh chi đó. Họ kêu là gần chết cô ta kêu mua hoa chất đầy phòng rồi đóng cửa lại và chết như bà đầm trong hương thơm của hoa. Lớn lớn một chút thì được biết là cuốn tiểu thuyết “La dame aux Camélias “ nên khi sang Paris buồn đời mình đi viếng mộ cô nàng ở nghĩa trang Montmartre. 

Trà hoa nữ không biết là ảnh chụp thời đó hay ây Ai làm

Cuộc đời cô này được các nhạc sĩ dựa theo sáng tác nhiều màn kịch opera nổi tiếng. Nếu để ý chúng ta thấy các màn kịch opera của Tây phương nổi tiếng đều nói về cuộc đời cá bà đầm gian truân như Thúy Kiều của ông Nguyễn Du. Đi chơi với đồng chí gái, ngồi phi trường buồn đời Cô Lựu nên tóm tắt cuộc đời Trà Hoa Nữ cho mấy chị tưởng tượng mình là Trà Hoa NỮ đã đì chồng ra sao đến chết yểu. 


Trà Hoa Nữ xuất thân tại vùng Normandie, phía Bắc Paris, đoán là tóc vàng nên mấy ông tây mê giống Viking. Mẹ cô ta chết sau khi bỏ nhà ra đi lên Paris làm ô sin khi cô ta lên 6 tuổi vì không chịu đựng được người chồng nghiện rượu và vũ phu. Cần tiền cha cô cho cô đi làm ohsin năm 12 tuổi cho một gia đình điền chủ. Cho thấy cách mạng 1789 nhưng phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng, luật pháp che chở. 


Cô sinh ra với tên Alphonsine Rose Plessis vào ngày 15 tháng 1 năm 1824, tại một ngôi làng nhỏ ở Normandie, Pháp. Năm 12 tuổi, đi làm ô-sin, cô bị một tá điền cưỡng hiếp. Gia đình địa chủ cường hào ác bá mà cô đang làm ô sin cùng đổ lỗi cho cô vì tắm ở truồng ngoài trời khiến tá điền nổi máu dê và gửi cô trở về với cha. Mình đoán là giữ tên tá điền lợi hơn cô bé 12 tuổi giúp việc nhẹ nhàng trong nông trại. 


Năm 13 tuổi, cha cô bán cô cho một người đàn ông lớn tuổi tên Plantier, sống ở một nơi hẻo lánh khỉ ho cò gáy đúng hơn là chó ho bò rống. Buồn đời vì xung quanh chỉ nghe tiếng bò rống nên buồn đời cô ta cũng bỏ trốn như mẹ mình khi xưa. Cô chạy đến các ngôi làng gần đó, tìm việc ở tiệm giặt ủi hay cửa hàng để sống sót. Nhưng cha cô cứ tìm ra cô, cứ kéo cô về, bán sức lao động của cô cho bất kỳ ai chịu trả tiền mua rượu. Năm 15 tuổi, cô khôn hơn trốn đến được Paris. Thế là ông bố hết tìm ra vì quá rộng lớn. 


 Lúc ấy cô là trẻ, không có thân nhân ở Paris, đói khát, mặc quần áo rách rưới, ngủ bất cứ nơi nào tìm được chỗ kiểu văn hào Victor Hugo kể trong cuốn Những Kẻ Khốn Cùng. Một đạo diễn nhà hát sau này nhớ lại đã thấy cô trên cầu mới Pont-Neuf, đang nhìn chăm chú vào một quầy khoai tây chiên với vẻ thèm thuồng. Ông mua cho cô một hộp khoai tây chiên vì thương hại. Chưa đầy một năm sau, ông thấy chính cô gái đói khát ấy đang khoác tay một đại gia quý tộc tại vườn Ranelagh như cô bé lọ lem được lột xác. Alphonsine đã biến mình thành Marie Duplessis. Cô chọn tên “Marie” theo Đức Trinh Nữ Maria dành cho một cô gái đã bị cướp mất sự ngây thơ trước khi hiểu ngây thơ là gì. Cô thêm “Du” vào họ để nghe quý tộc hơn. Mình đoán Tú Bà ở Paris trùng tu, nâng cấp lại chớ một cô gái quê mùa biết gì. Thật ra tên alphonsine do bố đặt ra rất quê mùa nên ra thủ đô phải đổi tên cho có vẻ sang trọng. Như mình khi sang Paris tây đầm gọi Son (âm thanh) thay vì Sơn vì họ không đọc Sơn được. 


Cô tự học đọc, học nói tiếng Pháp mà không còn giọng Normandy, mình đoán cô ta chỉ nói phương ngữ của vùng Normandie, vì khi xưa các vùng Pháp quốc đều nói “patois” phương ngữ. Dạo mình ở pháp có quen mấy tên gốc vùng Bretagne, chúng gặp nhau xổ toàn phương ngữ breton không như khi mình lên Alsace cũng như ngỗng ị khi nghe dân vùng này xổ phương ngữ của họ. 


Cô ta học tiếng pháp để mỗi sáng nghiên cứu báo chí để có thể thảo luận sự kiện thời sự với những người đàn ông giàu có mà khi xưa học Les femmes savantes “ của Moliere . Tương tự ngày nay sáng nào chúng ta đọc Fake news rồi lên mạng chửi bới thiên hạ cho vơi đi nổi sầu, hận đàn bà. Cô ta giác ngộ cách mạng một điều: nếu thế giới cho rằng cô chẳng có giá trị nào ngoài nhan sắc, thì cô sẽ biến nhan sắc ấy đắt giá hơn bất kỳ ai có thể trả sẽ bắt họ phải trả nên ngày nay có nhiều trà hoa nữ hay trà hoa nam trên mạng cứ câu like nhắn tin để dụ đàn ông và phụ nữ cần bị dụ. Chán Mớ Đời. Đến năm 16 tuổi, cô đã học được điều mà những cô gái xinh đẹp khác ở vị trí cô đều học tập đạo đức cách mạng: những đại gia sẽ cho cô tiền, căn hộ, trang sức, xe ngựa bất cứ thứ gì để đổi lấy sự đồng hành trên giường của cô. Cô bỏ việc ở các tiệm may với đồng lương ít ỏi và trở thành một kỹ nữ cao cấp. 


Nhưng trà hoa nữ không giống những kỹ nữ khác. Cô thanh lịch, duyên dáng, Cô tổ chức salon văn học tại căn hộ của mình, như ngày nay họ tổ chức karaoke tại gia, nơi các chính trị gia, nhà văn và nghệ sĩ tụ họp không chỉ để lên giường với cô, mà để trò chuyện với cô. Văn hào Honoré de Balzac từng tham dự. Cô có ghế riêng cho đêm khai mạc tại mọi nhà hát lớn. Cô sưu tầm nghệ thuật. Cô sở hữu 200 cuốn sách, thời đó sách rất đắt tiền. Cô đeo hoa trà màu trắng khi cô rảnh rỗi, màu đỏ khi không, trở thành dấu ấn của cô. Tương tự khi mấy bà có kinh thì cắm cờ đỏ còn không thì cắm đờ trắng để chồng con biết mà liệu đối xử. 

Nhạc sĩ Frank Lízt ngừi tình của cô khi làm việc tại Paris


 Loài hoa ấy không có mùi hương, cho một người phụ nữ mà cuộc đời chỉ là để được nhìn thấy, chứ không phải được biết đến. Franz Liszt, siêu sao âm nhạc quốc tế đầu tiên, người gây ra “cơn sốt Liszt” khắp châu Âu đã yêu cô. Ông muốn đưa cô đến Coóntantinople, Istanbul ngày nay và hứa sẽ quay lại đón cô nhưng Ông hát bài Nghìn Trùng xa cách và nhắn tin cho cô nghe vì có các trà hoa nữ khác ở Istanbul vì nghe bài hát của ông Nguyễn Ánh Chín “Không tôi không còn yêu em nữa”. 


Alexandre Dumas con, con trai của nhà tiểu thuyết nổi tiếng 3 chàng ngự lâm pháo thủ, cũng yêu cô. Họ có mối tình 11 tháng bắt đầu từ tháng 9 năm 1844. Anh ta trẻ tuổi, nghèo khó, và ghen tuông điên cuồng với những người đàn ông thực sự có khả năng bao nuôi cô. Đến tháng 8 năm 1845, cô kết hôn với Bá tước Édouard de Perregaux ở Anh, một cuộc hôn nhân tiện lợi không được công nhận hợp pháp ở Pháp, điều hoàn toàn phù hợp với cô. Ông kia về Anh quốc làm ăn rồi lâu lâu qua Paris thăm người vợ bé bỏng chiều sim. Kiểu Việt kiều về Việt Nam có trà hoa nữ mazde  in Việt Nam 


Cô muốn tiền bạc và danh hiệu của ông mà không phải từ bỏ tự do của mình. Marie Duplessis: cô tiêu xài hoang phí, đánh bạc. Cô mặc những bộ đồ đắt tiền nhất, cưỡi ngựa nhập từ Anh, sống trong những căn hộ xa hoa đầy đồ nội thất kiểu Louis XV và rèm lụa. Nhưng cô cũng cho đi. Cô giúp đỡ những gái mại dâm khác để chuẩn bị ngày nào lên chức Madame Claude. Cô quyên góp cho từ thiện. Khi cô qua đời, những người phụ nữ cô đã giúp xuất hiện tại tang lễ, khóc nức nở, khóc như chưa bao giờ khóc thật tình,  không phải vì cô tử tế theo kiểu trừu tượng, ban ơn mà vì cô hiểu nổi buồn gác trọ. 


Marie sống như thể biết thời gian của mình không còn nhiều. Có lẽ cô biết Bệnh lao, căn bệnh “lãng mạn” của thời đại, căn bệnh khiến ho ra máu và tiều tụy một cách đẹp đẽ liêu trai khiến đàn ông hay nông dân như mình phải mê,  tuberculose đã đang từ từ giết chết cô. Năm 1847, cô dành nhiều thời gian hơn ở các suối nước nóng chữa bệnh thay vì ở Paris, tuyệt vọng cố mua thêm thời gian cho mình. Mấy bà đọc tới đây chắc chắn sẽ kêu đáng kiếp, biết đâu ông chồng đem vi khuẩn về nhà lại lây mấy bác gái.  


Ngày 3 tháng 2 năm 1847, Marie Duplessis qua đời về thiên quốc trong căn hộ của mình trên Đại lộ Madeleine. Ai đến Paris, viếng nhà hát opera thì sẽ thấy đại lộ này. Sang lắm. Cô mới 23 tuổi. Xem như thua Thúy Kiều vì chỉ thực hiện được cuộc đời dụ đàn ông có 7 năm trong khi Thúy Kiều sau khi trả hết nợ cho Tú Bà khi mượn tiền trả 2 phân tiền lời là 24%/ năm rồi mới nhảy xuống xuống sông Hậu Giang nhưng may thay cán bộ giao liên đi ngang qua thấy Thúy Kiều đang chết chìm, nhảy xuống cứu và đi theo cách mạng vào Sàigòn chiêu thêm mấy đại gia Sài thành trước 75.


  Các tay giang hồ xã hội đen đã lục soát căn hộ xa hoa của cô để thu nợ ngay khi cô trút hơi thở cuối cùng. Tang lễ của cô tại nhà thờ Madeleine thu hút đám đông. Charles Dickens tham dự và sau này viết rằng Paris thương tiếc “như thể Marie là Jeanne d’Arc hay một nữ anh hùng dân tộc nào đó, nỗi buồn chung sâu sắc đến vậy.” Chỉ vài tuần sau, toàn bộ tài sản của cô bị bán đấu giá, đồ nội thất, trang sức, sách vở, thậm chí cả con vẹt cưng. Giới thượng lưu Paris kéo đến, không phải để đấu giá, mà để nhìn ngắm. 


Alexandre Dumas con, bị dằn vặt bởi tội lỗi vì đã tránh mặt cô trong những tuần cuối đời, tự nhốt mình và viết một tiểu thuyết trong bảy ngày. Ông đặt tên nó là La Dame aux Camélias—“Người Đàn Bà của Những Hoa Trà.”  Việt Nam mình dịch là Trà Hoa Nữ thì phải.  Ông đổi tên cô thành Marguerite Gautier và viết lại câu chuyện của họ theo cách ông mong muốn: bi kịch, lãng mạn, cứu rỗi. 


Trong phiên bản của ông, cô từ bỏ tất cả vì tình yêu. Cô chết một cách cao thượng, đẹp đẽ, được cứu rỗi bởi đau khổ. Cuốn sách trở thành bestseller. Rồi thành vở kịch. Sau đó năm 1853, Giuseppe Verdi xem vở kịch và xúc động đến mức sáng tác một trong những vở opera nổi tiếng nhất lịch sử: La Traviata (Người Phụ Nữ Sa Ngã) mình có xem ở Luân Đôn. Tiểu thuyết chưa bao giờ hết in. Vở opera vẫn được biểu diễn khắp thế giới. Có ba vở ballet, hơn chục bộ phim (nổi tiếng nhất là Camille với Greta Garbo), và vô số bản chuyển thể. 


Marie Duplessis trở thành bất tử nhưng dưới hình dạng sáng tạo của người khác. Đây là điều Dumas không bao giờ viết: Marie không chết vì tan vỡ và bị bỏ rơi. Bá tước Perregaux đã vội vã đến bên giường bệnh của cô trong những ngày cuối. Ông trả tiền cho tang lễ. Ông đi theo quan tài cô đến Nghĩa trang Montmartre, công khai khóc thương. Đây là điều ông không bao giờ viết: Marie từng tâm sự với một người bạn, “Tôi đã yêu chân thành, nhưng không ai từng đáp lại tình yêu của tôi. Đó mới là nỗi kinh hoàng thực sự của cuộc đời tôi.” Vụ này thì mình nhất trí vì khi xưa cũng rất chân thành với mấy cô quen rồi khi họ khám phá ra mình là nông dân thì đá cái vèo bay lên ngọn cây bơ. Chán Mớ Đời 


 ông Dumas con không bao giờ viết: Marie không nhu mì. Cô không thụ động. Cô không dành cả đời chờ đợi được cứu bởi tình yêu của một người đàn ông. Như mình đã kể xã hội xưa thuộc phụ hệ nên đàn ông họ vẽ vời tư thế địa vị phụ nữ, chờ đợi tình yêu vớ vẫn. Khi xưa mình cũng tin lời mấy cô sái cỗ đến khi họ phát hiện ra đồng chí giai khác là đá mình liền. 


Cô sống sót bằng cách từ chối bị sở hữu bởi đàn ông. Cô lấy một thế giới đã ban cho cô nghèo đói, bạo lực, cưỡng hiếp và bị bỏ rơi và biến nó thành một triều đại ngắn ngủi nhưng phi thường lên chính những người đàn ông tự xưng là kiểm soát cô. Cô khiến họ cạnh tranh vì cô. Cô khiến họ trả giá rất đắt. Cô khiến họ nhớ mãi về cô. Và khi bệnh lao cuối cùng cướp đi cô, Paris khóc không phải cho vị thánh hư cấu mà Dumas sẽ tạo ra, mà cho người phụ nữ thực sự đã từ chối xin lỗi vì đã sống sót theo cách duy nhất cô có thể. Cô được chôn cất dưới tên thật: Alphonsine Plessis. Mộ cô vẫn ở Nghĩa trang Montmartre, thường được phủ đầy hoa trà do những người lạ để lại những người chỉ biết cô qua tiểu thuyết. 


Nhưng Marie thực sự người đã bò ra khỏi nghèo đói và lạm dụng, người đã xây dựng một salon nơi trí thức tụ họp, người đã giúp đỡ phụ nữ khác ngay cả khi chính mình đang đấu tranh sinh tồn, người đã yêu mà không được đáp lại cũng xứng đáng được nhớ đến. Không phải như một nạn nhân bi kịch cần được cứu rỗi. Mà là con người thật của cô: một người phụ nữ từ chối bị thế giới quyết tâm hủy diệt bẻ gãy. Nhất là cô cố gắng bẻ gãy tàn phá gia cang thiên hạ để được có tiền mua ví xịn Hermès hay áo lông cừu, qua các chương trình đầu tư Bitcoin giả. 


Thời nay chúng ta có rất nhiều trà hoa nữ trên mạng và xuất hiện rất nhiều trà hoa nam để đi lừa tình lừa tiền để ăn chơi. Chán Mớ Đời lý do họ đọc Trà Hoa Nữ của Alexandre Dumas con, một tên nghèo mê cô ta nhưng không được đáp lại vì cái tội Chí Phèo nên sau khi cô ta chết anh ta bựa ra chuyện tình lâm ly bị đát hốt được mới tiên thoải mái. Mình đọc cuốn này mướn ở tiệm sách Minh Thu đường Phan Đình Phùng Đà Lạt xưa nên khi qua tây cứ tưởng thật về mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi của ông Thần Alexandre Dumas con (có tên bạn học gốc Huế lên là A lệc xăn đu ma) nên khi qua Paris buồn đời mình nhớ đến cuốn sách nên bò đến viếng mộ nàng kỹ nữ. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Rubik hiện tượng một thời

 Cubic hiện tượng một thời 

 

Hôm nay tình cờ đọc về lịch sử của trò chơi xếp hình Rubik mà một thời cả thế giới nổi điên, ai nấy đều bám lấy nó như cái điện thoại di động ngày nay. Con mình xưa cứ đưa Rubik là không quậy phá. Lâu lâu bổng nhiên gặp được một tài liệu kể về lịch sử của sự việc gì đó mà mình có trải nghiệm trước đây giúp mình hiểu thêm về cuộc đời đã đi qua có nhiều điều hay và bất ngờ. 

Điểm vui là sự hình thành của Rubik xuất hiện từ Hung Gia Lợi thời Liên Sô và nếu không có chủ nghĩa tư bản giãy chết nhúng tay vào thì có lẻ thế giới chả biết Rubik là gì. Mình xin tóm tắt như sau. 


Dưới thời Liên Sô, có một kiến trúc sư kiêm giáo sư người Hung gia lợi tên Ernő Rubik, buồn đời tạo ra một nguyên mẫu bằng gỗ nhỏ trong căn hộ ở Budapest vào mùa xuân năm 1974, ông hoàn toàn không có ý định thiết kế 1 thứ sau này trở thành trò chơi xếp hình bán chạy nhất thế giới. Mục tiêu của ông rất thực tế và khiêm tốn: ông muốn có một công cụ giảng dạy trực quan, giúp sinh viên kiến trúc hiểu được các mối quan hệ trong không gian ba chiều. Vụ này thì mình có trải qua vì phải học hình học lắm chiều với ánh sáng hai năm đầu đại học. Học cho cố rồi làm nông dân. 


Giáo sư Rubik giảng dạy tại Học viện Mỹ thuật Ứng dụng và Thủ công ở Budapest. Ông cố gắng giúp sinh viên hiểu cách các vật thể có thể chuyển động độc lập nhưng vẫn gắn kết với nhau thành một cấu trúc thống nhất. Đây là kiểu tư duy không gian ba chiều cực kỳ quan trọng đối với kiến trúc sư, nhưng rất khó hình dung giải thích qua các sơ đồ phẳng.


Thách thức của ông Rubrik mang tính cơ học: làm sao tạo ra một khối lập phương mà mỗi mặt có thể xoay tự do, trong khi toàn bộ cấu trúc vẫn giữ nguyên? Ông thử nghiệm với dây cao su, khoét rãnh, thử nhiều cơ chế bên trong khác nhau. Sau vô số lần thất bại, cuối cùng ông cũng tạo ra được một khối lập phương mà mỗi trong sáu mặt, mỗi mặt gồm chín ô vuông nhỏ, có thể xoay độc lập, trong khi toàn bộ khối vẫn liền lạc.


Nó hoạt động hoàn hảo như xe tây. Các khối xoay trơn tru. Cấu trúc vững chắc. Dưới góc độ giảng dạy, đó chính xác là điều ông mong muốn. Người ta chê xe Nga nhưng trên thực tế nó rất bền cho xứ lạnh như liên xô. Mùa đông nổ máy chạy liền không có nằm ụ.



Sau đó buồn đời ông Rubik thêm một yếu tố nữa: ông tô mỗi mặt một màu khác nhau. Sáu màu, sáu mặt. Trắng, đỏ, xanh dương, cam, xanh lá, vàng. Khi được sắp xếp đúng, mỗi mặt của khối lập phương sẽ chỉ có một màu đồng nhất. Ở trạng thái hoàn chỉnh, nó trông thật đẹp, một khối lập phương đa sắc hoàn hảo.


Rồi ông Rubik buồn đời khi bị vợ la, ông trộn nó lên khiến ông càng rối đầu lên bỏ bê đồng chí vợ thức khuya để làm sao cho các mặt cùng màu. Mấy bà vợ bạn mình đều rên là ông chồng cứ xoay xoay lên giường với vợ cũng xoay xoay thân thể họ. Chán Mớ Đời 


Ông xoay ngẫu nhiên vài lần, khiến các màu bị trộn lẫn trên cả sáu mặt. Những mảng màu đồng nhất trở thành một mớ hỗn độn, ô trắng cạnh ô đỏ, xanh lá lẫn với cam, không còn trật tự nào có thể nhận ra.


Giờ thì giác ngộ cách mạng ông thần Rubik nghĩ, hãy xoay nó trở lại trạng thái ban đầu. Nhưng ông không làm được. Các màu không chịu khớp lại. Mỗi nước đi sửa được một phần thì lại làm rối phần khác. Điều tưởng chừng đơn giản, chỉ cần đảo ngược các bước vừa làm, hóa ra phức tạp hơn rất nhiều so với những gì ông hình dung. Mình có chơi vụ này khi đến nhà bạn nhưng chưa bao giờ giải được vụ này. 


Ông thần Rubik nhìn chằm chằm vào khối lập phương bị xáo trộn với nỗi lo ngày càng tăng. Ông là người phát minh ra nó. Ông hiểu rõ cơ chế hoạt động. Ông nắm vững cấu trúc của nó. Thế nhưng ông vẫn không thể khôi phục lại trật tự màu sắc ban đầu. Giống như con mình lớn lên không kiểm soát được chúng. Chúng không nghe lời. 

Khoảnh khắc ấy khi chính người phát minh không thể giải được phát minh của mình đánh dấu thời điểm khối Rubik chuyển từ công cụ giảng dạy thành một câu đố thực thụ.


Trong suốt một tháng tiếp theo, Rubik nghiên cứu phát minh của mình một cách ám ảnh. Càng cố gắng thì vợ ông ta càng xì nẹt. Mỗi khi rảnh rỗi, ông lại xoay đi xoay lại khối gỗ đó, cố gắng hiểu logic di chuyển của các ô màu. Không có sách hướng dẫn hay lời giải. Không có YouTube hay diễn đàn trực tuyến. Ông là con người đầu tiên trên Trái Đất đối mặt với bài toán cụ thể này, một mình trong căn hộ ở Budapest với mụ vợ. 


Dần dần, ông bắt đầu nhận ra các quy luật. Một số chuỗi xoay vòng nhất định sẽ làm các khối di chuyển theo cách có thể dự đoán được. Ví dụ, nếu xoay mặt trên theo chiều kim đồng hồ, rồi xoay mặt phải lên trên, rồi xoay mặt trên ngược chiều kim đồng hồ, các khối sẽ dịch chuyển theo một mô hình cụ thể. Ghép đủ các mô hình này lại, có thể đưa các mảnh về vị trí mong muốn. Mình thì ngu dốt thêm không có sự kiên nhẫn để bóp quay này nọ nên độ 4 phút là trả hết về người. 


Nhưng toán học phía sau thật choáng ngợp. Khi ông Rubik tính toán các tổ hợp, ông nhận ra khối lập phương có hơn 43 nghìn tỷ tỷ cách sắp xếp khác nhau, chính xác là 43.252.003.274.489.856.000 cấu hình. Hèn gì mình không làm được. Chỉ có gen hạt giống đỏ xả lũ theo quy trình mới làm được. 


Để dễ hình dung: nếu trộn một khối Rubik và thử một cách sắp xếp mới mỗi giây, sẽ mất 1,4 nghìn tỷ năm để thử hết mọi khả năng, khoảng gấp 100 lần tuổi hiện tại của vũ trụ. Chán Mớ Đời 


Con số này vượt xa mọi dự đoán ban đầu của Rubik. Ông đã tạo ra một câu đố có độ phức tạp vượt quá cả sự hiểu biết của chính mình. Không đúng quy trình của nhà nước. 


Nhưng Rubik rất kiên nhẫn như xếp hàng mua bánh mì. Có phương pháp. Ông tiếp cận vấn đề như một kiến trúc sư, xây dựng hệ thống, kiểm nghiệm giả thuyết, ghi chép những gì hiệu quả và không hiệu quả. Từng chút một, qua nhiều tuần thử sai, ông bắt đầu phá được mật mã.


Ông phát triển các thuật toán, những chuỗi thao tác có thể di chuyển một số mảnh nhất định mà không làm xáo trộn các mảnh khác. Trước tiên, ông học cách giải một mặt. Sau đó là tầng giữa. Cuối cùng là mặt còn lại. Mỗi bước đều cần một chiến lược riêng, một chuỗi xoay được sắp xếp cẩn thận.


Khoảng một tháng sau lần đầu trộn khối lập phương, Ernő Rubik cuối cùng cũng giải được nó. Cả sáu mặt trở lại màu đồng nhất: trắng, đỏ, xanh dương, cam, xanh lá, vàng, mỗi mặt lại hoàn hảo như ban đầu.


Cảm giác nhẹ nhõm lúc đó giúp ông nhận ra một điều quan trọng: ông đã tạo ra thứ gì đó vượt xa một công cụ giảng dạy đơn giản. Đây là một câu đố thực sự, đủ sức làm người ta bực bội và say mê cùng lúc khiến mụ vợ Chán Mớ Đời 


Tuy nhiên, Rubik chỉ là một giáo sư ở Hungary cộng sản năm 1974. Ông không có mối liên hệ nào với ngành công nghiệp đồ chơi quốc tế. Không có cách nào sản xuất hàng loạt nguyên mẫu bằng gỗ của mình. Trong một thời gian, khối lập phương chỉ là một sự tò mò, một phát minh thông minh nhưng chưa thấy tương lai thương mại.


Cuối cùng, Rubik hợp tác với một công ty nhỏ của Hungary để sản xuất phiên bản nhựa. Họ gọi nó là “Magic Cube” và bắt đầu bán tại Hungary vào năm 1977. Doanh số chỉ ở mức khiêm tốn. Người sống trong chế độ cộng sản không có thời gian ăn chơi, lo xếp hàng mệt thở. 


Đến năm 1979, một doanh nhân Hungary tên Tibor Laczi nhìn thấy câu đố này và nhận ra tiềm năng toàn cầu của nó. Ông mang nó đến Hội chợ Đồ chơi Nuremberg ở Đức. Công ty Ideal Toy của Mỹ đã ký hợp đồng bản quyền, đổi tên thành “Rubik’s Cube” theo tên người phát minh và tung ra thị trường quốc tế vào năm 1980.


Những gì xảy ra sau đó là chưa từng có tiền lệ. Rubik’s Cube trở thành một hiện tượng toàn cầu. Chỉ trong vòng hai năm, hàng triệu khối lập phương được bán ra trên khắp thế giới. Mọi người ở khắp nơi đều trải nghiệm điều mà Rubik từng trải qua năm 1974, sự bực bội khi trộn một thứ tưởng đơn giản nhưng lại khó giải đến điên đầu.


Các câu lạc bộ giải đố ra đời. Sách hướng dẫn được xuất bản (ban đầu khiến Rubik không vui, ông tin rằng việc tự khám phá lời giải là vẻ đẹp của trò chơi). Các cuộc thi xuất hiện. Những người nhanh nhất có thể giải dưới 30 giây. Rồi dưới 10 giây. Cuối cùng, kỷ lục thế giới giảm xuống dưới 5 giây khi speedcubing trở thành một môn thi đấu thực thụ.


Khối Rubik vượt xa vai trò một món đồ chơi. Nó trở thành biểu tượng văn hóa của thập niên 1980, đại diện cho logic, sự kiên nhẫn, bền bỉ và niềm vui khi giải quyết những vấn đề phức tạp. Nó xuất hiện trong phim ảnh, chương trình truyền hình, tác phẩm nghệ thuật. Các nhà toán học nghiên cứu lý thuyết nhóm của nó. Các nhà khoa học máy tính dùng nó để giảng dạy thuật toán.


Ernő Rubik, kiến trúc sư Hungary trầm lặng chỉ muốn giúp sinh viên hiểu không gian, đã trở thành một nhân vật bất ngờ trong lịch sử trò chơi, câu đố và thiết kế. Khối Rubik đã bán được hơn 350 triệu bản, trở thành trò chơi xếp hình bán chạy nhất mọi thời đại. Hàng loạt biến thể ra đời 2x2, 4x4, 5x5, kim tự tháp, khối mười hai mặt, đủ mọi hình học có thể tưởng tượng.


Nhưng khối Rubik 3x3x3 nguyên bản vẫn là chuẩn mực. Là khởi đầu của tất cả. Là thứ Rubik vô tình tạo ra khi dạy kiến trúc. Là thứ ông mất tròn một tháng mới giải được. Ngày nay, Ông vẫn gắn bó với khối lập phương mang tên mình, vẫn quảng bá “the Cube” trong các cuộc phỏng vấn và phim tài liệu. Ông nói về nó như biểu tượng của trí tò mò, khả năng giải quyết vấn đề và niềm vui khi khám phá quy luật.


Nhưng có lẽ phần đáng kinh ngạc nhất của câu chuyện Rubik’s Cube không phải là thành công thương mại hay ảnh hưởng văn hóa. Mà là khoảnh khắc năm 1974 khi người phát minh trộn khối gỗ của mình và hoảng hốt nhận ra rằng ông đã tạo ra thứ vượt ngoài tầm kiểm soát. Trong suốt một tháng, Ernő Rubik là người duy nhất trên Trái Đất biết đến sự tồn tại của câu đố này. Và trong cả tháng đó, ông bị mắc kẹt với chính phát minh của mình, không thể giải thứ mà ông đã tạo ra.


Cuộc vật lộn ấy, một tháng của thất vọng, thử nghiệm, thất bại và cuối cùng là đột phá chính là câu chuyện khởi nguồn của một trong những câu đố nổi tiếng nhất thế giới. Hầu hết các nhà phát minh đều biết rõ mình đang tạo ra điều gì. 


Rubik thì tạo ra thứ khiến ngay cả chính ông cũng phải ngạc nhiên. Ông thiết kế một công cụ giảng dạy và vô tình tạo ra một câu đố phức tạp đến mức phải mất một tháng mới giải được.


Mình đoán chỉ có tư bản mới làm giàu cho nhân loại. Không có ông thần đem rubik cube qua Tây Âu châu thì bọn tư bản giãy chết mới làm sống lại một loại đồ chơi trí não mà ít ai ở HungGia Lợi muốn hay có tiền mua cho con chơi. 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn