lá bài chủng tộc

 Từ vài năm nay, đúng hơn là từ khi tổng thống Barrack Obama nắm chính quyền tại Hoa Kỳ. Mình cảm thấy xã hội Hoa Kỳ như đã thay đổi khá nhiều, người Mỹ chửi bới nhau đủ trò, không cần sự lịch thiệp, tôn trọng lẫn nhau như ngày xưa. Người da trắng có thể không thích một người nữa trắng nữa đen làm tổng thống của họ. Mình tuy không bầu cho ông Obama nhưng rất hãnh diện về quốc gia này, cảm thấy Hoa Kỳ đúng là miền đất hứa. Một ông sinh viên từ phi châu đến Hoa Kỳ, quen một bà Mỹ trắng rồi có con, sau đó về nước bỏ lại đứa con hai dòng máu và mấy chục năm sau, người con này trở thành tổng thống Hoa Kỳ. người Tàu đến Thái Lan, Tân Gia BA, phải mất rất nhiều năm, nhiều thế hệ mới có hậu duệ làm thủ tướng như trường hợp gia đình thaksin, ông Lý QUang Diệu. Tổ tiền đến Việt Nam rồi quân Tây sơn chiếm đóng, sợ quá bỏ chạy sang Mã LAi.


Các phong trào chống đối tại Hoa Kỳ bùng phát với Antifa, BLM,… họ xuống đường đốt xe, cướp bóc,… mình đoán là có bàn tay chính trị nào phía sau lợi dụng các phong trào này. nhiều khi mình tự hỏi niềm tin, đạo đức cá nhân của mình ảnh hưởng như thế nào đến quan điểm về công lý? Hay chỉ phán theo những Gì nghe thấy qua truyền thông. Hay đặt câu hỏi niềm tin của mình thực sự đến từ đâu? Chỉ biết khi bé sống với mệ ngoại nên hay đi chùa, xách bông hoa cho mệ đi chùa Linh Phong và Linh Sơn, còn bố mẹ mình thì theo đạo tổ tiên chính giáo. Sau này ra hải ngoại, sống trong các xã hội thiên chúa giáo nên cũng tìm hiểu thêm, và đọc sách báo địa phương, dần dần mình cảm thấy như người sở tại khi nói chuyện với họ. Đi họp Lions Club và Toastmaster club, mình cũng nói về thượng đế như người Mỹ thiên chúa giáo. Cũng cầu nguyện thượng đế này nọ. 


Suy cho cùng, mình có thể chạy theo các xu hướng phổ biến nơi mình định cư hoặc các nhà tư tưởng có cơ hội đọc. Chúng ta chỉ là những người lập lại những gì đọc hay nghe như con vẹt hay khá hơn có thể như con tằm nhả tơ. Khi xưa, nghe thầy cô nói về vấn đề, mình ra lớp cũng kể lại như chính mình tự tư duy, thầy cô mình cũng học hay nghe từ ai đó, hay đọc trong sách báo.


 Vấn đề khi về già mình hay thắc mắc những gì, xu hướng mình đọc này có dựa trên những ngụy biện hay không? Người ta sử dụng các ý tưởng này để che dấu những điều gì khác, định hướng chúng ta suy nghĩ theo chiều họ mong muốn. Điều gì sẽ xảy ra nếu việc xem xét sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố lịch sử, kinh tế và xã hội lại hé lộ những sự thật đáng tiếc về bản chất của công lý xã hội?


Chúng ta cần làm sáng tỏ một số ngụy biện thường gắn liền với các chính sách công lý xã hội, ít nhất là trong mắt những nhà tư tưởng bảo thủ như tác giả. Bằng cách xem xét các chính sách như vậy trong suốt lịch sử, cũng như các chính sách kinh tế. Kinh tế định đoạt tất cả.


Từ những can thiệp và thậm chí cả những quan niệm sai lầm khác nhau bắt nguồn từ di truyền và chủng tộc, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về việc một số niềm tin, dù có vẻ cao quý, vẫn có thể sai lầm. Và với góc nhìn mới này, chúng ta sẽ được trang bị tốt hơn để thách thức những quan niệm phổ biến, thúc đẩy các sáng kiến ​​công bằng xã hội thực sự hiệu quả và đóng góp cho một xã hội hiểu biết và công bằng hơn.


Trước tiên, mình nghĩ tri thức không chỉ đơn thuần là một chuỗi sự kiện được thu thập và lưu trữ trong các cơ sở học thuật từ những người có học vị danh giá được thiên hạ, truyền thông tôn sùng. Nó thực sự là sự kết hợp của những hiểu biết thực tế, hàng ngày mà mỗi cá nhân, bất kể xuất thân từ đâu, đều mang lại. Tất cả chúng ta, với những trải nghiệm cá nhân, đều là những người đóng góp vào sự giàu có của tri thức nhân loại không kém gì bất kỳ tầng lớp trí thức tinh hoa nào. Điển hình, mình học rất nhiều từ sự hiểu biết của ông thợ, như chặt cây, tỉa nhánh cây vào mùa trăng rằm.


Nhưng nhiều người trong giới tinh hoa có xu hướng không đồng tình với quan điểm này. Trên thực tế, những người trong giới tinh hoa này thường tin rằng chỉ họ mới sở hữu bản thiết kế tinh túy để vận hành nền kinh tế và xã hội. Nhưng khi nhìn lại lịch sử gần đây, không khó để nhận thấy điều này có thể dẫn đến thảm họa như thế nào. Ví dụ về kế hoạch hóa tập trung trong các nền kinh tế như Liên Xô, nơi mục đích là nâng cao đời sống của quần chúng. Bất chấp những ý định tốt đẹp nhất, những nỗ lực này đã dẫn đến những hậu quả không mong muốn như thiếu lương thực và suy thoái kinh tế. Chắc chắn, nhiều người trong số những người thuộc giới tinh hoa này có lẽ đã có những ý định chân thành nhưng liệu họ có bao giờ dừng lại để đặt câu hỏi về tính khả thi của kế hoạch của mình không? Hay họ thuộc thành phần lãnh đạo, sống sung sướng như dạo này, thấy hình ảnh con trai hay cháu nội của Fidel Castro sống trong những lụa trong khi dân Cuba thì thiếu điện nước, thực phẩm. Xã hội vẫn còn hai thành phần; kẻ bị trị sống trong sự thiếu thốn và kẻ cai trị sống trong nhung lụa, hô hào tiến nhanh tiến mạnh đến xã hội chủ nghĩa. 


Một nhân vật của thế kỷ XX nổi bật như một chuyên gia về bản chất của kiến ​​thức và cách thức áp dụng kiến ​​thức đó trong xã hội: Friedrich Hayek. Ông lập luận rằng kiến ​​thức không chỉ là thông tin mà chúng ta biết và chia sẻ một cách có ý thức, nó còn bao gồm những sắc thái chưa được diễn đạt rõ ràng như thói quen, kỹ năng và phản ứng hành vi, thường là đặc trưng của mỗi cá nhân.


Hãy xem xét một thị trường kinh tế tự do. Mỗi nhà cung cấp, hoạt động dựa trên sự hiểu biết riêng biệt của họ về nhu cầu của khách hàng, chuỗi cung ứng và các biến số khác, góp phần vào việc thiết lập giá cả và số lượng. Nhìn chung, thị trường không chỉ là nơi mua bán hàng hóa, nó tượng trưng cho một lượng lớn kiến ​​thức phân tán, tức là thông tin phân tán và cá nhân hóa được nắm giữ bởi nhiều bên tham gia khác nhau trong bất kỳ hệ thống nào. 


Nhớ dạo tập tành đầu tư vào thị trường chứng khoán, cws nghe họ phỏng vấn trên truyền hình là F nên mua cổ phiếu này  cái nọ hay đọc báo. Mỗi lần mình nhà là qua hôm sau thấy xuống g te tua. Sau này Chán Mớ Đời mình đi học. Ông thầy giải thích là khi họ muốn bán cổ về phiếu thì trả tiền hay được mời lên đài truyền hình phỏng vấn. Ai nấy tin chạy đi mua thì họ bán ra nên lên ào ào sau đó thì xuống như gió mùa thu thổi lá khô thì họ lại mua vào. 


Nhớ dạo ông Gorbachov mới lên ngôi. Ông ta cho người đi tham quan các nước Âu châu. Điển hình ở Anh quốc, các chuyên gia liên Xô kinh tế được gửi đi, kêu họ muốn viếng thăm nhà máy sản xuất bánh mì khiến các đối tác Anh quốc ngọng. Nói không có nhà máy bánh mì, chỉ có lò bánh mì tại địa phương, họ không tin nên kêu dẫn đi xem. Họ không thấy người Anh quốc sắp hàng như bên Liên Xô, khám phá ra các lò bánh mì mỗi ngày, làm đủ bánh mì bán cho người dân sinh sống trong vùng. Nếu họ đi nghỉ hè thì ghi tên lò bánh mì nào đó có thể làm nhiều bánh mì hơn mọi khi để bù cho tiệm đóng cửa đi nghỉ hè. Vụ này khi xưa ở Paris vào tháng 7 và tháng 8, các lò bánh mì đều treo bảng đi nghỉ hè và tiệm nào gần nhất mở cửa. Cho thấy Liên Xô có biết bao nhiêu người giỏi nhưng lại không thể nào sản xuất được đủ bánh mì cho dân ăn. Vì họ đã xoá bỏ các kinh nghiệm của quá khứ từ mấy ngàn năm qua để làm một cuộc cách mạng mới. 


Điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng: Liệu bất kỳ một cơ quan nào, ngay cả những người có trí tuệ nhất trong giới tinh hoa, có thể hiểu đầy đủ sự phức tạp của kiến ​​thức phân tán như vậy không? Quan điểm của Hayek và lịch sử thường đồng tình với quan điểm này là một câu trả lời dứt khoát: Không. Ông gọi niềm tin rằng kế hoạch hóa tập trung có thể khai thác và sử dụng hiệu quả tất cả kiến ​​thức của xã hội là “sự tự phụ chết người”. Điều này ám chỉ đến giả định sai lầm rằng một cơ quan trung ương duy nhất sở hữu trí tuệ và năng lực để quản lý một nền kinh tế hoặc xã hội. Chúng ta thấy gương của Liên Xô, Cuba,…


Ví dụ về các dự án phát triển đô thị, trong nỗ lực "hiện đại hóa", đã buộc vô số gia đình phải di dời mà không đưa ra được giải pháp thay thế khả thi nào. Giờ hãy tưởng tượng nếu chính những cộng đồng đó, với kiến ​​thức địa phương phức tạp của họ, được tham vấn. Họ sẽ cung cấp thông tin về nhu cầu của hàng xóm, lịch sử không gian chung của họ, v.v. Họ có thể đã đề xuất những sửa đổi để bảo tồn trung tâm khu phố, đồng thời vẫn phù hợp với sự tiến bộ. Những ví dụ như vậy cho thấy mối nguy hiểm của việc loại trừ kiến ​​thức địa phương, phân tán khỏi quá trình ra quyết định từ trên xuống.


Khi xưa, mình vẽ nhà cho khách hàng. Trước tiên phải họ muốn gì, ngân sách bao nhiêu rồi vẽ sơ sơ cho họ xem để họ cho thêm ý kiến, từ từ mới thành hình được căn nhà như ý của họ và ngân sách mà họ có thẻ bỏ ra để xây cất.


 Con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý định tốt đẹp. Dạo còn sinh viên, mình thấy mấy khu vực được xây dựng bởi các kiến trúc sư thiên tả và các thành phố thiên tả, xây cất các chung cư chọc trời như Bobigny, Nanterre,.. sau này họ phải đập bỏ vì không gian của những chung cư HLM này, gây nhiều tội ác và dân thường không dám ở. Sự việc này cũng xẩy ra tại Hoa Kỳ, ở Michigan, họ cũng phải đập bỏ. Mình có kể rồi. 


Cách diễn giải kiến ​​thức của giới tinh hoa có thể dẫn dắt sai lệch các sáng kiến ​​công bằng xã hội như thế nào. Lý do là vì những ý định, ngay cả khi được cho là được hỗ trợ bởi những hiểu biết sâu sắc, thường gặp phải những thách thức không lường trước được. Những phức tạp nảy sinh khi các chính sách từ trên xuống, được thúc đẩy bởi những kiến ​​thức tinh hoa như vậy, vô tình tạo ra những kết quả trái ngược với mục tiêu ban đầu của chúng. Điển hình vụ bắt chim bên Trung Cộng dưới thời Mao Trạch Đông khiến côn trùng không bị chim ăn nên tàn phá hết mùa màng. 


Các chính sách hành động tích cực với ý định tốt đẹp thường đưa đến những kết quả khôn lường trước. Chúng được thiết kế để giải quyết tình trạng đại diện không đầy đủ của một số nhóm nhất định, đặc biệt là các nhóm thiểu số về chủng tộc và sắc tộc, trong các cơ sở giáo dục. Nhưng những gì nghe có vẻ cao quý trên lý thuyết đôi khi có thể dẫn đến những hậu quả không mong muốn. 


Hãy xem xét hệ thống Đại học California chẳng hạn. Trong thời kỳ chính sách ưu tiên tuyển sinh, sinh viên da đen và gốc la-tinh được nhận vào trường đại học danh tiếng UC Berkeley có điểm SAT chỉ cao hơn mức trung bình toàn quốc một chút. Trong khi đó, sinh viên da trắng có điểm SAT trung bình cao hơn 200 điểm. Sự chênh lệch đáng kể này đã dẫn đến một kết quả đáng tiếc: khi sinh viên, bất kể xuất thân, thấy mình đang học tại những trường có tiêu chuẩn học thuật vượt xa trình độ của chính mình, họ có thể gặp khó khăn trong học tập. Vụ này khi mình mới sang Hoa Kỳ chơi, có anh bạn đang làm luận án tại MIT, có kể cho mình vụ này.


Nhưng hóa ra hậu quả còn vượt xa những khó khăn học tập cá nhân. Sau khi cử tri California quyết định chấm dứt chính sách ưu tiên tuyển sinh, UC Berkeley đã chứng kiến ​​sự sụt giảm trong số lượng sinh viên da đen và gốc la-tinh được nhận vào. Tuy nhiên, nghịch lý thay, tỷ lệ tốt nghiệp chung của các nhóm thiểu số này trên toàn hệ thống UC lại tăng lên. Hơn nữa, tỷ lệ này đã tăng 51%.


Sự gia tăng đột biến về số lượng sinh viên thiểu số tốt nghiệp với bằng cấp STEM. Điều này cho thấy sinh viên đã phát triển mạnh mẽ khi họ theo đuổi con đường học vấn phù hợp hơn với trình độ của mình, mà không bị bóp méo bởi chính sách ưu tiên. Mình nghe kể ở Việt Nam được tuyển vào đại học, có vụ cho thêm điểm nếu gia đình có công với cách mạng, dù không học giỏi, thêm nạn chạy điểm, mua bằng,…


Câu chuyện cũng không khác mấy khi nói đến các sáng kiến ​​công bằng xã hội khác, chẳng hạn như luật về tội phạm tiến bộ. Vào những năm 1960, các nhà lập pháp đã theo đuổi một loạt luật về tội phạm tiến bộ, nhằm giải quyết những bất công được nhận thức trong hệ thống tư pháp hình sự. Mục tiêu rất rõ ràng: khắc phục sự mất cân bằng mang tính hệ thống và cung cấp một cách tiếp cận công lý nhân đạo và công bằng hơn.


Sau khi luật được thông qua, tỷ lệ giết người đã tăng vọt đáng báo động, đặc biệt là ở nam giới không phải da trắng. Cùng với đó là sự gia tăng đáng kể số trẻ em da đen được sinh ra từ các bà mẹ chưa kết hôn, tỷ lệ này tăng gấp bốn lần. Chắc chắn, ý định đằng sau sự mềm mỏng hơn Luật hình sự là để thúc đẩy công bằng xã hội và giảm bớt các hình phạt khắc nghiệt. Tuy nhiên, hậu quả không mong muốn đã gây bất ổn cho toàn bộ cộng đồng và dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội sâu sắc, nhiều hậu quả trong số đó vẫn còn tiếp diễn cho đến hiện tại. Tiểu bang Cali ra luật nếu ăn cướp, ăn cắp dưới $900 sẽ không bị bắt hay đưa ra toà khiến thành phố San Francisco bị loạn. Thiên hạ vào siêu thị lấy đồ không trả khiến các diệu thị, tiệm đóng cửa.


Liệu chúng ta, trong quá trình theo đuổi công lý, có vô tình gieo mầm bất công hay không? Liệu chúng ta có đang để quyền lực trong tay một số ít người quyết định số phận của nhiều người, đôi khi dẫn đến những hậu quả tiêu cực không mong muốn?


Mặc dù việc theo đuổi công bằng xã hội là cao cả, nhưng nó cần phải dựa trên bằng chứng thực nghiệm và những hiểu biết sâu sắc mang tính địa phương. Nếu không, những lựa chọn khác chỉ tiếp tục gây ra những bất công nghiêm trọng cho các cộng đồng bị thiệt thòi. Thay vào đó, để thay đổi thực sự diễn ra, nó cần xuất phát từ sự hiểu biết chân thành về những hoàn cảnh đặc thù, thay vì bị áp đặt từ trên xuống.


Trước khi các chương trình xã hội của chính phủ được triển khai rộng rãi vào những năm 1960, người Mỹ da đen đã đạt được những bước tiến trong các lĩnh vực như sở hữu doanh nghiệp, tỷ lệ biết chữ và giảm nghèo. Cuối cùng, tiến bộ bền vững không chỉ là các chính sách bao quát mà còn là sự thấu hiểu, thích nghi và cho phép cộng đồng tự tạo ra vận mệnh của riêng mình.


Hãy lấy việc kiểm soát tiền thuê nhà ở Cali làm ví dụ. Theo tin tức thì tiểu bang hiện nay cần có thêm 5.5 triệu căn hộ. Mình đoán là dân ở lậu rất đông. Một nỗ lực thiện chí nhằm giúp nhà ở trở nên dễ tiếp cận hơn với mọi người qua các đạo luật Rent control. Nhưng khi chủ nhà bị giới hạn bởi mức giá trần, họ có thể sẽ lơ là việc bảo trì vì họ không được phép tăng tiền thuê nhà. Theo thời gian, điều này dẫn đến chất lượng nhà ở giảm sút. Và đó chưa phải là tất cả. Các nhà đầu tư có thể cân nhắc lại việc xây dựng nhà hoặc căn hộ mới khi biên lợi nhuận giảm. Vì vậy, thay vì nhà ở giá rẻ hơn, chúng ta có thể thấy mình có ít lựa chọn nhà ở hơn. Với Cali thì tiền thuê nhà lên như diều.


Gần đây, họ cho ra đời luật tại Cali có thể xây đến 6 tầng, và cạnh khu dân cư nhà một tầng có thể xây chung cư bất chấp các hoạch định của thành phố. Vụ cháy nhà ở Malibu, đa số sẽ không có khả năng xây lại nhà mới. Và sẽ phải bán rẻ cho các nhà đầu tư địa ốc để xây chung cư.


Những nguyên tắc tương tự cũng có thể được áp dụng cho luật lương tối thiểu. Nhìn bề ngoài, việc đảm bảo mọi người đều được hưởng mức lương xứng đáng nghe có vẻ là một chiến thắng, phải không? Cali ra đạo luật một giờ tối thiểu cho nhân công là $25 khiến công ty 99 Cents phá sản. Là nơi dân nghèo đến mua sắm các món đồ chưa đến $1.00. Nhưng các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, thường gặp khó khăn trong việc theo kịp mức tăng lương áp đặt. Họ có thể bắt đầu cắt giảm chi phí, giảm giờ làm, hoặc thậm chí tệ hơn là sa thải công nhân. Năm ngoái thiên hạ kêu mình đòi bán mấy tiệm Pizza Hut của họ khiến mình thất kinh, vì giá trước đây 4 năm gấp đôi. Đọc tài liệu thì khám phá công ty này phá sản, đóng cửa trên 1,000 tiệm. Anh bán pizza có $10 mà trả lương cho nhân công giao hàng $25/ giờ chưa kể tiền bảo hiểm, đủ trò.


Đây không phải là một số bản ngày tận thế - đó chỉ là một phản ứng đơn giản trước một môi trường đang thay đổi. Và những người thường chịu thiệt hại nhiều nhất là ai? Những người lao động trẻ, thiếu kinh nghiệm, những người hiện đang coi là quá trẻ ít kinh nghiệm để thuê, cản trở họ gia nhập nhân lượng lao động. Pizza là món ăn rẻ nhất nhưng nay người có lợi tức kém không được ăn.


Vì vậy, với những hậu quả không mong muốn xảy ra hết lần này đến lần khác, khiến chúng ta phải tự hỏi tại sao những chính sách như vậy lại được áp dụng. Liệu có đôi lúc, các chương trình nghị luận chính trị có làm mờ đi phúc lợi kinh tế dài hạn hay không? Cuối cùng, việc đưa ra các biện pháp kiểm soát giá cả có thể là một lời hứa hẹn hấp dẫn trong bầu cử. Nhưng mặc dù nó có thể được bầu cử trong thời gian ngắn, nhưng người dân nói chung mới phải đối mặt với những hậu quả dài.


Đây là lý do tại sao trong quá trình tìm kiếm công lý xã hội và xã hội công bằng, việc xem xét kỹ thuật mọi chính sách, ngay cả những chính sách chắc chắn như mục tiêu làm cho xã hội tốt đẹp hơn, là vô cùng quan trọng. Chúng ta phải nhớ rằng con người, dù là người tiêu dùng hay nhà sản xuất, đều phản ứng với môi trường của họ. Và như chúng ta đã tìm thấy, một mẫu chung cho tất cả các giải pháp, dù có thiện chí đến đâu, thường gây hại nhiều hơn là có lợi.


Vậy, nếu các giải pháp chung cho tất cả không phải là câu trả lời cho các vấn đề xã hội, làm thế nào chúng ta có thể bắt đầu giải quyết những phức tạp dẫn đến sự chênh lệch lớn như vậy giữa các chủng tộc? Chìa khóa nằm ở việc hiểu được vô số yếu tố, từ cấu trúc gia đình đến giáo dục và địa lý, góp phần vào những kết quả này. Bằng cách tìm hiểu những phức tạp này thay vì dựa vào những khái quát chung chung, chúng ta có thể có được bức tranh toàn cảnh hơn về gốc rễ của nhiều vấn đề xã hội.


Bắt đầu bằng việc xem xét tác động sâu sắc của cấu trúc gia đình đối với kết quả kinh tế xã hội. Ở Hoa Kỳ, các gia đình chỉ có cha đơn thân hoặc mẹ đơn thân, bất kể chủng tộc, thường phải đối mặt với tỷ lệ nghèo đói cao hơn so với các hộ gia đình có cả cha và mẹ. Để minh họa điều này, hãy lấy thực tế là các gia đình chỉ có cha hoặc mẹ da trắng có tỷ lệ nghèo đói thậm chí còn vượt xa các gia đình có cả cha và mẹ da đen. 


Các mô hình này nhấn mạnh sự tương tác phức tạp của các yếu tố kinh tế xã hội trong việc xác định sự chênh lệch, thách thức quan điểm đơn giản về di truyền hoặc phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc. Như trường hợp ông Giuliani, khi ông ta lên làm thị trưởng thành phố New York, người ta ca tụng ông ta và vị cảnh sát trưởng là đã làm giảm thiểu số tệ nạn xã hội tại thành phố. Đến khi thành phố los Angeles mướn ông cảnh sát trưởng thì tệ nạn xã hội không giảm. Người ta mới khám phá ra là cách đó 20 năm có luật cho phép phá thai và thuốc ngừa thai nên tỷ lệ con không cha giảm sút đưa đến tệ nạn xã hội giảm.


Giáo dục càng làm mọi thứ trở nên phức tạp hơn. Ví dụ, các nhóm dân tộc châu Á ở Hoa Kỳ, bao gồm người Mỹ gốc Hoa, Nhật Bản và Ấn Độ, thường kiếm được nhiều tiền hơn đáng kể so với người Mỹ gốc Mexico. Nhưng đây không chỉ là câu chuyện về sự khác biệt chủng tộc, nó còn liên quan mật thiết đến sự chênh lệch về trình độ học vấn. Nếu chúng ta mở rộng góc nhìn khi giải quyết những vấn đề này, chúng ta sẽ thấy rằng giáo dục là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định kết quả kinh tế giữa các chủng tộc.


Vị trí địa lý cũng đóng một vai trò không thể bỏ qua. Các cộng đồng miền núi biệt lập, bất kể chủng tộc nào chiếm đa số, thường có thu nhập thấp hơn mức trung bình. Ví dụ, các cộng đồng chủ yếu là người da trắng ở vùng Appalachia có thu nhập thấp hơn mức thu nhập trung bình của người Mỹ gốc Phi. Hôm qua đi ăn ở nghỉ dưỡng Ritz Carlton, mình thấy rất nhiều người gốc da đen ngụ tại đây.


Chúng ta thậm chí có thể tìm hiểu các mô hình hành vi vượt qua ranh giới chủng tộc, tác động đến kết quả kinh tế xã hội. Sự gia tăng số ca sinh của các bà mẹ chưa kết hôn trong những năm 1960 ở cả cộng đồng người Mỹ da trắng và da đen không phải là hậu quả của di truyền hay chủng tộc mà gắn liền với các chính sách phúc lợi đang phát triển.


Điển hình ngày nay, các người di dân lậu đến Hoa Kỳ, việc đầu tiên là họ có bầu sinh con đẻ cái tại đây. Đứa con sẽ có quốc tịch Hoa Kỳ, dưới 18 tuổi thì họ không dám dẫn độ về nước. Có thể chính quyền Trump sẽ thay đổi luật lệ này. Để tránh những vụ đi du lịch để như người Tàu sang đây ở vài tháng trước khi sinh nở rồi khi con có giấy tờ quốc tịch Hoa Kỳ thì ẩm con về nhà chồng ở Trung Cộng.


Và đừng quên chuyện kiểm tra IQ. Hãy xem xét những người lính trong Thế chiến thứ nhất. Một số binh lính da trắng từ các tiểu bang cụ thể có điểm số thấp hơn binh lính da đen từ miền Bắc, cho thấy vai trò của môi trường và giáo dục hơn là di truyền đơn thuần.


Và đừng quên thế giới của bài kiểm tra IQ. Hãy xem xét những người lính trong Thế chiến thứ nhất. Một số binh lính da trắng từ các tiểu bang cụ thể có điểm số thấp hơn binh lính da đen từ miền Bắc, cho thấy vai trò của môi trường và giáo dục hơn là yếu tố di truyền.


Cuối cùng, chúng ta phải thừa nhận rằng cấu trúc xã hội và sự chênh lệch của chúng ta là kết quả của vô số yếu tố chứ không chỉ riêng chủng tộc. Và giờ đây, khi chúng ta đã phân tích được một vài yếu tố trong số này, có lẽ chúng ta thấy cần phải có những hiểu biết sâu sắc hơn, toàn diện hơn về các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống trước khi các nhà hoạch định chính sách bắt tay vào nỗ lực cải thiện mọi thứ dựa trên thế giới quan chính trị của họ. Chúng ta không nên để truyền thông hay các học giả định hướng chúng ta như con chó của Palov. Cứ nghe đến Trump là chửi Maga, nghe đến Biden là chửi Dân Chửi. Cố tìm tài liệu ngoài luồng đọc. Khi mình đi học về thương lượng, họ giải thích khi ai đó nói về vấn đề gì đó, họ đưa ra lý luận rất hợp tình hợp lý nhưng chúng ta phải đào sâu để hiểu lý do chính.


Kiến thức không chỉ bao gồm những hiểu biết hàn lâm – mà còn là sự kết hợp kinh nghiệm của tất cả mọi người. Đây là điều Friedrich Hayek nhấn mạnh khi ông lưu ý rằng kiến ​​thức được phân tán giữa mọi người, giống như hàng hóa trên thị trường, nơi những đóng góp cá nhân tạo nên kiến ​​thức tập thể. Tuy nhiên, sức mạnh của kiến ​​thức phân tán thường bị giới tinh hoa trí thức bỏ qua, những người mà những kế hoạch đầy thiện chí của họ có thể vô tình dẫn đến những hậu quả không lường trước được, chẳng hạn như suy thoái kinh tế. Tương tự, các chính sách như hành động khẳng định hoặc luật hình sự nhẹ nhàng hơn đôi khi có thể gây ra những hậu quả không lường trước được. Và việc kiểm soát giá cả, mặc dù hấp dẫn, thường dẫn đến tình trạng thiếu hụt hoặc chất lượng giảm sút do những tác động không mong muốn lên động lực cung và cầu. Cuối cùng, sự chênh lệch về chủng tộc không chỉ bắt nguồn từ sự phân biệt đối xử chúng còn liên quan đến giáo dục, cấu trúc gia đình, địa lý. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Vitamin K và bệnh Tim mạch

  Vitamin K và Tim mạch


Có lần chị bạn gửi cho mình coupon để đi scan cơ thể xem có vấn đề gì không. Kết quả cho thấy có hai vấn đề: có cục bướu ở pancreas và có dấu hiệu có chất vôi trong mạch máu có thể làm nghẽn máu lưu thông khiến mình hoảng tiều đi bác sĩ và mổ lấy cục bứu ra, kết quả khám nghiệm thì bứu lành. Trong khi chờ đợi kết quả thử nghiệm cục bứu mình đọc một lèo 5 cuốn về ung thư trong suốt 2 tuần lễ. Khi kết quả cho thấy bứu lành thì bắt đầu lo đến vụ chất vôi trong mạch máu.


 
Mình mò trên mạng thì khám phá một ông mỹ, hóa học gia kêu bác sĩ cho ông ta 6 tháng để sống vì có dấu hiệu chất vôi đóng đầy ở van tim. Ông ta buồn đời nhưng thấy vẫn còn muốn sống nên nghiên cứu để tự chữa lấy mình vì bác sĩ bó tay chấm còm rồi. Ông ta khám phá ra cơ thể cần sinh tố K2 ngăn chặn sự kết của chất vôi trong huyết quản nên uống sinh tố K2 và được chữa lành đồng thời làm răng ông ta tốt chắc hơn. Mình bắt chước uống sinh tố K2 và từ mấy năm nay có thể leo lên đỉnh Kilimanjaro hay Whitney. 

Mình có kể vụ này, gần đây có nhiều người nhắn tin hỏi mình lại vụ này vì họ có đọc mấy năm trước đây, nay có lẻ lâm vào tình trạng này nên nhắn tin hỏi mình. Gần đây mình đọc thêm những gì ông Mỹ viết tiếp sau khi tự chữa được vụ vôi đóng ở mạch máu gần van tim nên tóm tắc lại đây. 


Có một tiến sĩ giáo sư đại học Cornell có nghiên cứu về người Tàu, gọi là China Study. Họ theo dõi 20 năm người Tàu mỗi vùng thì khám phá ra những vùng ăn rau quả, ăn chay nhiều thì ít bệnh hơn các vùng ăn thịt nhiều. (Thời trước Trung Cộng đổi mới). Một ông bác sĩ mỗ tim khác hình như mình có kể về hai ông này rồi, cũng kêu bệnh nhân ăn chay nhất là Kale vì có sinh tố K.


Mình đọc sách nói về giúp trí nhớ khi về già, thì cần đọc những sách báo khô khan, giúp vận trí não bộ nên mình cố gắng mấy vụ, khó nuốt nhưng để giúp não bộ làm việc nên tóm tắt lại đây.


Trong trang này, chúng tôi trình bày những hiểu biết về các nghiên cứu đã được thực hiện về vitamin K và sức khỏe tim mạch. Bệnh tim mạch ảnh hưởng đến hàng triệu người mỗi năm, và hiện nay có rất ít phương pháp điều trị hiệu quả, hoặc các phương pháp điều trị y tế mang tính chất xâm lấn và phẫu thuật, hoặc các phương pháp điều trị liên quan đến thuốc theo toa thường có tác dụng phụ độc hại. Người ta đã biết rằng các protein phụ thuộc vitamin K2 kích hoạt cơ chế bảo vệ ngăn ngừa sự phát triển của vôi hóa mạch máu (Rees và cộng sự, 2010; Wen và cộng sự, 2018). Ông ta nói đến các tài liệu mà ông ta đọc. Mình chỉ ghi lại nhưng lười đọc các kết quả dẫn chứng nên bác nào tò mò thì tra cứu mà đọc. Đọc bài này đủ oải cho cái đầu nông dân của em. Thêm phải đọc mấy kết quả thử nghiệm là đời em cô đơn luôn.


Nghiên cứu mới về vitamin K và sức khỏe tim mạch rất nhiều và lần đầu tiên, y khoa có thể đảo ngược bệnh tim như trường hợp ông ta. Họ xem xét các xu hướng trong nghiên cứu, những hiểu biết mới về sinh hóa của vitamin K trong cơ thể, hiểu biết về cách thiếu vitamin K góp phần vào quá trình bệnh tim và cách bổ sung vitamin K để phục hồi sức khỏe cho động mạch tim và hệ tim mạch nói chung. 


Bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong ở các nước phương Tây và xơ vữa động mạch là bệnh nền phổ biến nhất. Xơ vữa động mạch là một bệnh trong đó mảng bám hình thành và tích tụ trong thành động mạch. Quá trình bệnh xơ vữa động mạch bắt đầu bằng tổn thương mạch máu. Tổn thương mạch máu có thể là “tổn thương” cơ học, “tổn thương” hóa học hoặc tổn thương do vi khuẩn có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Xin nhắc lại ở mọi lứa tuổi. Những “tổn thương” này sau đó dẫn đến tình trạng viêm tiếp theo (các tế bào phát triển ở nơi không nên phát triển) trong động mạch, dẫn đến stress oxy hóa, sau đó là hình thành mảng bám và cuối cùng là vôi hóa tại vị trí đó. Viêm cấp độ thấp đã được chứng minh là có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành xơ vữa động mạch, như nghiên cứu Ross (1999) đã chỉ ra. Đánh giá protein C phản ứng nhạy cảm cao (hs-CRP), một dấu hiệu viêm đã được chứng nhận, là cơ bản trong việc phân loại dân số có nguy cơ mắc CAD thấp, trung bình hoặc cao (Pearson et al, 2003).


Xơ vữa động mạch là bệnh điển hình ở trẻ em dưới 5 tuổi và sau đó biến mất. Lửa Việt nhận đơn xin mỗ tim cho các em tại Việt Nam hàng năm. Nghe nói khi có thai người mẹ ăn uống không có nhiều chất bổ. Xơ vữa động mạch sau đó có thể tái phát sớm nhất là vào thập kỷ thứ hai của cuộc đời và gần như phổ biến trong dân số vào khoảng 65 tuổi (Shanahan và cộng sự, 1998). Sự gia tăng về phạm vi và mức độ nghiêm trọng của tình trạng vôi hóa xảy ra khi tuổi tác tăng lên là do bệnh nhân mang trong mình và sống sót sau tình trạng xơ vữa động mạch đang hoạt động, lan rộng và viêm trong một thời gian dài. Xơ vữa động mạch có thể ảnh hưởng đến bất kỳ động mạch nào trong cơ thể, bao gồm các động mạch ở tim, não, cánh tay, chân, xương chậu, cổ và thận, và xảy ra liên quan đến nhiều loại bệnh khác nhau, bao gồm tiểu đường và urê huyết. Xơ vữa động mạch thường là một bệnh mãn tính, tiến triển chậm và tích tụ (Glass, 2001; Demer & Tintut, 2008).


Mảng bám được tạo thành từ chất béo, cholesterol, canxi và các chất khác có trong máu. Theo thời gian, mảng bám tích tụ và làm hẹp hoặc chặn động mạch của bạn, hạn chế dòng máu giàu oxy đến các cơ quan và các bộ phận khác của cơ thể bạn. Tình trạng này được gọi là thiếu máu cục bộ. Một số mảng bám không biểu hiện triệu chứng lâm sàng và được coi là ổn định trong thời gian dài. Mảng bám ổn định có xu hướng không có triệu chứng và giàu ma trận ngoại bào và tế bào cơ trơn. Các mảng bám khác không ổn định và nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng giàu đại thực bào và tế bào bọt với ma trận ngoại bào yếu và dễ bị vỡ (Davies, 1990; Davies, 1996; Huang và cộng sự, 2001; Finn và cộng sự, 2010), vì nó có thể trở nên giòn và vôi hóa (Aikawa và cộng sự, 2007; Alexopolous & Raggi 2009). Sự vôi hóa làm giảm độ đàn hồi của mạch máu và làm tăng ứng suất cắt tại giao diện giữa các mảng canxi hóa và mô mềm (Wayhs et al, 2002; Spadaro et al., 2000; Keelan et al., 2001; Sangiori 1998; Vliegenthart et al., 2005), hình thành phình động mạch có thể vỡ (Derlin et al. 2011; Vengrenyuk et al., 2008; Rennenberg et al., 2009).


Sự vỡ mạch làm lộ cục máu đông ra ngoài hệ tuần hoàn, làm chậm hoặc ngừng lưu thông máu nhanh chóng, dẫn đến hoại tử các mô được động mạch nuôi dưỡng trong khoảng năm phút. Sự kiện thảm khốc này được gọi là nhồi máu cơ tim. Một trường hợp phổ biến là cục máu đông trong động mạch vành, gây ra nhồi máu cơ tim hoặc đau tim. Quá trình tương tự này trong động mạch não thường được gọi là đột quỵ (Ehara và cộng sự, 2004).


Bệnh tim mạch: Trục mạch máu-xương


Vôi hóa mạch máu trước đây được coi là một quá trình thụ động, không thể tránh khỏi và thoái hóa, dẫn đến các khoáng chất tích tụ trong mạch máu, xảy ra ở giai đoạn cuối của xơ vữa động mạch và được coi là bệnh của người già (Schinke và Karsenty, 2000; Demer và Tintut, 2008). Quan điểm này đã thay đổi và hiện nay người ta hiểu rằng vôi hóa mạch máu là một quá trình phức tạp và được điều hòa tích cực liên quan đến các tế bào mạch máu và một số protein phụ thuộc vitamin K, và có nhiều đặc điểm chung với quá trình tạo xương (Shanahan và cộng sự, 2000; Bostrom, 2000; Campbell và Campbell, 2000; Canfield và cộng sự, 2000; Mody và cộng sự, 2003; Doherty và cộng sự, 2003). Nghiên cứu chỉ ra rằng MGP và osteopontin, cả hai đều là protein liên kết với xương, được biểu hiện nhiều trong các mảng xơ vữa động mạch ở người (Shanahan và cộng sự, 1994; O’Brien và cộng sự, 1995; Shanahan và cộng sự, 1998; Dhore và cộng sự, 2001; Viegas và cộng sự, 2009), với nồng độ MGP cao nhất được tìm thấy ở các vùng giàu lipid của mảng bám.


Nghiên cứu về vôi hóa mạch máu đã gia tăng đáng kể trong thập kỷ qua và các chuỗi tín hiệu phân tử đa dạng và được điều chỉnh cao kiểm soát vôi hóa mạch máu đã được mô tả. Có vẻ như vôi hóa mạch máu là kết quả của sự mất cân bằng giữa các chất thúc đẩy và chất ức chế khoáng hóa trong thành mạch máu, dẫn đến việc tạo ra sự lắng đọng vôi hóa có tổ chức (Willems và cộng sự, 2014). Các tác nhân khởi đầu cơ bản của quá trình vôi hóa mất điều hòa rất đa dạng, từ biểu hiện của các protein liên quan đến xương, đến sự biệt hóa của các tế bào cơ trơn thành các tế bào giống tế bào tạo xương, đến việc giải phóng các thể apoptosis bị phân mảnh và khoáng hóa bởi các tế bào cơ trơn, hoạt động như một vị trí tạo mầm. Điều quan trọng là quá trình này liên quan đến sự tương tác phức tạp giữa các protein phụ thuộc vitamin K, chẳng hạn như MGP, GRP và GAS6 (Tesfamariam, 2019).


Vôi hóa mạch máu có thể được phân loại thành hai phân nhóm riêng biệt tùy thuộc vào vị trí của nó: trong lớp nội mạc hoặc lớp giữa (Van den Bergh và cộng sự, 2019). Vôi hóa nội mạc xảy ra trên bề mặt của các mảng xơ vữa động mạch và biểu hiện gánh nặng mảng bám và hẹp lòng mạch, trong khi vôi hóa giữa liên quan đến lớp cơ và biểu hiện là cứng và giảm độ đàn hồi của mạch máu. Vôi hóa nội mạc chủ yếu được quan sát thấy ở động mạch vành. Vôi hóa giữa thường được quan sát thấy ở các động mạch ngoại vi và ít phổ biến hơn ở bệnh động mạch vành. Nó liên quan đến lão hóa, tiểu đường, tăng huyết áp, loãng xương và bệnh thận mãn tính (Giachelli, 2004). Vôi hóa giữa được mô tả là xơ cứng động mạch, mất tính đàn hồi và cứng (Kamenskiy và cộng sự, 2018). 


Nghiên cứu hiện tại bao gồm các nỗ lực xác định các tương tác phức tạp giữa các chất trung gian tế bào và phân tử của vôi hóa động mạch và vai trò của các chất ức chế vôi hóa nội sinh. (Belovici và Pandele, 2008). Nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng các protein phụ thuộc vitamin K đóng vai trò thiết yếu trong quá trình vôi hóa mạch máu (Zak-Golab, 2011). Các phân tử tại chỗ và lưu thông như osteopontin, osteoprogerin, leptin, osteocalcin và protein ma trận Gla được xác định là các chất điều hòa quan trọng của quá trình vôi hóa mạch máu và tất cả chúng đều phụ thuộc vào vitamin K để được kích hoạt và sử dụng (Mazzini, et al, 2006; Luo et al, 2009; Nicoll et al, 2015; Tacey et al, 2018).


Nồng độ vitamin K thấp dẫn đến sản xuất các protein chưa được carboxyl hóa và làm suy yếu hoạt động của các chất ức chế canxi hóa chứa Gla (Lomashvili và cộng sự, 2011). Sự thất bại của quá trình carboxyl hóa dẫn đến một loạt các sự kiện dẫn đến vôi hóa mạch máu hoặc đột quỵ (Wessinger và cộng sự, 2020). Sự giảm các protein carboxyl hóa hoặc giảm tỷ lệ các dạng carboxyl hóa so với các dạng không carboxyl hóa không hoạt động sẽ thúc đẩy quá trình canxi hóa (Tesfamariam, 2019).


Vitamin K cũng có liên quan đến elastin trong hệ thống mạch máu, giúp các tĩnh mạch và động mạch linh hoạt. Các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành (De Brouwer và cộng sự, 2016; Janssen & Vermeer, 2017; Lindholt và cộng sự, 2018)


Bệnh tim mạch và các protein phụ thuộc vitamin K.


Một số protein phụ thuộc vitamin K (VKDP) đã được xác định là có liên quan đến việc điều hòa quá trình canxi hóa và chuyển hóa canxi mạch máu, bao gồm osteocalcin, protein giàu gla, Gas6 và protein nền Gla (Viegas và cộng sự, 2014; Willem và cộng sự, 2014; Kaesler và cộng sự, 2016). Trong số các protein này, protein nền Gla phụ thuộc vitamin K (MGP) đóng vai trò chủ đạo (Hofbauer và cộng sự, 2007; Schurgers và cộng sự, 2008). Protein ma trận Gla là một protein nhỏ phụ thuộc vitamin K chứa năm gốc axit gamma-carboxyglutamic (Gla) được cho là quan trọng trong việc liên kết các tinh thể canxi Ca (2+) và protein hình thành xương (Srivatsa và cộng sự, 1997; Luo và cộng sự, 1997; Shanahan và cộng sự, 1998; Price và cộng sự, 1985). Protein hình thành xương đề cập đến các protein tạo ra sự hình thành và cấu trúc của xương.


Các protein chứa Gla có các gốc axit glutamic phải được gamma-carboxyl hóa bởi gamma-glutamyl carboxylase phụ thuộc vitamin K, GGCX. Các gốc axit glutamic cụ thể trong protein được xúc tác bởi phản ứng trung gian bởi enzyme để tạo thành axit glutamic biến đổi được gọi là axit γ-carboxyglutamic trong một số protein VKD để cho phép chúng liên kết canxi và hoạt động bình thường và hiệu quả. Phản ứng enzyme này, được gọi là γ-carboxyl hóa, hoặc gamma-carboxyl hóa, cần vitamin K để quá trình carboxyl hóa và chuyển dạng diễn ra. Sự chuyển dạng này là cần thiết để các protein này hoạt động và liên kết với canxi, sau đó cho phép Gla-MGP dồi dào được tìm thấy trong thành động mạch, với sự giảm canxi hóa mạch máu sau đó. Khi MGP liên kết với canxi, nó ức chế quá trình canxi hóa (Jaminon và cộng sự, 2020).


Khi MGP được carboxyl hóa và chuyển dạng thành protein Gla, nó cho phép MGP liên kết với nhân tinh thể trong hydroxyapatite và trao quyền cho MGP liên kết và ức chế BMP-2, một yếu tố tăng trưởng kích thích canxi hóa mạch máu (Wallin và cộng sự, 2000). Sự liên kết này ngăn ngừa sự tích tụ của chúng trong thành động mạch. Đồng thời, MGP tạo ra một phức hợp với BMP-2, ngăn chặn sự liên kết của BMP-2 với thụ thể có ái lực cao của nó và ngăn chặn các tín hiệu hạ lưu dẫn đến canxi hóa mạch máu (Wolinsky, 1970).


Đặc biệt, MGP trải qua quá trình phosphoryl hóa các gốc serine của nó, một quá trình có thể điều chỉnh thêm hoạt động của nó và cũng phụ thuộc vào sự sẵn có của vitamin K (Price và cộng sự, 1994). Serine là một axit amin được sử dụng trong quá trình sinh tổng hợp protein và phosphoryl hóa là cơ chế chính để điều chỉnh hoạt động của protein tế bào. Cả quá trình carboxyl hóa Glu và phosphoryl hóa các gốc serine của MGP đều góp phần vào chức năng của nó như một chất ức chế VC (Schurgers và cộng sự, 2007; lDelanaye và cộng sự, 2014; O’Young và cộng sự, 2011, Rouymeliotis và cộng sự, 2020). Bất kể trạng thái carboxyl hóa, các dạng MGP được phosphoryl hóa và khử phosphoryl hóa đều có ái lực khác nhau đối với liên kết canxi/BMP-2. Do đó, MGP hiện diện trong tuần hoàn ở nhiều trạng thái phosphoryl hóa và carboxyl hóa khác nhau (Cario-Toumaniantz và cộng sự, 2007):

dạng hoạt động của MGP hoặc pcMGP được carboxyl hóa và phosphoryl hóa hoàn toàn–dạng không carboxyl hóa nhưng được phosphoryl hóa (ucMGP hoặc pucMGP)–dạng caboxyl hóa nhưng không được phosphoryl hóa, một phần không hoạt động (dpcMGP)–dạng không carboxyl hóa, khử phosphoryl hóa, hoàn toàn không hoạt động (dpucMGP).


Protein Matrix Gla được biểu hiện chủ yếu bởi các tế bào cơ trơn mạch máu (VSMC là viết tắt của tế bào cơ trơn mạch máu) và bởi các tế bào sụn (tế bào sụn), và là chất ức chế khoáng hóa động mạch quan trọng nhất hiện nay được biết đến. MGP được tổng hợp trong nhiều mô mềm với mức độ biểu hiện cao nhất ở tim, phổi, thận và sụn (Fraser và Price, 1980). Các mô hình động vật cho thấy MGP là chất ức chế mạnh quá trình vôi hóa thành động mạch và sụn, trong khi chuột biến đổi gen không có MGP biểu hiện tình trạng vôi hóa nghiêm trọng và nhanh chóng dẫn đến tử vong sớm do vỡ động mạch chủ tự phát (Luo và cộng sự, 1997; Murshed và cộng sự, 2004). Khi các loài gặm nhấm được bổ sung một liều cao MK7, quá trình vôi hóa bị ức chế. Nhìn chung, MK7 có tác dụng bảo vệ các cấu trúc mạch máu bị tổn thương (Scheiber và cộng sự, 2015). Các bác sĩ đều nói MK7 rất quan trọng nên mình uống thêm loại này.


Các loài MGP trong cả mô và tuần hoàn đã được phát hiện ở quần thể khỏe mạnh và những khác biệt đáng kể đã được tìm thấy ở những bệnh nhân mắc bệnh tim mạch (Cranenburg và cộng sự, 2008; Schurgers và cộng sự, 2005; Jia và cộng sự, 2012; Silaghi và cộng sự, 2016; Wei và cộng sự, 2018). Trong động mạch, MGP hoạt động như một chất ức chế tại chỗ quá trình canxi hóa lớp trung mạc (Price và cộng sự, 1998; Murshed và cộng sự, 2004; Schurgers và cộng sự, 2007; Yao và cộng sự, 2010; Barrett và cộng sự, 2018). Theo một số người, MGP là chất ức chế canxi tự nhiên mạnh nhất được tìm thấy trong cơ thể người (Roumeliotis và cộng sự, 2019) và các dạng của nó có thể là một dấu hiệu có giá trị về sức khỏe vi mạch (Kumric và cộng sự, 2021). Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nồng độ tMGP trong huyết thanh cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân mắc bệnh mạch máu và bệnh xương khớp so với nhóm dân số khỏe mạnh. Và những người tham gia khỏe mạnh dưới 40 tuổi có nồng độ tMGP cao hơn những người trên 40 tuổi. Và ở những người khỏe mạnh, nồng độ tMGP tăng ở những người hút thuốc so với những người không hút thuốc. Nghiên cứu đã thiết lập khoảng tham chiếu cho tMGP là 6-108 ug/L (Silaghi et al, 2019).


Mình đoán là bài này do công ty của ông ta mướn ai viết cho tường tận không thô sơ như mấy năm trước mình đọc. Đọc thì chắc đa số các bác Chán Mớ Đời nhưng nếu chịu khó đọc kỹ thì rất hay. Tóm lại như sau:


* Bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong ở các nước phương Tây.

* Nghiên cứu chỉ ra rằng vôi hóa mạch máu là một quá trình phức tạp và được điều hòa tích cực liên quan đến các protein mô, phụ thuộc vào sự hiện diện của vitamin K.

* Điều này có nghĩa là có thể điều chỉnh hoặc đảo ngược quá trình bệnh bằng cách bổ sung vitamin K. Tử vong sớm không phải là điều không thể tránh khỏi.

* Ngày càng có nhiều nghiên cứu nhấn mạnh những lợi ích sâu sắc của vitamin K đối với sức khỏe tim mạch, bao gồm bảo vệ khỏi bệnh tim, giảm vôi hóa, ức chế sự hình thành vôi hóa và giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim.

* Những người dùng thuốc ảnh hưởng đến vitamin K có thể gặp tác dụng phụ là gây ra bệnh tim.

* Một bộ phận đáng kể dân số được phát hiện bị thiếu hụt vitamin K.

* Vitamin K được hấp thụ từ thực phẩm bổ sung nhiều hơn từ thực phẩm.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn