Con Gái nhà Vua (les filles du roi)

 Con gái của vua, les filles du Roi


Dạo này, lùng bùng vụ ông trump trêu chọc cựu thủ tướng Gia-nã-đại, ông Trudeau, cho rằng Gia-nã-đại là tiểu bang 51 của Hoa Kỳ vì hàng năm, cán cân Mậu dịch hai nước lên đến rất nhiều so với mấy tiểu bang của Hoa Kỳ. Thiên hạ chửi bới đủ trò nhất là mấy ông Tây bà đầm khiến mình buồn cười nhớ đến thời xưa, khi nước pháp cho người đến vùng Québec để chiếm đóng, gọi là France Nouvelle (Tân Pháp quốc) cũng như ở vùng Louisiana territory, thuộc Hoa Kỳ ngày nay để rồi đại đế Nã Phá Luân, buồn đời, bán đất hết, còn chút xíu vùng Québec, sợ mấy ông Anh quốc chiếm đóng luôn nên xúi dục mấy ông Mỹ nông dân nổi dậy chống lại của Anh quốc. Do đó ngày nay Québec thuộc Gia-nã-đại nhưng lại nói tiếng Tây. Mà tiếng Tây ở xứ này rất là khó nghe. Mình nhớ lần đầu xem phim Gia-nã-đại nói tiếng Tây là ngọng quay qua hỏi nhỏ cô bạn đầm, hỏi mày có hiểu không, cô ta cũng đơ ra. Sau này mình có viếng Gia-nã-đại, có đến vùng Québec thì thất kinh. Chắc phải ở lâu mới quen được.

Vấn nạn khi các ông Tây nghèo, được chính phủ dụ sang Gia-nã-đại ngày nay để sinh sống, săn thú, gửi các da thú về bán này nọ. Mà người Việt chúng ta sau 75 chạy giặc ra hải ngoại, cũng lâm vào trường hợp này. Đó là tình trạng trai thừa gái thiếu. Thời đó đi kiếm người yêu hay vợ là khổ cho các đấng nam nhi như mình. Đi dự sinh Nhật, party này nọ là vị chi tỷ lệ 10 thằng con trai với một cô mít. Cô nào dù có xấu như Thị Nở, cũng có một đám thanh niên bu vào như ruồi. Còn Chí Phèo như mình thì khỏi mơ tưởng Thị Nở. Đánh nhau dành gái là chuyện cơm bữa. Dạo đó có câu nói bất thành văn của mấy cô chưa chồng: “phi bác sĩ bất thành phu phụ”. Nông dân như mình thì chỉ có nước ở giá.


Không biết, chính phủ Mỹ có nhận ra vấn nạn này hay không, mà họ thương lượng với Hà Nội, cho mấy ông cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, ở tù  trên 3 năm được di dân qua Mỹ với cả gia đình theo chương trình H.O. May quá thời đó không có ông Trump làm tổng thống. Nhờ mấy trăm ngàn gia đình này, khiến thị trường gái Việt ở Hoa Kỳ bớt khan hiếm, ngày nay thì dư. Mấy ông tỵ nạn mới có cơ hội lập gia đình nên bề gia thất. Hoan hô H.O.


Tình trạng khan hiếm phụ nữ cho người di dân lậu ngày nay vẫn còn, còn khi xưa nhất là mấy ông Tây thích ăn ngon, cơm phải có phô-mát bú xua la mua. Thời đó chưa có chương trình DEI, nên chưa có vụ chuyển giới tính để ông Tây lấy bà đầm chuyển giới. Họ lên tiếng đến tai vua Louis 14, roi du soleil. Ông bộ trưởng Jean-Baptiste Colbert mà ngày xưa học sử của Tây, ông giáo Tây làm mình chới với vì cứ lộn với ông Richelieu rồi Colbert đủ trò. Ông Colbert này, uống rượu ăn phô-mát bổng đột phá tư duy, kêu mấy cô gái ế chồng, nghèo mồ côi, khó kiếm chồng, sao không cho họ qua mấy vùng xứ lạnh này, một mặt gả chồng, một mặt sản xuất thêm Tây con ở vùng Québec. Phải chi thời khan hiếm gái việt tại thị trường Hoa Kỳ, Hà Nội học nghề của ông Colbert, gửi mấy cô mấy bà goá, có chồng liệt sĩ sang Hoa Kỳ, gả cho mấy người tỵ nạn, là thu phục hết đám phản động ngay. Khỏi phải trả tiền lương liệt sĩ này nọ mà kéo về Việt Nam.

Tranh vẽ lúc các cô gái được bộ trưởng Colbert tuyển mộ đưa sang Québec


Vào năm 1663, Pháp bắt đầu một chương trình dưới thời Vua Louis XIV để gửi khoảng trên dưới 800 phụ nữ, được gọi là Filles du Roi (Con Gái của Nhà Vua), chắc là gái nuôi nên không gọi công chúa (princesse) đến Tân Pháp (ngày nay là Quebec) từ năm 1663 đến 1673. Hình như bà đầm nào ở Québec, lo đóng tiếp mấy cô gái này, đặt tên như vậy. Đây không phải là một sự kiện duy nhất trong năm 1663 mà là một nỗ lực kéo dài một thập kỷ nhằm giải quyết sự mất cân bằng giới tính nghiêm trọng trong thuộc địa và thúc đẩy dân số của nó. 


Đến năm 1663, Tân Pháp có dân số khoảng 2.500 đến 3.200 người định cư, chủ yếu là nam giới—binh lính, thương nhân buôn lông thú và linh mục. Tỷ lệ nam giới có thể kết hôn so với phụ nữ cao tới 14:1, và các thuộc địa Anh ở phía nam vượt trội hơn người Pháp với tỷ lệ dân số tổng cộng là 18:1. Để bảo đảm tương lai của thuộc địa và cạnh tranh với sự mở rộng của Anh, Bộ trưởng của vua Louis XIV, Jean-Baptiste Colbert, và Quan chức Tân Pháp, Jean Talon, đã lập kế hoạch khuyến khích định cư và hình thành gia đình. Các Filles du Roi được tuyển mộ để kết hôn với nam giới định cư, lập gia đình và tăng tỷ lệ sinh con. Kiểu ngày nay, mấy cô ở Việt Nam muốn lấy chồng Việt kiều.


Những người phụ nữ, với số lượng khoảng 770 đến 850, hầu hết là độc thân, nghèo khó hoặc mồ côi, độ tuổi từ 12 đến 40, dù phần lớn từ 16 đến 25. Nhiều người đến từ các khu vực đô thị như Paris, Rouen, hoặc La Rochelle, trong khi những người khác từ vùng nông thôn. Thật ra gái ở gần các hải cảng thường hay bị giá chồng hay có người yêu nhưng họ đi tàu ra biển nhiều khi không trở lại. Nên dễ tuyển hơn chớ đâu ai đi về nông thôn khác mà hỏi. Họ không phải là gái mại dâm, hộ lý như một tin đồn dai dẳng cho rằng, mỗi người phải cung cấp giấy chứng nhận về phẩm chất đạo đức tốt từ linh mục hoặc quan tòa. Nhà vua tài trợ chuyến đi của họ, cung cấp vé tàu, của hồi môn (quần áo và đồ gia dụng), và thường là một khoản hồi môn từ 50 đến 100 livres từ ngân khố hoàng gia.


Những người phụ nữ khởi hành từ các cảng như Dieppe hoặc La Rochelle trên những con tàu mất khoảng hai đến ba tháng để đến Thành phố Quebec. Chuyến đi đầy nguy hiểm—bệnh tật như sốt hoặc kiết lỵ rất phổ biến, và ước tính ít nhất 60 người đã chết trên đường. Nhóm đầu tiên gồm 36 người đến vào ngày 22 tháng 9 năm 1663. Các con tàu thường dừng ở Thành phố Quebec, sau đó một số tiếp tục đến Trois-Rivières và Montreal, cho phép người định cư gặp những người mới đến.

Tranh vẽ các cô gái lên bờ được Tây thiếu gái chào đón

Khi đến nơi, các Filles du Roi được ở cùng các gia đình đáng kính hoặc trong các tu viện do các nữ tu Ursuline điều hành, chẳng hạn như những nơi do Marguerite Bourgeoys dẫn dắt (người sau này đặt ra thuật ngữ Filles du Roi). Không giống như nhiều phụ nữ thời đó, họ có quyền tự do chọn chồng. Họ tham gia các cuộc gặp gỡ “bạn muốn hẹn hò” được giám sát—đôi khi được mô tả như một hình thức hẹn hò nhanh—do Talon và các nhân vật tôn giáo giám sát. Hầu hết kết hôn nhanh chóng, thường trong vòng vài tuần hoặc vài tháng, mặc dù một số mất đến hai hoặc ba năm để tìm được người phù hợp. Trong số khoảng 835 cuộc hôn nhân của người nhập cư ở Tân Pháp trong giai đoạn này, 774 cuộc có sự tham gia của một Fille du Roi. Hợp đồng hôn nhân được ký trước công chứng viên, mang lại các bảo vệ pháp lý như quyền sở hữu chung tài sản và tùy chọn hủy bỏ nếu cuộc hôn nhân không phù hợp. Vụ này khác với ở thuộc địa Anh quốc, mấy phụ nữ đến Hoa Kỳ là cứ lấy nhau để sống chớ chả có lựa chọn gì cả.

Kết quả

  • Tăng trưởng dân số: Chương trình thành công. Đến năm 1672, dân số Tân Pháp tăng lên 6.700 người, hơn gấp đôi so với năm 1663. Các gia đình đông con—trung bình năm đứa trẻ, với các ưu đãi như 300 livres mỗi năm cho những gia đình có 10 con trở lên. Điều này đặt nền móng cho dân số Pháp-Canada, với hai phần ba người Pháp Canada hiện đại có tổ tiên từ những người phụ nữ này.
  • Thích nghi: Nhiều Filles du Roi không được chuẩn bị cho cuộc sống nông thôn, vì họ đến từ các khu vực đô thị, nhưng họ đã thích nghi. Sự phong phú của tài nguyên ở Tân Pháp cho phép họ sinh nhiều con hơn và sống lâu hơn so với những người cùng thời ở Pháp.
  • Di sản: Họ góp phần vào việc chuẩn hóa văn hóa và ngôn ngữ, mang theo tiếng Pháp Paris ảnh hưởng đến phương ngữ của thuộc địa. Các hậu duệ bao gồm những nhân vật nổi tiếng như Hillary Clinton, Madonna và Angelina Jolie. Chỉ khoảng 30 người trở về Pháp, và chỉ một người, Madeleine de Roybon d’Alonne, vẫn độc thân ở Tân Pháp.

Cuộc sống khắc nghiệt—mùa đông lạnh giá, và công việc nặng nhọc. Tin đồn rằng họ là gái mại dâm bắt nguồn từ những hiểu lầm ban đầu về việc nhập cư thuộc địa Pháp, nhưng chỉ một người, Catherine Guichelin, đối mặt với cáo buộc như vậy sau khi chồng bỏ rơi cô vào năm 1675. Phần lớn là những người tiên phong kiên cường đã định hình tương lai của thuộc địa.


Tóm lại, chương trình Filles du Roi đã biến Tân Pháp từ một tiền đồn chủ yếu là nam giới thành một khu định cư phát triển mạnh, để lại tác động lâu dài về dân số và văn hóa.


Vai trò của phụ nữ thuộc địa ở Tân Pháp, đặc biệt là các Filles du Roi và những người định cư nữ khác từ năm 1663 đến đầu thế kỷ 18, rất đa dạng và thiết yếu cho sự sống còn và phát triển của thuộc địa. Trách nhiệm của họ vượt xa các nhiệm vụ gia đình truyền thống, phản ánh nhu cầu của một môi trường biên giới nơi lao động khan hiếm, tài nguyên hạn chế và việc xây dựng cộng đồng là ưu tiên hàng đầu.


Vai trò trong gia đình

  • Người quản lý gia đình: Phụ nữ là xương sống trong việc quản lý gia đình. Họ nấu ăn bằng các dụng cụ thô sơ—nồi sắt trên lửa trần—dựa vào các nguyên liệu địa phương như cá, thú săn, ngô và rau từ vườn. Việc bảo quản thực phẩm bằng cách muối, hun khói hoặc phơi khô là công việc quanh năm để đảm bảo sống sót qua mùa đông khắc nghiệt.
  • Người sản xuất vải: Họ kéo sợi từ len hoặc lanh (nếu có), dệt vải và may quần áo, chăn ga gối đệm. Nhiều người đến với kỹ năng may vá cơ bản từ của hồi môn nhưng thích nghi với việc dùng lông thú hoặc vật liệu thô hơn khi nguồn cung từ Pháp cạn kiệt.
  • Người chăm sóc trẻ em: Với các gia đình đông con được khuyến khích bởi các ưu đãi hoàng gia (ví dụ, 300 livres cho gia đình có 10 con trở lên), phụ nữ dành phần lớn thời gian mang thai hoặc nuôi dạy con cái. Họ cho con bú, dạy đọc viết cơ bản hoặc cầu nguyện, và quản lý sự hỗn loạn của những gia đình trung bình từ 5 đến 10 đứa trẻ.

Đóng góp nông nghiệp và kinh tế

  • Công nhân nông nghiệp: Hầu hết Filles du Roi kết hôn với những người định cư có đất được cấp theo hệ thống lãnh địa, khiến họ trở thành những người tham gia tích cực vào việc canh tác tự cung tự cấp. Họ trồng và thu hoạch các loại cây như lúa mì, đậu Hà Lan và bí, chăm sóc vườn rau nhỏ gần nhà, và nuôi gia súc—vắt sữa bò, cho gà ăn hoặc giết mổ lợn. Trong mùa gieo trồng và thu hoạch, lao động của họ rất quan trọng bên cạnh chồng.
  • Người quản lý tài nguyên: Phụ nữ chế biến nguyên liệu thô xay ngô, đánh bơ hoặc xử lý da thú để dùng trong gia đình hoặc buôn bán. Ở các trung tâm buôn bán lông thú như Montreal, một số người giúp chuẩn bị da lông hoặc trao đổi với các nhóm bản địa để lấy hàng hóa, gián tiếp hỗ trợ nền kinh tế của thuộc địa.
  • Vai trò kinh doanh: Góa phụ hoặc phụ nữ độc thân đôi khi điều hành trang trại hoặc các doanh nghiệp nhỏ. Ví dụ, nếu chồng qua đời, một người phụ nữ có thể quản lý đất đai cho đến khi tái hôn hoặc giám sát người thuê đất trong hệ thống lãnh địa, tận dụng quyền pháp lý của mình theo luật tục Pháp (coutume de Paris). Puerto Rico ngày nay vẫn sử dụng luật của thời Napoleon. 

Vai trò xã hội và cộng đồng

  • Người xây dựng cộng đồng: Phụ nữ thúc đẩy sự gắn kết xã hội trong các khu định cư thưa thớt. Họ tổ chức các buổi tụ họp, lễ rửa tội, đám cưới hoặc ngày lễ như Noël hay St. Jean Baptiste, nơi thức ăn, âm nhạc và khiêu vũ tăng cường mối quan hệ. Việc thăm viếng hàng xóm để trao đổi hàng hóa hoặc hỗ trợ sinh nở đã tạo ra mạng lưới hỗ trợ lẫn nhau.
  • Trụ cột tôn giáo: Là những người Công giáo sùng đạo, họ duy trì đời sống tôn giáo, tham dự thánh lễ khi có thể hoặc dẫn dắt gia đình cầu nguyện tại nhà. Họ làm việc với các nữ tu (ví dụ, Ursulines) để rửa tội cho trẻ em và chôn cất người chết, củng cố vai trò của Nhà thờ trong thuộc địa. Một số người dạy giáo lý cho con cái, bảo tồn bản sắc Công giáo Pháp.
  • Người trung gian với người bản địa: Phụ nữ sống gần các cộng đồng bản địa, như Wendat hoặc Algonquin, thường đóng vai trò trung gian không chính thức. Họ trao đổi hàng hóa (ví dụ, vải lấy ngô), học kỹ năng sinh tồn như làm đường từ nhựa cây phong, hoặc chăm sóc con cái lai từ những cuộc hôn nhân hiếm hoi, âm thầm kết nối các nền văn hóa.

Vai trò chăm sóc sức khỏe

  • Người chữa bệnh và bà đỡ: Không có bác sĩ chính thức, phụ nữ sử dụng các bài thuốc thảo dược—vỏ cây liễu trị đau, cây xô thơm trị cảm lạnh—được truyền lại hoặc học từ hàng xóm bản địa. Nhiều người trở thành bà đỡ, hỗ trợ sinh nở trong cộng đồng; một Fille du Roi như Anne Le Moine đã đỡ đẻ hàng chục đứa trẻ qua nhiều thế hệ.
  • Y tá: Họ chăm sóc các thành viên gia đình hoặc hàng xóm bị bệnh trong các đợt bùng phát dịch đậu mùa hoặc cúm, thường chỉ với lời cầu nguyện và chăm sóc cơ bản. Tỷ lệ tử vong khi sinh cao khiến họ cũng phải than khóc và chôn cất người thân, một nhiệm vụ buồn bã nhưng thường xuyên.

Vai trò pháp lý và hành chính

  • Người quản lý tài sản: Theo luật Pháp, phụ nữ có quyền sở hữu một nửa tài sản hôn nhân (communauté de biens). Góa phụ có thể thừa kế và quản lý đất đai, một vai trò mà một số Filles du Roi đảm nhận khi chồng qua đời trong các cuộc tấn công hoặc do bệnh tật. Họ ký hợp đồng với công chứng viên, một di sản từ thỏa thuận hôn nhân, mang lại cho họ quyền tự chủ bất thường vào thời đó.
  • Nhà giáo dục: Mặc dù trường học chính thức hiếm có, phụ nữ dạy con cái các kỹ năng thực tế—làm nông, nấu ăn, may vá—và khả năng đọc viết tiếng Pháp cơ bản, đặc biệt ở các trung tâm đô thị như Thành phố Quebec. Các nữ tu như Marguerite Bourgeoys đào tạo một số Filles du Roi để hỗ trợ giáo dục trẻ mồ côi hoặc người mới đến.

Thách thức và thích nghi

  • Nhu cầu thể chất: Vai trò của họ đòi hỏi sức bền lớn—khuân nước, chặt củi, hoặc đi bộ qua tuyết. Mùa hè mang đến công việc đồng áng không ngừng; mùa đông giam họ trong những căn nhà đầy khói. Tuổi thọ trung bình thấp (40–50), mặc dù dinh dưỡng tốt hơn ở Tân Pháp thường kéo dài tuổi thọ hơn so với tiêu chuẩn ở Pháp.
  • Rủi ro biên giới: Các cuộc tấn công của người Iroquois cho đến năm 1701 đe dọa các trang trại hẻo lánh, buộc phụ nữ phải bảo vệ nhà cửa hoặc chạy trốn cùng con cái. Bệnh tật, suy dinh dưỡng và biến chứng khi sinh cướp đi nhiều sinh mạng, nhưng những người sống sót đã thích nghi, học cách phát triển trong một vùng đất khắc nghiệt.
  • Thay đổi văn hóa: Những Filles du Roi từ thành thị như Paris hay Rouen đến không chuẩn bị cho lao động nông thôn nhưng đã thành thạo các kỹ năng mới, lột da thú, nhóm lửa, hoặc thương lượng với thương nhân, biến họ thành những người tiên phong linh hoạt.

Không giống phụ nữ ở Pháp, nơi nghèo đói hoặc cấu trúc giai cấp cứng nhắc hạn chế vai trò, phụ nữ thuộc địa ở Tân Pháp có cơ hội gắn liền với sự phong phú và nhu cầu:

  • Địa vị cao hơn: Sự khan hiếm phụ nữ mang lại cho họ lợi thế trong việc chọn chồng và ảnh hưởng cộng đồng. Một Fille du Roi như Catherine de Baillon, xuất thân quý tộc, có thể kết hôn với một người định cư bình thường nhưng vẫn giữ được sự tôn trọng xã hội.
  • Tác động dân số: Vai trò sinh sản của họ mang tính chiến lược, con cái của mỗi người phụ nữ tăng cường số lượng dân cư của thuộc địa, nhận được lời khen ngợi từ các quan chức như Talon, người gọi họ là “những người mẹ của một dân tộc.” Việt Nam gọi là người mẹ anh hùng.

Đọc về đời sống dạo đó, một ngày của phụ nữ thuộc địa có thể bắt đầu lúc bình minh với việc nhóm lửa, cho gà ăn và nhào bột, tiếp theo là làm việc đồng áng hoặc may vá, rồi nấu bữa tối và vá đồ dưới ánh nến. Chủ nhật mang lại sự nghỉ ngơi và cầu nguyện, trong khi các tình huống khẩn cấp, sinh nở, tấn công hoặc bão tuyết, đòi hỏi hành động tức thì. Lao động của họ biến vùng hoang dã thành những ngôi nhà, sự kiên cường của họ định hình một xã hội Pháp-Canada trường tồn.


Phụ nữ thuộc địa ở Tân Pháp, đặc biệt là Filles du Roi, không chỉ là những người vợ mà còn là nông dân, người chữa bệnh, giáo viên và trụ cột văn hóa. Vai trò của họ kết hợp sự nữ tính truyền thống với tính thực dụng của biên giới, đặt nền móng cho một bản sắc thuộc địa riêng biệt của vùng Québec.


Tương tự khi các gia đình người Việt theo diện H.O., sang Hoa Kỳ, đã giúp cho mấy ông người Việt ở đây có cơ hội cưới được vợ. Mình nhớ có bác giúp việc, đi theo diện H.O., ông chồng mang sang rồi kêu xong trách nhiệm, nay ông ta đi theo bà vợ 2, đã chạy năm 75. Mấy năm đầu là đi ăn cưới con gái bác mệt thở. 5 cô con gái. Bác kêu không biết nuôi chúng ra sao, có thằng nào đến là gả cho yên mồ yên mả. Vấn đề là từ từ mấy cô này hiểu được chuyện bên Mỹ, nhập gia tuỳ tục thì cài số de hết nên mấy cô này nay đều ly dị hết. Kinh


Hình như đồng chí gái đang chuẩn bị chuyến đi Gia-nã-đại tháng 7 này.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Đền thờ Pantheon tại La Mã

 Pantheon của La-Mã

Nhớ năm 1978, hè đi La-Mã 1 tháng với ông thầy phụ giảng. Ông ta mượn căn nhà của người em họ, Marc Porel, tài tử đóng phim với Alain Delon, bồ của Ursula Andress. Mình thấy trong nhà có treo một tấm ảnh lớn thấy chụp với Ursula Andress cởi truồng trên giường chắc đang đóng phim nào. Sau này chết yểu vì ma tuý tại Casablanca, Ma-rốc. Căn nhà không lớn lắm ở ngoại ô. Mỗi ngày lấy xe buýt đi vào thủ đô rồi đi bộ đến những nơi để ngồi vẽ, nghiên cứu kiến trúc đủ mọi thời đại. Có một đền thờ la-mã to lớn, đơn giản khiến mình thích nhưng rất khó vẽ vì quá đơn giản. Đó là đền thờ Pantheon, được xây dựng trên 2000 năm trước.

Đền thờ này không chỉ là một kiệt tác kiến trúc của nhân loại mà còn là một di sản về kỹ thuật và hình học cho thế hệ kiến trúc sư mai sau.


Phía bên trong, là một kiệt tác về độ chính xác của hình học. Chiều cao từ sàn nhà lên đến Oculus (cửa vòm) tương đương với đường kính 43.3 mét hay 142 bộ anh. Xem như trái cầu có thể chạm đất, chạm tường và cái vòm.

Cái vòm cho đến nay vẫn là cái vòm bằng xi-măng không có cốt sắt lớn nhất thế giới. Cho thấy kỹ thuật xây cất của người la mã 2,000 năm về trước đã quá cao. Kỹ thuật của họ như sau:

Họ sử dụng xi măng nhẹ ở trên cao, và thay đổi kích thước độ dày: 6 mét vào chân móng, 1.2 mét ở cái vòm oculus và dùng coffrage của trang trí để giảm sức cân nặng của vật chất.

Đền Pantheon ở Rome, một trong những công trình La Mã cổ đại được bảo tồn tốt nhất, được xây dựng qua nhiều giai đoạn, với hình dạng hiện tại chủ yếu được quy cho Hoàng đế Hadrian vào khoảng năm 118–125 sau Công nguyên. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó bắt đầu từ một công trình sớm hơn do Marcus Agrippa ủy thác dưới triều đại Augustus (27 trước Công nguyên – 14 sau Công nguyên).

Vào trong mùa hè thì thấy rõ ánh sáng rọi chiếu qua cái oculus hiện lên tường

Xây dựng ban đầu (Pantheon của Agrippa)

  • Thời gian: Khoảng năm 27–25 trước Công nguyên.
  • Mục đích: Agrippa, một đồng minh thân cận của Augustus, xây dựng Pantheon đầu tiên như một ngôi đền dành cho tất cả các vị thần (từ tiếng Hy Lạp “pan” nghĩa là “tất cả” và “theos” nghĩa là “các vị thần”). Sau này Napoleon có cho xây một đền thờ ở Paris mang tên Pantheon để chôn những anh hùng dân tộc tại đây.
  • Thiết kế: Công trình ban đầu này có hình chữ nhật, không giống thiết kế hình tròn mà chúng ta biết ngày nay, và hướng về phía nam. Nó có lẽ nhỏ hơn và ít tham vọng về quy mô.
  • Vật liệu: Sử dụng các vật liệu La Mã truyền thống như gạch và đá tufa (một loại đá núi lửa).
  • Số phận: Pantheon của Agrippa bị phá hủy bởi hỏa hoạn vào năm 80 sau Công nguyên, và dù được xây lại dưới thời Hoàng đế Domitian, nó lại cháy thêm lần nữa vào năm 110 sau Công nguyên.

Tái xây dựng của Hadrian

  • Thời gian: Bắt đầu khoảng năm 118 sau Công nguyên và hoàn thành vào khoảng năm 125–128 sau Công nguyên.
  • Tầm nhìn kiến trúc: Hadrian, nổi tiếng với sự quan tâm đến kiến trúc, giám sát việc thiết kế lại. Ở La mã nay vẫn còn cái cột đồng mang tên đại đế này ở Foro. Dù tái xây dựng, ông giữ lại tên của Agrippa trên dòng chữ (“M·AGRIPPA·L·F·COS·TERTIUM·FECIT,” nghĩa là “Marcus Agrippa, con trai của Lucius, đã làm khi chấp chính lần thứ ba”).

  • Các đặc điểm chính:
    • Rotunda và mái vòm: Đặc điểm nổi bật của Pantheon là rotunda hình tròn khổng lồ với mái vòm bê tông có hoa văn lõm, đường kính 43,3 mét (142 feet). Mái vòm này vẫn là mái vòm bê tông không cốt thép lớn nhất thế giới.
    • Oculus: Ở đỉnh mái vòm là một lỗ tròn rộng 8,2 mét (27 feet), gọi là oculus, là nguồn sáng tự nhiên duy nhất và tượng trưng cho sự kết nối với thiên đường.
    • Cổng vào: Lối vào có một cổng lớn hình chữ nhật với 16 cột Corinthian làm từ đá granite, được khai thác ở Ai Cập và vận chuyển đến Rome.

Kỹ thuật xây dựng

  • Vật liệu:
    • Công trình chủ yếu sử dụng bê tông La Mã (opus caementicium), một vật liệu mang tính cách mạng làm từ tro núi lửa (pozzolana), vôi, và cốt liệu. Loại bê tông này nhẹ hơn và chắc hơn so với các loại hiện đại nhờ thành phần của nó.
    • Bê tông của mái vòm thay đổi theo độ đặc: travertine nặng hơn ở phần đế, nhẹ hơn với tufa và đá bọt ở phía trên, giảm trọng lượng mà không mất độ bền.
    • Gạch và đá cẩm thạch được dùng cho tường và lớp ốp trang trí.
  • Kỹ thuật:
    • Khuôn: Khuôn gỗ có lẽ được dùng để định hình bê tông khi đổ từng lớp. Các ô lõm trong mái vòm giảm trọng lượng và tăng độ bền cấu trúc.
    • Khung đỡ: Một khung gỗ tạm khổng lồ đỡ mái vòm trong quá trình xây dựng cho đến khi bê tông đông kết.
    • Độ chính xác: Chiều cao và đường kính của mái vòm bằng nhau (43,3 mét), tạo ra một hình cầu hoàn hảo nằm trong rotunda, thể hiện sự chính xác về toán học và kỹ thuật của người La Mã.

Lao động và hậu cần

  • Lực lượng lao động: Hàng nghìn công nhân lành nghề, kỹ sư, và nô lệ tham gia, được quản lý bởi các kiến trúc sư và giám sát viên La Mã.
  • Khai thác và vận chuyển: Các vật liệu như cột granite được vận chuyển từ Ai Cập qua sông Nile và Địa Trung Hải, sau đó kéo qua đất liền đến công trường—một kỳ tích hậu cần đòi hỏi sà lan, cần cẩu, và bò kéo.
  • Chuẩn bị địa điểm: Khu vực đầm lầy gần Campus Martius được thoát nước và gia cố để đỡ công trình khổng lồ.

Mục đích và thích nghi

  • Ban đầu là một ngôi đền, Pantheon được chuyển đổi thành nhà thờ Công giáo (Santa Maria ad Martyres) vào năm 609 sau Công nguyên dưới thời Giáo hoàng Boniface IV, điều này giúp bảo vệ nó khỏi sự bỏ bê hoặc phá hủy trong thời Trung Cổ.

Việc xây dựng Pantheon phản ánh sự thành thạo của người La Mã về kỹ thuật, toán học, và quản lý tài nguyên. Độ bền vững lâu dài của nó—vẫn đứng vững sau gần 2.000 năm—phần lớn nhờ vào việc sử dụng sáng tạo bê tông và thiết kế tỉ mỉ của mái vòm, điều đã truyền cảm hứng cho các kiến trúc sư qua nhiều thế kỷ. Như Brunelleschi xây cái vòm lớn nhất thế giới ở Florence.

Sau những kiến trúc đền thờ Hy Lạp, mình thích nhất kiến trúc của đền thờ này, rất giản dị nhưng thực chất rất khó thiết kế xây dựng và tồn tại hơn 2,000 năm.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Kiến trúc Baroque Tây phương

 Kiến trúc Baroque Tây phương


Dạo còn sinh viên, mình phải học lịch sử kiến trúc Tây phương, mình không thích kiểu Baroque lắm vì thấy quá rườm rà. Kiến trúc mà mê nhất là kiến trúc Hy Lạp, rất đơn giản nhưng lại đẹp và hùng vĩ.

Đúng hơn khi học về lịch sử kiến trúc thì thường phải học về các nhà thờ hay dinh thự vua chúa ở Âu châu vì khi xưa chỉ có nhà giàu hay nhà thờ mới có tiền để xây cất những toà nhà cao lớn vớt những Mỹ thuật qua các thời đại. Các nhà thờ Baroque là một số ví dụ nổi bật nhất của phong cách này, được thiết kế để gây choáng ngợp các giác quan và khơi gợi sự kính về mặt tâm linh. Mình không phải công giáo nên khi xem mấy bức tranh nói về thánh này thánh nọ là mình ngọng. Sau đó phải bò vào thư viện, mượn thánh kinh để đọc, rồi Cựu Ước, Tora, rồi Koran để hiểu mấy vụ này.

Thường người ta nghĩ về kiến trúc Baroque chỉ là vàng, các đường cong, và những chi tiết cầu kỳ nhưng thật ra kiến trúc Baroque đẫy xa những giới hạn trước đây nhờ kỹ thuật xây cất tiến xa hơn trước đây.

Nhớ chỗ này hai thầy trò đến vẽ mỗi ngày cả tuần lễ
Bản đồ của vương cung thánh đường Saint Peter, Vatican, được xây dựng trên một vận động trường thời đế chế La-Mã. Nhớ lần đầu tiên đi viếng thủ đô la mã với ông thầy, được ông ta giải thích vì hai thầy trò đem đồ vẽ đi khắp La MÃ mỗi ngày để vẽ. Khi đến vẽ Vatican, vương cung thánh đường thì thất kinh.
  1. Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (Thành Vatican, Rome)
    Mặc dù nền móng của vương cung thánh đường có trước thời Baroque, những đóng góp của Gian Lorenzo Bernini như Baldacchino bằng đồng khổng lồ (1624–1633) trên bàn thờ chính và Quảng trường Thánh Phêrô rộng lớn với các hàng cột ấn tượng, đậm chất Baroque. Quy mô, tính kịch tính và sự tương tác của ánh sáng khiến nó trở thành một nền tảng của phong cách này.
  2. Nhà thờ San Carlo alle Quattro Fontane (Rome, Ý)
    Kiệt tác của Francesco Borromini (1638–1641) là một viên ngọc Baroque nhỏ nhưng mãnh liệt. Mặt tiền của nó gợn sóng với những đường cong lõm và lồi, còn nội thất với mái vòm hình bầu dục làm xoắn không gian theo cách gần như sống động. Đây là một ví dụ hoàn hảo về tình yêu của Baroque đối với sự phức tạp và chuyển động. Thật ra muốn thiết kế loại kiến trúc này cần phải giỏi về hình học để vẽ vòng tròn và ellipse.
    Khi xưa mình có vẽ nhưng cách đây 6 năm có đưa đồng chí gái đến chụp hình ở đây
  3. Nhà thờ Sant’Ivo alla sapienza, Roma, Ý Đại Lợi . Mình và ông thầy đến đây vẽ rất nhiều ngày vì do Borromini thiết kế, rất đẹp.

  4. Nhà thờ Il Gesù (Rome, Ý)
    Được xây dựng sớm hơn (1568–1584) bởi Giacomo della Porta và những người khác, đây thường được xem là tiền thân của Baroque. Mặt tiền hoành tráng và nội thất được trang trí phong phú—đặc biệt là các bức bích họa chiến thắng của Giovanni Battista Gaulli—đã đặt nền móng cho các nhà thờ Baroque hoàn chỉnh. Đây là trung tâm của Dòng Tên, ảnh hưởng đến các thiết kế trên toàn thế giới.

  5. Nhà thờ Basilica di Superga, Turin, Ý Đại Lợi mà mình có dịp viếng lại năm ngoái khi ghé thăm mấy người bạn một thời sinh viên.

  6. Nhà thờ Karlskirche (Vienna, Áo)
    Tác phẩm của Johann Bernhard Fischer von Erlach (1716–1737) kết hợp kịch tính Baroque với sự kiêu sa của đế quốc. Nhà thờ này khi mình viếng thăm năm 1978 đã bắt đầu được trùng tu, mà sau này mình dẫn đồng chí gái đi viếng lại thì vẫn chưa xong. Mái vòm khổng lồ và hai cột cao chót vót (lấy cảm hứng từ Cột Trajan) thống trị đường chân trời, trong khi nội thất lộng lẫy với các bức bích họa và trang trí thạch cao. Đây là một tuyệt phẩm Baroque muộn gắn liền với quyền lực Habsburg.
  7. Wieskirche, Đức quốc mình có dịp viếng năm 1978, khá lộng lẫy, họ gọi đỉnh của kiến trúc rococo- baroque, màu mè nhẹ nhàng và nhiều ánh sáng vì thường nhà thờ cổ rất tối. 
  8. Nhà thờ Santiago de Compostela (Galicia, Tây Ban Nha)
    Sự nâng cấp theo phong cách Baroque tại đây, đặc biệt là mặt tiền Obradoiro của Fernando de Casas Novoa (hoàn thành năm 1750), biến một công trình Gothic cũ thành một cảnh tượng hoành tráng, tinh xảo. Các chi tiết đá phức tạp và sự vươn cao theo chiều dọc là Baroque Tây Ban Nha thuần túy, với chút phong cách Churrigueresque. Hy vọng năm nay, mình sẽ đi bộ hành hương đến nhà thờ này.
  9. Nhà thờ Zacatecas (Mexico City, Mexico)
    Được xây dựng qua nhiều thế kỷ, giai đoạn Baroque của nó (đặc biệt là các bổ sung từ thế kỷ 17–18 như Bàn thờ của các Vua) phản ánh tầm ảnh hưởng thuộc địa của Tây Ban Nha. Các chi tiết phong phú và quy mô khổng lồ cho thấy Baroque đã thích nghi với Thế giới Mới như thế nào, kết hợp ảnh hưởng địa phương và châu Âu.
  10. Nhà thờ Thánh Ignatius Loyola (Paris, Pháp)
    Được thiết kế bởi kiến trúc sư Dòng Tên Jean-Baptiste Martellange và hoàn thành vào thế kỷ 17, đây là phiên bản Baroque của Pháp. Nó ít phô trương hơn so với các nhà thờ Ý nhưng vẫn gây ấn tượng với mái vòm, các bàn thờ xa hoa và tỷ lệ hài hòa.
  11. Nhà thờ Tu viện Zwiefalten (Zwiefalten, Đức)
    Một kỳ quan Baroque miền Nam Đức (1739–1747) của Johann Michael Fischer, nhà thờ này nổi bật với nội thất xa hoa—các bức bích họa của Franz Joseph Spiegler và trang trí thạch cao xoáy tròn khiến không gian như một vụ nổ thiên đường. Đây là đỉnh cao của Baroque trong Đế quốc La Mã Thần
  12. Có lẻ du khách đến thành phố Barcelona, Tây Ban Nha, sẽ không quên được hình ảnh của Sagrada Familia, do kiến trúc sư Antoni Gaudi, ngủ tại công trường để vẽ thiết kế. Năm 1926, ông ta bị xe tram điện cán và chết tại nhà thương thí. Nhà thờ ông ta chưa hoàn tất sau khi Khánh thành đúng 150 năm khi mình viếng lại cách đây 6 năm với vợ. thánh.

Sagrada Familia do kiến trúc sư Antoni Gaudi tại Barcelona 

Nhà thờ tại Lithuania khá lạ

Có toà nhà hành chính của Leuven rất lạ, bác nào đi Bỉ nên ghé viếng

Còn ai đến La Mã chắc chắn sẽ đến chỗ này, bễ nước Trevi. Dạo này đang bị đóng để sửa chửa, trùng tu. Mỗi năm họ lượm được 2 triệu Euro, tiền của du khách khấn nguyện chi đó, rồi quăn tiền xuống cái bể nước. Khi xưa, mình đến đây ít du khách nên còn ngồi vẽ được nay thì chịu. Suýt bị móc túi.

Những nhà thờ này thể hiện phạm vi của phong cách: từ những hình dạng con đầy mê hoặc của Ý Đại Lợi đến những công trình trang trí lộng lẫy của Tây Ban Nha , hay sự thanh lịch của Pháp và sự pho trường của kiến trúc Đức. Mỗi nhà thờ sử dụng kiến trúc như một sân khấu cho vở kịch tâm linh của mọi sắc dân.


Có nhà của Sa hoàng ở St Petersburg, nay là viện bảo tàng Hermitage. Baroque loại cực đỉnh, dát vàng,.. này chắc không bao giờ viếng được vì đi du lịch Nga rất khó. Mình có vào nhà của Sa Hoàng ở Uzbekistan, khá dễ thương.

Hay nhà thờ Saint Nicholson, tại Prague, cộng hoà Tiệp mà mình có dịp đến xem khi đến Prague mấy ngày.
Có nhà thờ bên Mễ Tây Cơ khá lạ
Nói chung mình không thích kiến trúc Baroque sau này biến dạng qua Rococo, rườm rà nhưng đã nói lên tiến trình của kiến trúc loại người, để tư tưởng thời đại ấy. Như ngày nay, văn hoá khắp mọi nơi bị ảnh hưởng của Deconstruction do ông Tây Jacques Derida chủ xướng, như nói lên sự tha hoá của con người với văn hóa thức tĩnh và từ từ con người lại trở về với sự bảo thủ cổ điển.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn