Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tếđịa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tếđịa. Hiển thị tất cả bài đăng

Bánh mì và cách mạng

 Bánh mì và cách mạng


Mình có kể về bánh mì và baguette của tây được sử dụng để kiến tạo một văn hoá nhằm buôn bán sản phẩm xa-xỉ, sang trọng của Pháp. Nhớ hồi ở Pháp, tây đầm kể là bà hoàng hậu Marie-Antoinette, nghe người dân đói, không có bánh mì ăn, bà ta nói sao họ không ăn Brioche “S’ils n’ont pas de pain, qu’ils mangent de la brioche !” khiến thiên hạ buồn điên với bà cành vàng lá ngu này, sau này, dân tây đầm làm cách mạng, kéo bà ta pháp trường chém đầu giúp bà ta ăn Brioche. Cho thấy thời nào, giới nắm quyền hành đều không rõ dân tình như ở Việt Nam có bà cán bộ nào kêu mỗi nhà mua 3 cái lu chứa nước mưa la chết ngập lụt.

Bánh mì, nhìn bề ngoài, chỉ là một loại thực phẩm phổ biến. Nhưng trong lịch sử nhân loại, đặc biệt tại châu Âu, bánh mì chứa đựng ý nghĩa sâu xa về sinh tồn, kinh tế và chính trị. Cuốn Pain et liberté đã cho thấy bánh mì là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến trật tự xã hội Pháp trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, khi bánh mì du nhập sang Việt Nam trong thời Pháp thuộc, vai trò của nó hoàn toàn khác. Thay vì trở thành một nguồn sống gắn liền với sự sống còn vật chất của người dân như tại Pháp, bánh mì lại trở thành một biểu tượng văn hoá. Ăn chơi cho vui.


Thật ra người Pháp hay nói muốn hiểu lịch sử của Pháp quốc thì cần hiểu về lịch sử bánh mì xứ họ. Như vua Gia Long từng nói “có đói nói mới nghe”. Người Pháp họ ăn bánh mì hàng ngày như người Việt ăn cơm nên thiếu bánh mì là có vấn đề. Từ thời Trung Cổ, bánh mì chiếm 50–70% khẩu phần của dân nghèo. Do đó khi bánh mì khan hiếm thì dân nổi dậy. Các chính quyền luôn theo đuổi “ổn định giá bánh mì” để chi phối xã hội. Nghe kể trước khi người Pháp sử dụng đĩa nĩa, họ cắt bánh mì thành lát để làm đĩa để hứng thức ăn. 


Dưới thời kỳ quân chủ, mà tây đầm gọi Ancien régime, chế độ cũ, nhà vua triều đình kiểm soát bánh mì đưa đến cuộc cách mạng long trời lỡ đất mà người Pháp xuống đường chém đầu vua chúa và gọi “pain et liberté”, bánh mì và tự do. Có mấy ông đi làm cách mạng mới sửa lại là “liberté, égalité, fraternité” ớ ẩm. Dân ngu khu đen như mình, nông dân chỉ biết có cơm hay bánh mì mà ăn thôi, còn tự do, bình đẳng và bác ái thì chỉ để cho mấy ai tự xưng là trí thức kêu gào, chửi thiên hạ ngu lâu dốt bền.


Khi xưa, học lịch sử, ông tây cứ nói về cuộc cách mạng 14 tháng 7, thời đó Pháp quốc có đâu 28 triệu dân, 80% người Pháp ăn bánh mì trừ cơm, trung bình 3 ký lô thực phẩm mỗi ngày. Bánh mì thời đó cứng như đá. Vì bánh mì trấu, khác với giới quý tộc ăn bánh mì với bột mì trắng được xay bỏ trấu đi. Nên nhớ là thời trung cổ,… âu châu mà thất mùa là chết đói nhiều, các vua chúa đàn áp nông dân , tá điền bị thu tô. May sau này, ông Kha luân Bố tìm ra châu Mỹ, mới đem về giống ngô, khoai tây, giúp người âu châu bớt nạn đói vì lúa thất mùa thì ăn ngô, ăn khoai tây. Mấy loại thực phẩm này đã giúp người âu châu bớt đói, chiến tranh ít lại vì khi xưa, đói là họ đi ăn cướp thằng bên cạnh. Đi Georgia, mới khám phá ra các nhà được xây như các tháp để tránh bị ăn cướp của làng bên cạnh. Chúng đói thì đến ăn cướp.

Vua chúa kiểm soát giá ngũ cốc, hạn chế các thương lái “đầu cơ” lúa mì. Nhớ đọc đâu đó, sau khi ông Diệm bị lật đỗ thì người Tàu Chợ Lớn đầu cơ tích trữ gạo miền nam, khiến ông Kỳ đem bắt một người Tàu đầu cơ tên là Tạ Vinh, đem ra bắn khiến giá cả gạo đều xuống ngày hôm sau. Nghe bà Kỳ kể là người Tàu đem tiền tới cúng nhưng ông Kỳ đuổi về, cứ bắn làm gương. Ngày nay khi chúng ta đi Cao Miên, Thái Lan, Nam dương ,…đều thấy người gốc Tàu nắm hết ngành kinh tế.


Chính quyền lo sợ nhất bánh mì thiếu đưa đến bạo loạn như vụ tăng giá 1775 dẫn đến “La Guerre des Farines” (Chiến tranh Bột Mì). Các cơ quan như “police du grain” được lập để giám sát kho lúa. Chính quyền coi lương thực là ưu tiên chiến lược, giống như an ninh quốc gia.


Năm 1788, sau cuộc cách mạng, Pháp quốc giúp người Mỹ đánh lại thực dân Anh quốc, dành độc lập, thuế má đủ trò. Trước cách mạng ai cũng kêu bọn vua chúa tàn ác này nọ, nhưng khi cách mạng lên thì cứ đánh thuế còn bạo hơn nhóm quân chủ. Giá cả thực phẩm gia tăng như hiện nay, sau covid lên cái vù như rồng gặp mưa. Khi xưa đi tây ăn uống thấy đắt như tây nay đi tây thấy thức ăn rẻ gấp đôi ở Hoa Kỳ. Ở Paris thì khác chớ về tỉnh nhỏ hay qua Ý Đại Lợi, cho dù khu du khách thức ăn vẫn rẻ gấp đôi bên mỹ.


Bánh mì như ngọn lửa cách mạng như mình đã kể vụ “La Commune” nổi loạn được mấy tháng rồi bị dẹp tắt một cách tàn bạo, đưa lên máy chém hơn 20,000 tên nổi loạn. Tây gọi « émeutes de subsistance » . Mấy bà phụ nữ khi xưa xuống đường đòi hỏi bánh mì, cướp các tiệm bánh mì và các chợ lúa mì như tây gọi Journée des Poêles à frire (27 avril 1789), họ cướp bóc chợ búa, khách sạn như một truyền thống Công Lý Nhân dân, khi bánh mì được xem là quyền tự nhiên của con người. Ngày nay, ở các siêu thị ở Cali, thiên hạ vô tiệm chiếm lấy thức ăn, quần áo dưới $900, đi ra như chơi. Cho nên mình rất phục các bác Dân Chủ, xem đó là quyền tự nhiên, lấy đồ trong tiệm hay siêu thì khi thiếu. Khiến nay có nhiều tiệm đóng cửa, dân tình phải đi xa để chôm chỉa.


Hôm qua đọc đâu đó có người kể là sau 75, người chủ nhà đến đòi tiền nhà, người mướn nhà kêu chủ nhà có nợ mấu nhân dân, đòi viết báo cáo tội danh, chịu cực chịu khó để dành tiền bao nhiêu năm mới xây được căn nhà cho thuê. Để dành tiền, là phản cách mạng. Sợ quá nên mất trắng căn nhà với bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Hôm qua xem truyền hình của pháp. Họ kêu muốn người Pháp đầu tư xây nhà cửa cho thuê thì phải huỷ bỏ luật Squat đi. Thiên hạ ở lì không được đuổi đi thì bố ai dám cho thuê. Mình có lần xem video, một tên di dân lậu ở Tây Ban Nha, cầm búa đồi đập đầu ông chủ nhà và kêu nà này là nhà của tao. Ông ta sợ bị phang cái búa nên bỏ chạy. Chính phủ không có tiền xây nhà cho dân ở, khuyến khích người có tiền xây nhà cho dân ở miễn phí. Hoan hô Dân Chủ.

Ai buồn đời thì xem trên YouTube chương trình bằng pháp ngữ

Sự chiếm đóng nhà lao Bastille và bánh mì như một biểu hiện nền cộng hòa. Theo tin tức mình học khi xưa do ông Tây giảng dạy là người dân Paris đói quá lại nghe nói giới quý tộc sa đọa ở điện Versailles nên nổi máu cách mạng lên, xuống đừng chém giết. Thật ra cuộc cách mạng 1789 được dấy lên bởi nhưng tin tức hay tin đồn cho hay giới quý tộc muốn bỏ đói người vì có đói nói mới nghe. Các vệ binh Thụy sĩ được mướn để đàn áp và phá các lò bánh mì. Dạo đó đám trí thức đã biết sử dụng Fake News. Khi người dân paris chiếm đóng ngục bastille thì giải thoát tù nhân nhưng thật ra ít có tù nhân, lấy súng và đồng thời bánh mì trở thành biểu tượng của tự do. Tự do không đói. Ai muốn mở tiệm bán bánh mì lấy tên Bánh Mì Tự Do. Bảo đảm sạt nghiệp ngay.


Khi xưa học sau cuộc cách mạng là cuộc thanh trừng (terreur) tàn khốc đưa người Pháp của chế độ cũ lên máy chém. Hôm qua là nhà cách mạng anh hùng hôm nay cho lên máy chém. Sau này qua tây đọc thêm tài liệu thì người ta nói đến terreur alimentaire, khủng bố thực phẩm khi nhóm Jacobin ( cấp tiến) thực thi giá biểu tối đa của bánh mì , đưa đến các vụ hành quyết mấy chủ lò bánh mì, được đấu tố là phá hoại nền cộng hòa. Ngày xưa học lịch sử tây điên khùng với tên các nhóm, phe phái sau cuộc cách mạng. Việt Nam bắt chước đấu tố địa chủ cường hào ác bá. 


Vào thế kỷ 19: kỹ nghệ hoá được khởi đầu tại Pháp quốc, lúa mì được cơ giới hóa nhờ máy xay và vận chuyển bằng đường sắt. Nhờ đó bánh mì “trắng” trở nên phổ biến hơn vì khi xưa chỉ nhà giàu, giới quý tộc mới ăn bột mì trắng. Nhưng khủng hoảng kinh tế 1846–1848 khiến giá bánh mì lại tăng dẫn đến Cách mạng 1848. Công nhân trong các hầm mõ và hãng xưởng bắt đầu xem bánh mì là quyền tối thiểu của người lao động. Biến Bánh mì trở thành vũ khí tranh đấu giai cấp.


Viết tới đây mình mới nhớ thời ông Gorbachov lên ngôi. Ông ta cho đệ tử đi viếng Tây Âu để tìm hiểu tại sao họ khá hơn mình. đến luân đôn, mấy tên đệ tử hỏi muốn đi thăm nhà máy làm bánh mì khiến mấy tên đối tác Anh quốc mặt như ngỗng ị, nói chúng tôi không có nhà máy làm bánh mì. Bọn sô viết không tin kêu dẹp hết chương trình viếng thăm ngày mai dẫn chúng tôi đi xem chỗ nào họ làm bánh mì. 


Hôm sau họ dẫn đến các lò bánh mì, dạo ấy còn người Anh quốc làm chủ thức khuya dậy sớm làm bánh mì khiến mấy tên sô viết chưng hửng mới hiểu kinh tế thị trường. Không cần tem phiếu hay ông Yeltsin sang Mỹ cũng kêu dừng xe lại chạy vô siêu thị thấy toàn là thịt và thịt, thức ăn chất hàng núi. 


Mình nhớ xem Vietecetra phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành, con bác sĩ Tín, dầu khuynh diệp khi xưa, Việt kiều yêu nước tại pHáp kể là sau 75, ông Phạm Hùng cho người sang pháp hỏi ông ta cách giúp Việt Nam thoát khỏi sự nghèo đói, xuống cấp hơn Sàigòn khi xưa. Ông ta trả lời trong lịch sử loài người, chưa có một quốc gia nào do người nghèo mà giúp đất nước giàu sang. Anh nghèo vì anh không biết cách làm giàu. Ông Thành hình như về Việt Nam sinh sống và làm cố vấn cho Hà Nội.


Từ dạo đó bánh mì của pháp được xuất cảng qua các nước khác dưới màu cờ chính trị bánh mì. Như ở Anh quốc được gọi Du pain ou du sang ! Bánh mì hay máu. Ở Ái Nhĩ Lan tương tự nạn đói xảy ra khi họ bị bắt buộc xuất cảng lúa mì qua Anh quốc, tạo dựng nạn đói kinh khiếp khiến hàng triệu người bỏ nước ra đi qua Hoa Kỳ. Tương tự Ý Đại Lợi cũng có đến 4 triệu người bỏ nước ra đi.


Thời kỳ Phục Hưng và Chế độ Quân chủ Tháng Bảy: Dưới thời Louis-Philippe, cuộc khủng hoảng 1846–1847 (mùa màng thất bát và công nghiệp hóa) đã châm ngòi cho cuộc bạo loạn Buzançais (1847), trong đó nông dân đã hành hình một chủ cối xay đầu cơ. Đỉnh điểm là cuộc Cách mạng năm 1848, với khẩu hiệu "Bánh mì hay chì (plomb có nghĩa đạn chì)!" (hoặc "Bánh mì hay là chết!"), được hô vang trong các cuộc biểu tình. Có những điểm mơ hồ: bánh mì giải phóng người Pháp, nhưng cũng chia rẽ họ. 


Dưới thời thanh trừng khủng bố sau cách mạng, ông Robespierre cho việc phân phối khẩu phần là một "đức tính cộng hòa",(vertu république) trong khi phe Thermidorian lại tự do hóa thị trường, khiến giá cả tăng vọt. Trong khi đó bánh mì là nhu cầu chính ở 40% ở các giáo xứ. Paris dạo đó có đến 1,200 lò bánh mì, với ý thức hệ Bánh Mì như quyền làm người trong bản tuyên ngôn của cách mạng 1789.  Các cuộc cách mạng bên Pháp quốc, nơi bánh mì được chuyển giao từ đặc ân của hoàng gia qua một bổn phận của nền cộng hoà. Nói cho ngay, các cuộc cải cách từ cách mạng 1789 đến 1850 với La Commune, cho thấy các cải cách điền địa chủ giúp các địa chủ, và các sự bất bình đẳng vẫn kéo dài đến ngày nay.


Cho thấy suốt lịch sử của pháp cho thấy cách các cuộc cách mạng đã biến bánh mì thành một vấn đề dân chủ. Người Pháp muốn biến thành "Xứ sở không tưởng dân chủ: Bánh mì cho tất cả". Ai cũng no ấm, đưa đến chủ nghĩa cộng sản, xây dựng thế giới đại đồng mà người cộng sản sau 75 năm tìm cách xây dựng tại Liên Sô, đã thất bại. Liên sô có thể đưa con người lên không gian, xây dựng hoả tiễn bắn xa, với đầu đạn nguyên tử nhưng vẫn thất bại trong việc cung cấp bánh mì cho người dân của họ hàng ngày, mà chúng ta thấy dân tình của xứ Liên Xô phải xếp hàng cả ngày để mua bánh mì hay thực phẩm.


Một chế độ không thể nuôi dân họ, cung cấp điểu căn bản nhất là bánh mì hay gạo cơm thì không sớm thì chày sẽ bị xoá bỏ trong lịch sử. Năm nay chúng ta thấy các nhà cầm quyền bị dân chúng nhất là giới trẻ, không có tương lai đứng dậy đập phá như ở Nepal, phi Châu và mấy hôm nay ở Mễ Tây Cơ.


Ngày nay, ở Hoa Kỳ cũng như Pháp quốc, mình thấy nhiều nhà hàng không những do người Việt làm chủ mà ngay người bản địa cũng treo bảng bán bánh mì thịt. Bánh mì xuất hiện tại Việt Nam do người Pháp đem sang từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, bánh mì nhanh chóng trở thành biểu tượng của đô thị hóa, của văn minh phương Tây, của quyền lực văn hóa và kinh tế của thực dân. Tương tự mình đã kể về nhạc cải cách mượn từ người Pháp.


Nhân tố quan trọng nhất để hiểu sự khác biệt là Việt Nam sống bằng lúa gạo, không phải lúa mì. Trong suốt hàng ngàn năm, cơm là nền tảng của văn hóa, ổn định xã hội và an ninh lương thực. Điều này có nghĩa là bánh mì, dù có phổ biến ở thành thị, không bao giờ trở thành món ăn gắn liền với sự sống còn của đại bộ phận dân cư. Nhớ khi xưa, sáng ở nhà có người đưa bánh mì của lò bánh mì từ đường Phan Đình PHùng, rồi mấy anh em pha sữa đặc hên thì có ovaltine rồi lấy bánh mì chấm ăn, hay sang hơn thì bà cụ mua bơ mỹ về từng cục bực tổ chảng khác với bơ lon Bretel. Trét ăn nhất là khi mua bánh mì Vĩnh CHấn còn nóng hổi, trét bơ vào ăn cực ngon.


Khi người Pháp xây dựng nhà máy xay bột, lò bánh và quán cà phê kiểu Tây tại Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, bánh mì trở thành dấu ấn của văn minh châu Âu. Người Việt lần đầu biết đến ruột bánh trắng mềm, phô mai, bơ, pa tê, jambon, những thứ hoàn toàn xa lạ với khẩu vị truyền thống. Bánh mì, vì thế, mang tính văn hóa nhiều hơn tính kinh tế. Không như bên tây trở thành nhu yếu phẩm mà con người có thể chết sống với. Nói cho ngay chỉ có thành phố lớn mới có bánh mì, lúc đầu làm cho tây ăn nhưng rồi các vị theo tầng lớp tân học, bắt chước ông tây bà đầm để ăn như quan thầy của họ.


Người Việt không thụ động tiếp nhận bánh mì. Ngược lại, họ tái tạo nó theo cách rất riêng: thay đổi bột để bánh nhẹ hơn, vỏ mỏng giòn hơn; thêm đồ chua, rau thơm, nước mắm, thịt nướng. Tất cả mang đậm phong cách ẩm thực bản địa. Sự lai hoá này tạo nên bánh mì Việt Nam, khác hẳn bánh mì Pháp truyền thống. Tương tự phở, lúc đầu họ nấu Pot-au-feu của người Pháp rồi từ từ biến chế qua cách ăn của người Việt.


Quá trình này xảy ra ngay trong thời thuộc địa. Điều đó cho thấy người Việt đã dùng văn hóa ẩm thực như một cách chiếm lĩnh lại không gian của thực dân, bằng việc biến sản phẩm của “mẫu quốc” thành món ăn mang bản sắc Việt. Đây chính là hình thức kháng cự văn hóa mềm. Nói như các nhà cách mạng chống tây nhưng thích nhảy đầm uống rượu nho. 


Bánh mì, tưởng chừng chỉ là một món ăn bình thường, lại đóng những vai trò lịch sử khác nhau tùy vào bối cảnh xã hội. Tại Pháp, bánh mì gắn với mạng sống, với quyền lực và với cách mạng. Nó là biểu tượng của sự sụp đổ của chế độ cũ và của sự ra đời của một xã hội mới dựa trên quyền của con người. Ngược lại, trong Việt Nam thời thuộc địa, bánh mì không mang chức năng sinh tồn mà chủ yếu là biểu tượng văn hoá thực dân. Qua quá trình bản địa hóa, bánh mì trở thành một phần của bản sắc Việt Nam hiện đại, minh chứng cho khả năng tiếp thu và sáng tạo của người Việt trước sự áp đặt của văn hóa ngoại lai. Đi tây ăn được mấy lát bánh mì, về mỹ kể chuyện vớ vẩn. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Out of Africa (rời khỏi Châu Phi)

 Mình theo dõi nhóm chuyên viết lịch sử về phụ nữ, âm thầm thay đổi xã hội, văn hoá, chính trị nên lâu lâu thấy họ đăng lịch sử những bà nhà văn, nhân vật nào đó… mà mình có dịp đọc khi xưa. Thật ra từ một thế kỷ qua, nhiều nhân vật nữ trên thế giới đã thay đổi rất nhiều xã hội về văn hoá, khoa học,… 

Mình có một sự kính nể các phụ nữ qua hình ảnh bà cụ mình, dù chưa bao giờ được đến lớp học nhưng vẫn thành công trong cuộc đời, không để sự nghèo hèn của ông bà mình, vẫn vươn lên trong xã hội tại Việt Nam. Do đó mình có đam mê tìm kiếm các nhân vật phụ nữ trong lịch sử để xem họ đã thay đổi xã hội, chế độ phụ hệ ra sao. Hôm nay có một bà, nói cho ngay không biết tên, chỉ nhớ dạo đi làm ở Luân Đôn thì có xem phim “Out Of Africa” có Robert Redford và Meryl Streep đóng với những phong cảnh đẹp nức nở. Sau này mình có dịp đi leo núi Kilimanjaro thì mới cảm nhận được hình ảnh trong phim. Hình như đạo diễn là Sydney Pollack. Đi xem vì bà thư ký trong công ty, người gốc Ấn Độ nhưng được sinh tại Kenya, rồi lấy chồng Anh quốc, di dân qua Luân Đôn, kêu mình đi xem. Đọc báo dạo đó nói là sau khi phim này trình chiếu thì dân Anh quốc đi nghỉ hè ở Phi châu đông còn hơn người Anh quốc.

Câu chuyện về một phụ nữ chôn người mình yêu tại Phi Châu, rồi chứng kiến đồn điền cà phê của bà ta banh ta lông sau bao nhiêu năm công sức xây dựng vì nói gì thì nói chớ trong một văn hoá như Phi châu, một phụ nữ khó mà sai khiến các nông dân ngu lâu dốt bền như mình nên khó mà thành công. Bà ta trở về âu châu, đói, hết tiền, bệnh và đơn côi. Bà ta mất hết những gì sỡ hữu tại phi châu, tình yêu, tài sản và kể lại hồi ức của thời gian tại phi châu, và cuốn sách này trở thành hồi ký được yêu thích nhất thế giới tây phương.


Karen Dinesen sinh năm 1885 trong một gia đình quý tộc, thông minh, tài hoa và cảm thấy ngột ngạt trong một nền văn hoá, đào tạo phụ nữ thành một hình thức trang trí và tuân lời đàn ông. Năm 28 tuổi, thời đó được xem là ế nguyên thuỷ, bà ta quyết định lấy bá tước Bror von Blixen-Finecke không vì tình yêu và muốn tìm con đường thoát ly. Lý do là bà ta yêu người em sinh đôi của chồng nhưng tên này từ khước, tiếp thu mối tình hữu nghị sông không liền sông núi không liền núi của bà nên chơi sang, lấy thằng anh để tên phụ bạc gọi bà ta bằng chị.


Ông chồng thích giang hồ, khó tin tưởng nhưng ông ta đem đến cho bà một lối thoát ra khỏi Đan Mạch, và họ rời Đan MẠch di dân sang Kenya, Phi Châu. Hai vợ chồng mua độ 450 mẫu đất dưới chân đôi Ngong, gần Nairobi. Và trồng cà phê, được xem là “kim thuỷ”, sẽ làm cho họ giàu có, khi đem cà phê về âu châu bán như Starbuck. Như bao nhiêu kẻ phiêu lưu, họ không biết gì về trồng trọt nhất là cà phê nơi xứ lạ. Đất của họ mua nằm trên đồi, cao độ quá cao để trồng cà phê. Đêm đêm trời lạnh nên cây cà phê chới với. Vụ này thì mình hiểu vì vườn bơ của mình ở vùng Riverside, nằm trên đồi cao, không nằm trong khu vực bị lạnh cứng chớ vùng Temecula thì có vấn đề này hay cách vườn mình độ 5 dặm, nằm dưới thấp là ngọng. Mùa đông lạnh dưới 30 độ F thì chủ nông trại phải đốt lửa rồi dùng quạt gió để thổi hơi ấm nếu không thì trái bị đông cứng thì bị hư ngay. Khu vực vườn mình thì nằm trên cao nên có gió thổi nên không bị lạnh lắm nên không vướng vụ này. Hú vía.


Ông chồng thì thuộc giống quý tộc nên tối ngày đi săn thú Safari như tây đồn điền khi xưa ở Đà Lạt. Nên bà ta từ một gia đình quý tộc phải làm lo lắng mọi thứ cho nông trại. Tiền bạc, nông dân,… rồi một ngày đẹp trời, ông chồng đi săn về và truyền cho bà ta bệnh hoa liễu vì gái gú trong các chuyến đi săn.

Thời ấy thì chưa có thuốc chữa như ngày nay. Họ chỉ hạn chế bằng cách sử dụng thạch tín và thuỷ ngân nên huỷ hoại từ từ thân thể của bà ta. Bà ta phải trở về Đan Mạch nhiều lần để chữa trị, thuỷ ngân làm hư răng của bà ta, hệ thống tiêu hoá cũng như thần kinh. Bà ta đau ốm cả đời đến khi qua đời. Có một ông gốc Đà Lạt kể cho mình là ông bố đi chơi gái bị bệnh hoa liễu về làm một phát bà mẹ bị bệnh này luôn nên hết sinh con đẻ cái. May là thời đó tây đã tìm được thuốc chữa trị.


Bà ta ly dị ông chồng năm 1925 sau 12 năm chung sống sơ sơ nhưng vẫn ở lại giữ cái trại cà phê. Bà ta cương quyết phải thành công. Trong phim họ quay Meryl Streep đẹp như bà mỹ chả thấy hư răng hư cỏ gì cả. 


Buồn đời bà ta có duyên gặp ông Denys Finch Hatton, người Anh quốc, tốt nghiệp đại học Oxford, có văn hoá, trí thức khác với ông chồng bá tước vớ vẩn. Ông thần này thì sang phi châu cũng để đi săn bắn thú và làm phi công. Ông ta yêu bà này nhưng không muốn đám cưới, bị ràng buộc. Trong khi bà ta thì muốn có một cuộc sống an bình. Nên hai người sống với nhau vài tuần rồi ông ta đi săn cả tháng, trở lại.


Trong phim thấy họ quay cảnh nghe nhạc Mozart, đọc thơ, hay xem mặt trời lặn, đủ thứ khiến mình muốn đi phi châu. Khi sang đây thì khám phá trong phim họ không có quay cảnh mấy con muỗi chích hay ruồi bu như ruồi bu. Cho nên khi xem phim là một chuyện còn thực tế là một chuyện. Khỏi phải đưa đồng chí gái sang đây vì mụ vợ không thích bị muỗi chích.


Bà ta có viết là chàng không có nhà ngoài cái lều che nắng che mưa. Thật sự đàn ông không thích bị ràng buộc lắm. Bà này bị bệnh hoa liễu nên mình không biết ra sao, thêm bệnh hoạn, răng cỏ bú xấu la mua. Gần 40 chắc cũng hết khả năng làm mẹ.


Đang bơi lội trong vòng hạnh phúc vô biên, âm nhạc của Mozart, thi ca nên bà ta quên lo vụ cà phê nên nợ nần chồng chất nên cuối cùng đành phải bán nông trại. Hoạ vô đơn chí, ông bồ buồn đời hay sao lái máy bay rồi đâm vào núi. Bà ta chôn người tình không bao giờ cưới ở đồi Ngong, nơi ông bồ yêu thích nhất rồi rời Châu Phi trở về Đan Mạch. Sạch túi, sạch tình. Chỉ còn lại mới ký ức vì cuộc tình không trọn vẹn và sự trống vắng dung dịch vô biên của đời người.


Thông thường ai lâm vào tình trạng của bà ta chắc lâm vào bệnh trầm cảm này nọ. Bà ta thì không, bà ta bắt đầu viết kể lại cuộc đời bà ta từ khi rời Đan Mạch. Bà ta lấy bút hiệu Isak Dinesen (Isak theo tiếng do thái, có nghĩa là “người thích cười” và Dinesen là họ của bà ta). Và bà ta bắt đầu viết về cuộc đời ở Phi châu. Bà ta viết cuốn “Out of Africa” (rời khỏi Phi Châu) và được xuất bản năm 1937. 


Bà ta viết về thiên đàng đánh mất tại pHi châu, một thời trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tạo dựng cơ ngơi tại một đất nước khác, không gò bó như những người di dân đến Hoa Kỳ hay một nước nào khác. Đau khổ vì tình yêu, như TTKH đi bên cạnh ái ân của chồng tôi vì bị bệnh hoa liễu. Rồi phát hiện ra mối tình hữu nghị sông liền sông núi liền núi để rồi tình yêu vỗ cánh bay theo chiếc máy bay bà già rớt đâu đó trên ngọn đồi Châu Phi. Nông trại bà ta cố công phát triển cũng tan theo mây khói. Như các gia đình pháp sang Việt Nam như ở Đà Lạt, gia đình La Farrault, O’neil ,…muốn biến Đà Lạt thành khu nông nghiệp trồng trà, nuôi bò này nọ. Mình người Việt thì kêu là thực dân này nọ nhưng thật ra họ đem sự hiểu biết văn mình đến cho các thuộc địa. Ngày nay thực dân đã ra đi, rời khỏi CHâu Phi nhưng người sở tại vẫn không khá gì mấy trước kia. Khi xưa, thằng thực dân bốc lột, nay thằng đánh đuổi thực dân học nghề lại bốc lột dân bản địa nên thấy tương lai mịt mù. Nay người Tàu đến thì lại thấy hình ảnh mấy người sở tại đi tìm các ông ba tàu chém giết vì bốc lột họ.


Sau cuốn Out of Africa, bà có viết thêm nhiều cuốn nữa nhưng không được độc giả ưa thích lắm. Bà ta được đề cử văn chương Nobel mấy lần nhưng không được. Nhà văn Ernest Hemingway cho rằng bà ta xứng đáng là khôi nguyên văn chương Nobel hơn ông ta nhưng có lẻ thời đó xã hội còn kỳ thị phụ nữ.

Nhờ qua tác phẩm của bà ta mà người ta biết đến Safari , thú vật ở phi châu khiến du khách tò mò muốn khám phá. Mình nhờ đọc Hemingway mới muốn bò lên đỉnh núi cao nhất Châu Phi, Kilimanjaro.


Đọc cuốn sách thì hay hơn xem phim. Khi xem phim thì thấy hình ảnh này nọ chuyện tình thì chả hiểu gì nhiều lắm nhưng khi đọc cuốn sách, mới hiểu thêm về chủ nghĩa thực dân, sự xung đột hay đối xử với người bản địa ra sao.


Nay về già mới nhận ra là bà ta như mình, rời Đà Lạt ra hải ngoại, tạo dựng cuộc đời mới, lập gia đình, có con cái. May mắn không gãy cánh giữa đường như nhiều người bạn quen. Cuộc đời qua bao nhiêu chông gai, vợ chồng vẫn đồng hành vượt qua. Trong khi bà Karen, cảm thấy tù túng tại Đan Mạch. Ai chưa đi Đan Mạch chớ xứ này ít người, chán như con gián. Bà ta muốn thoát ra khỏi không gian tù túng, không muốn an phận cuộc đời nên chấp nhận lấy ông chồng không yêu thương gì để thoát khỏi không gian của xã hội cổ xưa.


Hồi ký của bà ta rất sống động, kể về cuộc sống tại phi châu, các toan tính, lo lắng khi làm nông dân, văn hoá phong tục của người bản địa, tình yêu vợ chồng như người tình hờ. Để rồi gặp ông thần phi công. Ông này cũng vậy, muốn thoát khỏi xứ sương mù, lái máy bay chở khánh khách, đi săn bắn. Ông ta cũng như bao đàn ông khác, không muốn bị kềm kẹp vào một tình yêu, bị trói buộc vào trách nhiệm người chồng, người cha. Chỉ muốn yêu như làm thơ, trong khi bà Karen thì muốn biến tình yêu thành công cụ, làm ô sin cho mình.


Bỏ cả tuổi thanh xuân để kiến tạo một tương lai vững vàn về tài chánh, tình yêu để rồi mất tất cả cho nên văn hoá của tây phương không có câu: “đỏ tình đen bạc” hay ngược lại. Đỏ tình thì đỏ tiền còn đen tình thì đen bạc. Anh hay chị có tiền thì gái hay trai đẹp bu lại đen còn hơn ruồi còn không có thì chả có thằng nào hay cô nào bu lại. Chán Mớ Đời 


Nhưng nhờ bà ta can đảm nhìn lại đời thấy rong rêu nên viết lại hồi ký một đời người đầy thất bại, vừa tiền bạc vừa tình yêu bằng anh ngữ. Có lẻ tại phi châu bà ta sử dụng anh ngữ nhiều hơn nhất là khi cặp bồ với ông phi công người anh. Cuối cùng bà ta thành công qua văn chương thay vì qua nghề trồng cà phê. Nhưng phải trải nghiệm mới có chất sống để viết thay vì ngồi bựa ra hay kêu Ây Ai viết dùm. Chán Mớ Đời 


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Mua nhà người qua đời

 Lại chuyện mua nhà người đã qua đời


Tháng trước, con của bà Betty nhắn tin kêu muốn bán căn nhà ở Lone Pine cho mình và nghĩ bà ta sẽ rất mừng khi mình sở hữu căn nhà này. Khá xa, chạy mất 4 tiếng nhưng chỗ này là nơi thiên hạ đến để leo đỉnh núi Whitney và các nơi khác trong vùng thuộc dãy núi Sierra, Cali. Mình có ngủ lại thành phố này 2 lần khi leo đỉnh Whitney. Mình quên vụ bà Betty có căn nhà ở đây nếu không thì đã hỏi con của bà, khỏi phải ngủ motel. 


Khi xưa, bà Betty nói có mua căn nhà này. Bà ta muốn mua ở Mammoth nhưng thằng con muốn leo núi Whitney và câu cá, chạy xe moto này nọ. Phải chi mua ở Mammoth thì bây giờ giàu vì mỗi ngày mùa đông cho thuê cả $1,000/ đêm. Còn chỗ này thì mùa đông ít ai lại vì lạnh, không có nơi trượt tuyết. Chỉ đến vào mùa hè. Bà ta nói khi nào dẫn vợ con lên đây chơi, nói bà ta chỉ chỗ để chìa khoá.


Mình và thằng con chạy lên xem nhưng không ở lại vì sắp sửa đi Alaska. Nhà xem được, có hồ bơi. Garage rộng có thể làm ADU cho thuê được. Rồi chạy về vì mụ vợ bận bơi lội trong không gia âm nhạc, không đi theo nên hai cha con không dám để vợ ngủ một mình ở nhà. Hỏi giá bao nhiêu, họ kêu $450,000 khiến mình thất kinh. Hỏi cho vay lại thì họ nhất trí. Họ nói bà Betty chắc sẽ vui nếu mình mua lại căn nhà vì bà mến mình. Mình hỏi họ cho vay ra sao. Họ nói sẽ gặp luật sư để hỏi này nọ rồi họ i-meo nói $450,000, đặt cọc 10% và trả $6,000/ tháng khiến mình đứng tim. Nói nhiều quá chắc không mua. Nói khi xưa, mình mua căn nhà của mẹ họ $153,000, trả mỗi tháng $947.43/ tháng nay căn này giá gấp 3 mà trả gấp 6 lần. Mấy ngày sau, tưởng họ tìm bán cho người khác, ai ngờ họ i-meo lại kêu $3,000/ tháng không có tiền lời, trả trong vòng 10 năm. Mình nói giá bây giờ thì có thể mua nhưng sắp đi Ý Đại Lợi rồi nên đợi mình về rồi bàn lại. Kiểu này chắc lễ Tạ Ơn hay Giáng Sinh, có dịp lên đây ở lại, đi dã ngoại xem núi tuyết.


Cách đây 26 năm, mình đọc báo thấy có nhà bán với câu “will carry”. Với tư chất nông dân ngu lâu dốt bền nên gọi điện thoại hỏi. Thì bà Betty trả lời, giải thích là thay vì mượn tiền ngân hàng thì bà ta sẽ cho mình vay. Thế là mình hẹn đến xem nhà, căn nhà bà ta cho thuê, nay người thuê dọn ra, không muốn đụng đến nữa, nên bán. Muốn tránh đóng thuế cao nên bà ta bán và cho vay lại. 


Ở Hoa Kỳ, khi mua nhà thì lâu ngày giá cả do chính phủ cố ý làm để lạm phát, gia tăng để xù nợ những ai mua công khố phiếu. Chính phủ không làm ra tiền nên chỉ biết in tiền, gây lạm phát. Mua công khố phiếu $10,000 thì 30 năm sau chỉ tương đương độ $3,000 ngày nay. Như trường hợp bà Betty, mua căn nhà này với ông bạn, giá đâu $50,000 khi xưa. Đến khi người mướn nhà dọn ra thì bà ta đã trên 70 nên muốn lái xe đi giang hồ nên kêu bán giá $153,000. Khi bán thì trên nguyên tắc lời độ $100,000 rồi chính phủ lại cộng thêm tiền bà ta đã khấu hao trừ suốt 20 năm thì xem như cộng thêm độ $25,000. Cộng lại bà ta phải đóng thuế trên số tiền $125,000, xem như bay đứt 50% nên không muốn. Do đó muốn tránh đóng thuế thì phải mua lại căn nhà khác bằng giá nhà bán hay cho vay lại mà sở thuế gọi là “installment Sale” thì chỉ đóng thuế tiền nhận của mình mỗi năm là $947.43 x 12 tháng. Ít hơn là $75,000 một lúc.


Xem như bà ta cho thuê, có tiền hàng tháng $947.43 mà không phải lo sửa ống nước này nọ,…


Do đó mình chỉ mua nhà từ những người về hưu và không muốn trả thuế nhiều. Nay cũng chỉ tụi con cách mua này rất gọn, chả ai hỏi giấy tờ mình cả. Tháng trước đi Alaska gặp ông mỹ bán khu thương mại mấy triệu và cho vay lại. Ông ta chả bao giờ hỏi số an sinh xã hội bú xua la mua như khi mượn tiền ngân hàng. Đồng ý giá cả, escrow làm giấy tờ ông ta ký và mình ký. Tháng trước gặp ông ta lần đầu tiên và có bàn mua 10 mẫu đất của ông ta. Ông ta nói để giải quyết tình trạng sức khoẻ của ông ta xong thì sang năm bàn đến vụ này. Xong om


Mình mua cho thuê rồi từ từ bà ta mến nên giới thiệu bạn của bà ta muốn bán nhà. Sau này bà ta ký giấy (first right of refusal) cho phép mình mua căn nhà của bà đang ở nếu sau này bà ta không sử dụng nữa. Sau bà ta qua đời thì mình tiếp tục trả cho con trai bà ta đến hết nợ cách đây 4, 5 năm. Nay nhà bà ta thì cháu nội ở nhưng mình vẫn có quyền mua căn nhà  này. Nếu sau này cháu nội bà ta bán thì mình sẽ có quyền đầu tiên từ chối mua căn nhà này.


Mình nhớ khi xưa, bà Betty có kể là con trai nhất là cô con dâu tiêu tiền như điên. Làm ăn chả ra gì, bà ta về hưu giao lại cho tiệm của ông bà làm ăn khá lắm nay con trai và cô con dâu làm ngáp ngáp. Lại chơi sang, đi mua sắm với bà ta, cô con dâu đều chạy xe để valet parking thay vì chạy đi đậu rồi đi bộ lại.


Mình đoán lý do con trai bà ta liên lạc để bán lại cho mình và cho vay lại, là trong di chúc, bà Betty có nói đến khi nào bán thì phải bán cho mình và cho vay lại vì nếu bán lấy tiền là số tiền sẽ bị người con trai và cô vợ đốt nhanh lắm. Mình thấy xa nên không muốn mua nhưng họ cứ liên lạc hoài nên đoán vậy. Để mình đi Âu châu về rồi tính, thương lượng lại số tiền nhất là phải bò lên đó ở vài ngày, và nói chuyện với mấy người hàng xóm đang lo xem nhà dùm cho họ. Để xem có làm AirBnB được không hay có ai đó cho thuê cho xong.


Mình thì mấy cô gái trẻ thì chê như ma chê quỷ hờn nên ế vợ rất lâu nhưng mấy bà già Mỹ rất mến mình nên hay giới thiệu bạn bè có nhà cửa bán cho mình. Họ cũng như cha mẹ người Việt, cũng lo lắng cho con cháu sau này. Thấy đứa nào khá thì để gia tài lại nhưng bà Betty chỉ có 2 đứa con trai. Bà ta mua cho mỗi đứa một căn nhà. Thằng con thứ 2 thì chơi sì ke nên muốn bán nhà, bà ta kêu mình mua rồi đang làm giấy tờ thì thằng con bị một tên bạn, ở tù ban đêm, ban ngày được thả ra, chở xuống Tijuana, giết cướp $50,000 vì ông thần mượn tiền của ai, cấn vào căn nhà. Thế là mình ngọng, phải trả số tiền nợ của tên con trai thứ 2 quá nhiều. Chỉ còn lại thằng con đầu nhưng cũng chả làm ăn gì, cứ kéo máy ATM của bà. Có lẻ vì vậy, bà ta viết di chúc, nếu muốn bán nhà cửa của bà ta để lại thì phải bán cho Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen.


Hai đứa con mình nay chịu khó học nghề của mình đi mua nhà nên có lẻ căn này mình sẽ để chúng mua. Dạy chúng từ bây giờ để 15 năm nữa chúng có thể về hưu như mình. Tuần trước, con gái và thằng Bồ về thăm, hỏi mình đủ trò. Chúng tính đi học lại một khoá về tài Chánh, mình nói về thăm mẹ chúng mày rồi thắc mắc gì thì bố trả lời. Mình dẫn chúng xuống thăm một ông thầy cũ của mình ở San Diego để chúng nói chuyện, hỏi thêm. Chúng tính sẽ ghi danh bay về học riêng với ông ta. Xong om


Hai đứa con trả lời; muốn mua căn nhà này nên chắc chắn sẽ mua. Mình giải thích khi xưa cuối tháng thay vì gửi  ngân phiếu trả tiền nhà qua bưu điện, mình ghé lại nhà để trả và nói chuyện hiểu thêm về gia cảnh nên nói bà Betty cho mình option để mua sau này. Có lần bà ta muốn bán mình căn nhà ở Wyoming. Đang tính đến hè chạy lên ở xem sao thì mùa đông đến, bị bể ống nước, phải thay khẩm bạc nên mình không mua luôn.


Mấy người khác như bác sĩ Sulzbach cũng mến mình nên kêu bán thêm mấy căn nhà cho thuê khác. Khi ông bà chết thì mình tiếp tục trả tiền cho 3 người con đến hết nợ.



Hôm qua, mình đi bộ ngoài biển nên đột phá tư duy cho ai về hưu, muốn ở Cali rất rẻ. Mình thấy có nhiều người Mỹ lớn tuổi. Họ chạy xe van hay RV ra đây đậu. Mình đoán là họ mua thẻ đậu xe cho người già suốt năm giá $20 như mình. Sáng 7 giờ chạy xe ra đây, đậu xe, sử dụng nhà vệ sinh công cộng, tắm nước vòi sen công cộng, hơi lạnh khi mùa đông. Đem gắn điện năng mặt trời, nấu ăn ngoài biển thoải mái. Tối 10 giờ đóng cửa thì chạy đến chỗ nào Khu dân cư Hungtinton Beach, đậu xe rồi ngủ qua đêm. Mua chiếc van trên là khoẻ, buồn đời chạy đi chơi, du lịch ngủ trong các nơi cắm trại.


Đồng chí gái không chịu chớ em thích vụ này. Cho thuê nhà đang ở, rồi trả $20/ năm tiền thuê chỗ trong ngày, và mua thêm một cái pass, vé hàng năm giá hữu nghị cho người già ở các công viên Cali, rồi lái xe đến đậu chỗ này chỗ kia, tối về, đậu lại trước một căn nhà cho thuê là xong chuyện. Kẹt lắm thì xin vào tắm rửa này nọ. Xong om.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 



Nguyễn Hoàng Sơn