Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Trung Cộng và cuộc chiến thuế quan 2025


Mình hay theo dõi các podcast của người Tàu tại Hoa Kỳ, và Úc Đại Lợi nhất là các cựu du học sinh ở lại sau vụ Thiên An Môn. Để biết thêm tin tức về Trung Cộng qua các nhà đối lập ở hải ngoại. Qua những tin tức của nhóm mới hiểu những gì chúng ta biết về Trung Cộng thật sự không phải vậy mà do sự tuyên truyền. Cũng phải dè chừng vì có thể Trung Cộng cài người để thu toán dân phản động gốc tàu ở Hải ngoại. 


Được biết là sau vụ cách mạng văn hoá của Mao thị, các lính tráng cán bộ về lại thành phố thì nông dân quá chán ngáng vụ này nên họ từ từ tạo dựng một nền kinh tế chui. Từ đó Đặng Tiểu BÌnh sử dụng hệ thống này để mở mang kinh tế Trung Cộng. Chớ không phải ông ta đột phá tư duy gì cả. Ông ta là một hoàng đế sau Mao Má Má.

Mình bắt đầu hiểu Trung Cộng bị bao vây bởi các nước tư bản theo chế độ dân chủ như Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn nên họ đã bất chấp ký kết với Anh quốc, đã đàn áp Hương Cảng, hết còn tự do dân chủ. Trung Cộng vẫn là chế độ cộng sản và họ luôn luôn lo sợ bị loại trừ như Liên Sô mà tìm cách đàn áp để tồn tại.


Tại sao Trung Cộng chơi cha thiên hạ làm vùng biển Đông là lưỡi bò của họ. Họ cho xây dựng tại các đảo chiếm của Việt Nam Cộng Hoà, Phi luật Tân,… các phi trường quân sự, căn cứ quân sự,… vấn đề là ngày nay các hòn đảo, căn cứ quân sự nhân tạo này bắt đầu bị lún. Chúng ta thừa biết nền xây dựng của người Tàu là đồ hàng mả. Một nhà chọc trời 30 tầng ở Vọng Các, cách Miến Điện hơn 1,000 cây số bị xụp trong khi các cơ sở khác chả động đậy. Thậm chí ở xứ họ cũng được xây dựng theo kiểu đậu hủ mà thủ tướng của họ tự hỏi tại sao xây dựng như thế này. Vì nhanh chóng lập thành tích và ăn gian hối lộ. Những gì chúng ta thấy họ xây dựng nhanh chóng tại Trung Cộng khó mà đứng vững lâu ngày. Bạo phát bạo tàn.


Ông ta kể năm 2019, có trở về đại học bên Trung Cộng nơi ông ta đã giảng dạy để kỷ niệm vụ đại học này được 100 năm hay chi đó. Ông ta nhận thấy Trung Cộng rất thay đổi. Các hạ tầng cơ sở được xây dựng cho những người sống tại thành thị nhưng một khi ra khỏi thị thành thì chỉ còn đường đất như xưa. Có hai loại Trung Cộng: thôn quê và thành thị. Những người thôn quê nuôi sống dân thành thị.


Trung Cộng xây dựng hình ảnh nên chúng ta thấy biết bao nhiêu thành phố ma, bỏ hoang không ai ở. Trung Cộng muốn người Tàu vào đó ở nhưng quá đắt. Không ai có thể trả nổi. Không lẻ trở lại lối xưa, cung cấp miễn phí cho người dân.


Điển hình là vụ Thiên an Môn, năm 1989. Sự thật là lạm phát gia tăng hơn 50% khiến dân tình ở thôn quê bức xúc, nổi loạn. Chúng ta chỉ thấy hình ảnh 100,000 lính tàu bắn chết đâu 2,000 người tại Thiên An Môn. Điểm hay là cả thế giới xem vụ này trực tiếp. Các người ở thôn quê của Trung Cộng được xem đồng thời các nước đông Âu và Liên Xô cũng đặt câu hỏi, có nên sử dụng biện pháp của người Tàu cộng sản để áp dụng với dân của họ. Câu trả lời là không nên đưa đến các phong trào chống đối ở Đông Âu khiến bức tường Bá Linh bị xụp đỗ và Khối Liên Xô tan theo mây khói. Cho thấy người cộng sản Âu châu ít ra còn có chút nhân bản trong người và lý trí để hiểu họ đã sai và cần thay đổi, không bám vào quyền lực như anh ba tàu. 


Có ông giáo sư người Hoà Lan, từng dạy trại Trung Cộng và làm việc tại Hương Cảng, tên Frank Dikötter co viết nhiều cuốn sách về Trung Cộng nhưng mình chỉ có đọc được China After Mao: The Rise of a Superpower(2022). Khá hay. Ông ta giải thích Trung Cộng là một đế chế, thừa hưởng đế chế này từ Nhà Thanh tương tự Đảng cộng sản Nga cũng thừa hưởng đế chế từ Sa Hoàng. Do đó Trung Cộng bằng mọi cách tìm cách củng cố sự tồn tại của họ, để không rơi vào trường hợp đế chế Liên Xô tan rã. Mình tóm tắc sau đây cuốn sách. Ai buồn đời nên tìm đọc cuốn này. Lý do lịch sử tàu rất liên quan đến Việt Nam. Việt Nam trong suốt bao nhiêu năm đều rập theo khuôn của người Tàu.


Frank Dikötter, một nhà sử học người Hoà Lan và thành viên gần đây tại Viện Hoover, một think tank bảo thủ, lập luận trong cuốn Trung Quốc sau Mao: Sự trỗi dậy của một siêu cường (2022) cho rằng vị thế siêu cường của Trung Quốc bị phóng đại do những điểm yếu nội tại nghiêm trọng, bất chấp các tiến bộ kinh tế và quân sự. 


Dikötter cho rằng hình ảnh siêu cường của Trung Quốc là một ảo ảnh được xây dựng cẩn thận, che giấu những điểm yếu hệ thống. Ông ví Trung Quốc như “một con tàu chở dầu trông ấn tượng từ xa, nhưng bên dưới boong, các thủy thủ đang tuyệt vọng bơm nước và vá lỗ để giữ tàu nổi.” Hàng ngày mình thấy tin tức từ Trung Cộng cho hay họ chế cái này phát minh cái kia khiến mình thất kinh. Nghe nói họ đêm Drone qua Việt Nam để phóng lên trời cho người Việt xem nhưng không may bị ma trơi làm sao rụng hết xuống sông Sàigòn.

•  Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sử dụng tuyên truyền để thể hiện sự thống nhất và tiến bộ, kiểm soát thông tin để thổi phồng thành tựu và đàn áp bất đồng. Ví dụ, trong Cách mạng Văn hóa (1966–1976), truyền thông nhà nước miêu tả Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, dù nạn đói và hỗn loạn lan rộng. Sau Mao, kiểm soát này vẫn tiếp diễn với internet bị kiểm duyệt (Tường lửa Vĩ đại) và truyền thông nhà nước định hình câu chuyện. Mình nghe có bờ lốc cho biết ngày nay thiên hạ vượt tường lửa rất nhiều. Để tìm tài liệu ở ngoại quốc. Về Việt Nam thì đánh chữ BBC là tắt ngúm dù đài này được xem là thiên tả. Có vài cá nhân sẵn sàng chết, treo biểu ngữ kêu gọi dân chủ, tự do trên mấy thành phố như Bắc Kinh và Thượng Hải.


Ông Dikötter trích dẫn tài liệu lưu trữ cho thấy các quan chức địa phương giả mạo dữ liệu kinh tế và xã hội để đáp ứng mục tiêu của chính quyền trung ương, tạo ra bức tranh sai lệch về tiến bộ. Chẳng hạn, thời Đặng Tiểu Bình, số liệu sản lượng nông nghiệp bị thổi phồng che giấu nghèo đói ở nông thôn.


Tuyên truyền toàn cầu, như Viện Khổng Tử và quảng bá Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), khuếch đại hình ảnh Trung Quốc như một siêu cường nhân từ, nhưng ông Dikötter cho rằng điều này che giấu sự bất mãn trong nước và sự mong manh kinh tế. Mình có xem nhiều phim tài liệu nghiên cứu về thế hệ trẻ ngày nay khiến Đảng cộgn sản Trung Cộng lo sợ. Giới trẻ không muốn làm ăn, có phong trào ù lì, không thèm hăng say sản xuất lao động làm giàu. Thêm ngày nay có đen s30% sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp.


Thế vận hội Bắc Kinh 2008 là màn trình diễn toàn cầu về sự hiện đại của Trung Quốc, nhưng sự kiện này che giấu việc cưỡng chế di dời và đàn áp các cuộc biểu tình, cho thấy ĐCSTQ ưu tiên hình ảnh hơn thực chất. Nghe nói đạo diễn Steven Spielberg được mời để tạo dựng buổi khai mạc nhưng bị cấm cản đủ trò nên ông ta từ chối. 


Dikötter nhấn mạnh rằng ảo ảnh này không chỉ đánh lừa phương Tây mà cả chính ĐCSTQ, khi các lãnh đạo dựa vào dữ liệu bị thao túng, dẫn đến sai lầm chính sách. Cái này thì có lẻ đúng. Chính ta có thể nói dối với thiên hạ nhưng cá nhân không thể nào tự nói láo.


Mình tính đi du lịch lại Trung Cộng sau 16 năm nhưng có ông Mỹ từng làm cho tòa đại sứ ở Việt Nam và Trung Cộng kêu không nên. Nguy hiểm cho du khách mỹ. 20 năm về trước thì được còn nay thì người Tàu không ưa người Mỹ. 

Sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc ấn tượng nhưng được xây dựng trên nền tảng không ổn định, với ngân hàng ngầm, bất bình đẳng, và thách thức nhân khẩu học đe dọa sự ổn định dài hạn.

•  Tăng trưởng kinh tế: Các cải cách sau năm 1978 dưới thời Đặng Tiểu Bình đưa Trung Quốc từ nền kinh tế lớn thứ 126 lên thứ hai thế giới về GDP danh nghĩa (hơn 18 nghìn tỷ USD năm 2023). Các Khu kinh tế đặc biệt (SEZs) như Thâm Quyến thu hút đầu tư nước ngoài, và chính sách thị trường thúc đẩy sản xuất.

•  Điểm yếu ẩn giấu:

•  Ngân hàng ngầm: Đến năm 2022, các khoản vay không được kiểm soát ước tính 10 nghìn tỷ USD nợ, thúc đẩy tăng trưởng nhưng gây rủi ro bất ổn tài chính.

•  Bất bình đẳng: Hệ số Gini (đo lường bất bình đẳng thu nhập) tăng từ 0,30 năm 1980 lên 0,47 năm 2018, với giới tinh hoa ven biển thịnh vượng trong khi nông thôn tụt hậu.

•  Khủng hoảng nhân khẩu học: Chính sách một con (1979–2015) tạo ra dân số lão hóa. Đến năm 2100, gần 50% dân số Trung Quốc sẽ trên 65 tuổi (ước tính của Liên Hợp Quốc), gây áp lực lên lương hưu và thị trường lao động. Năm 2023, dân số Trung Quốc giảm lần đầu tiên trong sáu thập kỷ. 1 người đi làm để nuôi một người về hưu?

•  Dữ liệu bị thao túng: Tài liệu lưu trữ từ Trung Quốc sau Mao cho thấy số liệu GDP thường bị thổi phồng. Ví dụ, tỉnh Liêu Ninh thừa nhận năm 2017 đã giả mạo dữ liệu kinh tế trong nhiều năm.

•  Xu hướng gần đây: Tăng trưởng giảm xuống 3% năm 2022 (sau phong tỏa COVID) và 5,2% năm 2023, dưới mức 6–8% cần thiết để duy trì việc làm và trả nợ. Khủng hoảng bất động sản (như nợ 300 tỷ USD của Evergrande) phơi bày tăng trưởng quá đà.

•  Ví dụ: BRI, thường được ca ngợi là biểu tượng của bá quyền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, bao gồm các khoản vay cho các nước đang phát triển mà nhiều quốc gia không thể trả (như cảng Hambantota của Sri Lanka), tạo ra bẫy nợ hơn là quan hệ đối tác bền vững.

•  ông Dikötter lập luận rằng tăng trưởng của Trung Quốc dựa vào lao động giá rẻ và quy định lỏng lẻo, những lợi thế hiện đang suy giảm khi lương tăng và chuỗi cung ứng toàn cầu đa dạng hóa. Nay với thuế quan, Ấn độ và các nước khác sẽ nhảy vào thay thế. người Tàu có thể ra đi nhưng máy móc, nhà sản xuất không thể do đó các công ty lớn sẽ đầu tư vào các nước khác. 


 Đàn áp chính trị và nỗi sợ hãi hệ thống

•  Lập luận cốt lõi: Hệ thống chính trị Trung Quốc là một đế chế mong manh được duy trì bằng đàn áp, tuyên truyền, và sự hoang tưởng, không có khả năng thích nghi cần thiết cho vị thế siêu cường thực sự.

•  Kiểm soát của ĐCSTQ: Quyền lực độc quyền của ĐCSTQ, được quy định trong Điều 1 Hiến pháp Trung Quốc, loại bỏ đa nguyên chính trị. Sau Mao, các cải cách của Đặng Tiểu Bình tự do hóa thị trường nhưng không mở rộng chính trị, như được thấy trong vụ thảm sát Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, nơi hàng trăm (có thể hàng nghìn) người bị giết để dập tắt đòi hỏi dân chủ.


•  Giám sát hàng loạt (như hệ thống tín dụng xã hội, theo dõi 1,4 tỷ dân).

•  Kiểm duyệt bất đồng ý kiến (như giam giữ các nhà hoạt động như Lưu Hiểu Ba, người đoạt giải Nobel).

•  Đàn áp các nhóm như Pháp Luân Công và người Hồi giáo Uyghur, với hơn 1 triệu người bị giam trong các trại ở Tân Cương (ước tính của Liên Hợp Quốc).

•  ĐCSTQ sợ “diễn biến hòa bình” (tự do hóa kiểu phương Tây) và chính người dân của mình. Tài liệu lưu trữ cho thấy nỗi ám ảnh của Đặng Tiểu Bình về việc ngăn chặn sự sụp đổ kiểu Liên Xô, dẫn đến kiểm soát tư tưởng chặt chẽ hơn dưới thời Tập Cận Bình.

•  Dikötter bác bỏ hình ảnh Tập Cận Bình như một lãnh đạo đổi mới, miêu tả ông là một ứng viên thỏa hiệp được chọn năm 2012 vì thiếu quan điểm mạnh mẽ, giúp sự thống nhất của đảng. Chiến dịch chống tham nhũng của Tập, dù được ủng hộ, chủ yếu nhắm vào đối thủ, củng cố quyền lực.

•  Các cuộc biểu tình ở Hồng Kông năm 2019–2020, do dự luật dẫn độ kích động, dẫn đến hơn 10.000 vụ bắt giữ, cho thấy ĐCSTQ không khoan nhượng với quyền tự trị bất chấp các thỏa thuận quốc tế.

•  Dikötter so sánh Trung Quốc với Liên Xô, lưu ý rằng sự cứng nhắc chính trị tạo ra tính dễ vỡ, vì ĐCSTQ không thể cải cách mà không đe dọa chính sự tồn tại của mình.


•  Quân đội Trung Quốc, dù lớn, thiếu kinh nghiệm chiến đấu và đối mặt với thách thức hậu cần, khiến người ta nghi ngờ về tư cách siêu cường của nước này. Lần cuối đánh trận năm 1979 ở biên giới Việt Hoa te tua. Bị bộ đội Hà Nội đánh te tua dù không phải các sư đoàn chính quy.


• Ngân sách quốc phòng Trung Quốc (292 tỷ USD năm 2023) chỉ đứng sau Mỹ, với tiến bộ trong tên lửa siêu thanh, hàng không mẫu hạm, và chiến tranh mạng.


•  Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) không tham gia xung đột lớn kể từ Chiến tranh Trung-Việt năm 1979, một trận chiến tốn kém và bế tắc. Hình như 1989 cũng có xung đột với Việt Nam nhưng ít ai nói đến.

•  Các chiến dịch phức tạp như xâm lược Đài Loan đòi hỏi khả năng đổ bộ và hậu cần chưa được kiểm chứng. Mình đọc đâu đó là gia đình người Tàu chỉ có một con nhất là con trai thì không ai muốn con mình đi lính, đánh giặc chết.

•  Các vụ bê bối tham nhũng (như sĩ quan PLA bán thăng chức) làm suy yếu sự sẵn sàng.

• Không như Mỹ, Trung Quốc thiếu mạng lưới căn cứ toàn cầu, hạn chế khả năng phát triển sức mạnh. Các cảng BRI (như Gwadar, Pakistan) mang tính thương mại, không phải quân sự.

•  Các cuộc tập trận quân sự của Trung Quốc gần Đài Loan năm 2022–2023 gây đe dọa nhưng bộc lộ khoảng cách trong hoạt động chung và chuỗi cung ứng, theo báo cáo của Ngũ Giác Đài.

•  Dikötter đặt câu hỏi liệu các mối đe dọa quân sự của Trung Quốc có đáng tin cậy, cho rằng chúng phục vụ tuyên truyền trong nước hơn là chiến lược thực tế.


•  Hệ thống chính trị dễ vỡ và kiểm soát quá tập trung của Trung Quốc phản ánh những điểm yếu của Liên Xô, có nguy cơ suy giảm lâu dài.

• Giống Liên Xô, Trung Quốc dựa vào hệ thống một đảng, tuyên truyền nhà nước, và kế hoạch kinh tế. Việc ĐCSTQ từ chối cải cách chính trị tương tự như thất bại của Gorbachev với perestroika.

• Tích hợp thị trường và thương mại toàn cầu của Trung Quốc (như 17% xuất khẩu thế giới năm 2022) khiến nước này ít bị cô lập hơn Liên Xô. Tuy nhiên, Dikötter cho rằng tích hợp này tạo ra các phụ thuộc mới (như công nghệ phương Tây).

•  cuốn Trung Quốc sau Mao tiết lộ các lãnh đạo ĐCSTQ nghiên cứu sự sụp đổ của Liên Xô để tránh các cạm bẫy tương tự, nhưng giải pháp của họ—kiểm soát chặt chẽ hơn—làm gia tăng sự cứng nhắc.

•  Phản ứng của ĐCSTQ với COVID-19 (chính sách zero-COVID) cho thấy sự vượt quá tập trung, với các đợt phong tỏa gây gián đoạn kinh tế và bất ổn công chúng (như biểu tình ở Thượng Hải năm 2022).

• Dikötter lên tiếng rằng việc Trung Quốc từ chối tự do hóa chính trị có thể dẫn đến sự tan rã kiểu Liên Xô nếu tăng trưởng kinh tế chững lại. Lúc đó lại thấy mấy chục nước mới ra đời như khi Liên Xô tan rã.


• Phương Tây đánh giá quá cao sức mạnh của Trung Quốc do “ảo tưởng phản chiếu,” giả định Trung Quốc có động cơ giống phương Tây, trong khi đánh giá thấp nỗi sợ hãi nội tại của nước này.


•  Sau năm 1979, các lãnh đạo phương Tây (như Nixon, Clinton) tin rằng thương mại sẽ dân chủ hóa Trung Quốc, bỏ qua các tài liệu lưu trữ ĐCSTQ cho thấy sự thù địch với tự do hóa.

• Các nhà phân tích phương Tây thường chấp nhận GDP và chi tiêu quân sự của Trung Quốc theo giá trị bề mặt, bỏ qua dữ liệu giả mạo và kém hiệu quả. Sai lầm này thúc đẩy các chính sách như hợp tác thay vì kiềm chế, có thể khuyến khích hành động hung hăng của Trung Quốc (như quân sự hóa Biển Đông).

•  Sự ngạc nhiên của phương Tây trước chiến dịch đàn áp luật sư năm 2015 của Trung Quốc (Chiến dịch 709) phản ánh sự thiếu hiểu biết về nỗi sợ của ĐCSTQ đối với xã hội dân sự.

• Dikötter gọi đây là một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất kể từ chính sách xoa dịu thập niên 1930, kêu gọi đánh giá lại khả năng và ý định của Trung Quốc.


•  Các nhà phê bình cho rằng vị thế siêu cường không đòi hỏi tự do chính trị hay hoàn hảo kinh tế. Trung Quốc có:

•  Ảnh hưởng kinh tế (quốc gia thương mại lớn nhất thế giới, 4,6 nghìn tỷ USD xuất khẩu năm 2022).

•  Thống trị khu vực (như yêu sách Biển Đông).

•  Tiến bộ công nghệ (như dẫn đầu 5G qua Huawei) thể hiện sức mạnh đáng kể.

•  Thảo luận trên Reddit (r/geopolitics, 2023) lưu ý rằng khả năng định hình thị trường toàn cầu của Trung Quốc (như khoáng sản đất hiếm) và quyền phủ quyết tại Liên Hợp Quốc đủ để coi là siêu cường, dù không phải bá quyền như Mỹ

•  Tiềm năng quân sự: Dù chưa được kiểm chứng, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc (như chiến đấu cơ tàng hình J-20, tên lửa “sát thủ tàu sân bay” DF-21D) tạo ra mối đe dọa đáng kể, theo phân tích của RAND Corporation. Xung đột Đài Loan, dù rủi ro, có thể tận dụng lợi thế gần gũi địa lý của Trung Quốc.

•  Khả năng phục hồi kinh tế: Một số nhà kinh tế (như Yukon Huang) cho rằng nợ của Trung Quốc có thể quản lý được, vì phần lớn là nội địa và do nhà nước kiểm soát. Chuyển đổi sang nền kinh tế dựa vào tiêu dùng có thể bù đắp thách thức nhân khẩu học.

•  Thiên vị của Dikötter: Các nhà phê bình như Felix Wemheuer (China Quarterly, 2014) cho rằng trọng tâm của Dikötter vào thất bại của ĐCSTQ đơn giản hóa lịch sử, bỏ qua sự ủng hộ cơ sở cho cải cách và các biến thể khu vực. Việc dựa vào giai thoại (như câu chuyện lưu trữ cá nhân) có thể làm sai lệch xu hướng lớn hơn.

Bối cảnh bổ sung từ Trung Quốc sau Mao

•  Tài liệu lưu trữ: Cuốn sách sử dụng hơn 600 tài liệu từ các kho lưu trữ cấp tỉnh và trung ương, tiết lộ:

•  Sự thực dụng tàn nhẫn của Đặng Tiểu Bình, ưu tiên ổn định hơn ý thức hệ (như phê chuẩn đàn áp Thiên An Môn).

•  Các cuộc tranh luận nội bộ ĐCSTQ về cải cách, với các phe bảo thủ chống lại chính sách thị trường nhưng thua phe của Đặng.

•  Sự kháng cự địa phương với chính sách trung ương, như nông dân giấu ngũ cốc để trốn thuế.


Lập luận của Dikötter thách thức câu chuyện về sự trỗi dậy không thể tránh khỏi của Trung Quốc, kêu gọi các nhà hoạch định chính sách tập trung vào các điểm yếu—bất ổn kinh tế, suy giảm nhân khẩu học, sự dễ vỡ chính trị—hơn là sức mạnh của nước này. Tuy nhiên, ảnh hưởng hiện tại của Trung Quốc (như 120 quốc gia giao thương với Trung Quốc nhiều hơn Mỹ) cho thấy nước này có sức mạnh giống siêu cường ở khu vực, nếu không phải toàn cầu. Cuộc tranh luận xoay quanh việc liệu điểm yếu nội tại có vượt qua được thành tựu bên ngoài hay không, một câu hỏi mà Dikötter để ngỏ nhưng nghiêng về sự hoài nghi.


Mình nghe phỏng vấn của một nhà nghiên cứu Trung Cộng, ông này gốc tàu, cho rằng nay Trung Cộng muốn nhân vụ áp thuế, đánh cho Hoa Kỳ rụng luôn. Ông ta dựa theo chữ Crisis thường mang lại chữ Cơ Hội. "危机即机遇 (wēijī jì jīyù)"


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Châu Âu ngày nay và ký ức

Vụ ông Zelensky cãi nhau ở toà Bạch Cung khiến thiên hạ bàn tán đủ trò. Điểm hay ở thời internet, giúp mọi người trở thành những chuyên gia đại tài. Ai cũng là chuyên gia về quân sự, ngoại giao như ông Tây Talleyrand hay ông người Áo Metternich khi xưa, là người mà ông Kissinger nghiên cứu rất sâu và muốn để lại dấu ấn như ông này. Mình đọc thêm tài liệu trên mạng ở Âu châu thì thấy có nhiều điều đáng được nêu ra khi tổng thống pháp Macron lên tiếng, rồi liên hiệp Âu châu họp hành xôm tụ, đồng ý chi viện cho Ukraina này nọ. Về nhà hỏi vợ thì thấy không đủ tiền nên chỉ chi viện 2% số tiền dự định. Thế là ngọng. Bác Puchin lại cười thối mũi. Kêu chúng mày mà đánh tao, tao cúp bán dầu khí cho chúng mày đánh ai, vợ con chúng mày đè đầu chúng mày ra mà đập.

Điều này đã chứng tỏ người Âu châu vẫn sống trong mộng tưởng, là nền văn minh của họ vẫn là ngọn hải đăng của thế giới như các thế kỷ trước từ thời Phục Hưng, đến cách mạng kỹ nghệ,… mình từ hỏi nguyên do từ đâu, vì tháng 10 năm vừa rồi, mình về lại pháp, Ý Đại Lợi, Slovenia thì khám phá cuộc sống ở đây rất khác với thời mình sinh sống tại Âu châu. Thay đổi rõ ràng. GDP của Âu châu dạo đó tương đương với Hoa Kỳ mà nay chỉ còn phận nữa của Hoa Kỳ.

Tổng thống Zelinsky lại quay lại với bác Trump. Bác Trump lại viện cớ xứ tôi ở xa, chả dính dáng gì đến mấy bác, tại sao lại kêu em trả tiền cho mấy bác đánh nhau. Nên nhắc lại Đại đế Napoleon tuyên bố những không biết có đúng hay không, rằng mọi cuộc chiến tranh ở châu Âu đều là một cuộc nội chiến. Mình tìm thêm chút trên mạng thì có nhiều nhân vật danh tiếng như Victor HUgo, Voltaire, thậm chí André Maurois cũng nói lên câu này.

 Ngẫm lại thì đúng với những gì mình được ông Tây bà đầm dạy sử Tây khi xưa vì các triều đình ở Âu châu đều cho con cháu lấy nhau nên vua xứ nào cũng là họ hàng với nhau. Điên nhất là phải học cuộc chiến 100 năm (la guerre de cent ans ) hay cuộc chiến 30 năm (guerre de trente ans),.. Nên khi đánh nhau ở Âu châu như ông Nã phá Luân tuyên bố là nội chiến. Do đó sử gia cho rằng giai đoạn 1914-1945 là một cuộc tự sát huynh đệ tương tàn kéo dài. Châu Âu không bị chinh phục. Nó tự hủy diệt. Những gì nó mất không phải là đất đai, vì các cuộc chiến ở Âu châu khi xưa, dành đất nhau từ các vua chúa họ hàng với nhau. Người Tây phương mất ký ức, sự cao quý và quyền tự định nghĩa, bản tính của họ. Do đó ngày nay Âu châu bị tha hoá bởi các ý thức hệ mới được phát sinh tại Âu châu để thay thế các triều đại trước thế kỷ 20. Trong lịch sử hiện đại thì chúng ta chưa hiểu rõ ảnh hưởng của sự thay đổi này. Điểm thấy rõ nhất là người dân sinh sống tại Âu châu có rất nhiều người nhập cư từ các châu khác cũng như tôn giáo. Mất đi sư đồng nhất về chủng tộc cũng như tôn giáo.

Trước năm 1914, châu Âu vẫn mang cấu trúc hữu hình của một trật tự cổ xưa và hữu cơ. Lục địa này không được cai trị bởi những nhà tư tưởng hay quan liêu, mà bởi những nhóm tinh hoa cha truyền con nối, những người hiểu vai trò của họ là người giám hộ di sản. Các quốc vương cai trị bằng quyền thiêng liêng và luật tổ tiên, tính hợp pháp của họ không bắt nguồn từ những điều trừu tượng mà từ dòng dõi, đất đai và huyết thống. Nhà Habsburg, Borghese, Hohenzollern, Romanov và Bourbon không chỉ là những người cai trị; họ là hiện thân của ký ức văn minh của Châu Âu từ bao ngàn năm. Tòa án của họ ủng hộ một thế giới mà thứ bậc là tự nhiên, nơi nghĩa vụ lấn át ham muốn, và nơi chiến tranh, nếu có xảy ra, thì bị giới hạn bởi phong tục và luật pháp.


Châu Âu khi đó không phải là chiến trường của các hệ thống tư tưởng, mà là một gia đình lớn của các quốc gia, vừa chia rẽ vừa anh em, gắn kết với nhau bởi nguồn gốc chung và các hình thức thừa kế. Đại khái hoàng hậu Marie-Antoinette là con gái của hoàng đế Áo Quốc, lấy con trai của vua Pháp. Các dân tộc châu Âu-Latin, Đức, Slav, đã được định hình bởi Kitô giáo, tinh thần hiệp sĩ và di sản cổ điển. Các cuộc chiến của họ, mặc dù nhiều, nhưng bị giới hạn bởi trật tự Westphalia: chiến tranh được tiến hành giữa các quốc gia, không phải giữa các dân tộc; hòa bình là điều có thể vì kẻ thù không bao giờ bị đối xử như một tội phạm, mà là một đối thủ có yêu sách về danh dự. Khi xưa, họ trọng danh dự, thà đấu kiếm để lấy lại danh dự còn ngày nay, chả có gì để mất nên chỉ biết Chán Mớ Đời. Họ mới khám phá ra một giáo sư đại học tại Chicago, lấy chìa khoá rạch sơn xe Tesla.

Ngày nay, chúng ta dùng ý thức hệ, tư tưởng của thế kỷ 20 để đánh giá cuộc chiến Ukraina mà quên xét lại lịch sử của hai xứ này từ 1,000 năm qua. Có phải là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn hay cuộc chiến ý thức hệ tự do, bình đẳng, bác ái cấp tiến được sử dụng như một chiêu bài. Trên thực tế các cuộc cách mạng bùng nổ tại Pháp, Nga,..nhân danh nhân quyền, tự do bình đẳng này nọ chưa bao giờ được thực hiện đem lại no ấm cho người dân. Những mỹ từ mà mình học từ bé từ ông Tây bà đầm Liberté, égalité, fraternité từ 60 năm trước thấy không đúng lắm.


Bên dưới thế giới quý tộc này là sự thống nhất về mặt tinh thần. Khái niệm “noblesse oblige” phản ánh đạo đức chiến binh của thời xưa: quyền lực mang theo nghĩa vụ, và quy tắc chỉ được biện minh khi được thúc đẩy bởi lòng dũng cảm, sự hy sinh và phục vụ cho một điều gì đó cao cả hơn bản thân. Con trai của giới quý tộc khi xưa, hình như ai cũng phải tham gia quân đội như ông vua Charles và hoàng tử William ngày nay. Đây chính là bản chất của nền văn minh châu Âu. Ở Phổ, nó thể hiện dưới dạng kỷ luật; ở Áo, dưới dạng sự gắn kết đế quốc; ở Nga, dưới dạng chính thống thần bí; ở Pháp, dưới dạng chủ nghĩa cộng hòa hào hiệp với tàn dư quân chủ; ở Anh, dưới dạng nghĩa vụ khắc kỷ. Đây không phải là những mâu thuẫn, mà là những biến thể của một chủ đề duy nhất. Ngày nay, mình về Pháp, Ý Đại Lợi thì không nhận ra những gì mình đã sống 50 năm về trước.


Trật tự này không hoàn hảo, nhưng nó vẫn tồn tại. Nó bảo tồn thứ hạng và ý nghĩa trong một thế giới trước khi đại chúng hóa. Nó chống lại làn sóng dân chủ, kỹ trị và thương mại đang dâng cao. Nó chứa đựng bên trong nó những tàn tích của sự thiêng liêng, của ngai vàng và bàn thờ, của người lính và nhà hiền triết. Nội chiến châu Âu, khi xảy ra, sẽ không chỉ phá hủy các quốc gia hay biên giới. Nó sẽ cắt đứt châu Âu khỏi ký ức của nó, phá vỡ tầng lớp tinh hoa hữu cơ của châu Âu và lập nên một chế độ mà đồng tiền thống trị, nơi lịch sử là tội ác và nơi bản thân giới quý tộc bị nghi ngờ. Lịch sử do người thắng trận viết nên chúng ta học tập về thời đại quân chủ xưa rất gian ác, bốc lột tá điền này nọ.


Đi viếng Trung-Á và vùng Caucase thì thấy họ trùng tu lại các nhà thờ và giáo đường hồi giáo đã bị phá hay làm chỗ nuôi bò dê dưới thời Liên Xô,… ngày nay các nhà thờ ở Âu châu, không có người đi, được biến thành các khu thượng mại, vũ trường. Mặc dù tôn giáo không bị cấm đoán. Ở Torino, mình vào nhà thờ thăm một ông linh mục người Việt, được điều sang đây làm việc. Lý do là mấy ông linh mục người ý đã già mà người ý trẻ không đi tu nên nhà thờ phải điều các linh mục ở các xứ khác đến làm việc. Mình hỏi vị linh mục gốc Bắc, lý do đi tu thì được trả lời là gia đình nghèo nên cho đi tu để có ăn và được đi học. Cho thấy tương lai các tài sản của nhà thờ sẽ bị phát tán khi không còn tu sĩ.


Đại chiến không phải do ý thức hệ gây ra, mà do sự điên rồ của anh em. Một lục địa của những người anh em họ, gắn bó với nhau bởi huyết thống và lịch sử, đã lao vào một cuộc xung đột chưa từng có. Những gì bắt đầu là một cuộc tranh chấp Balkan đã di căn thành một cuộc chiến tranh toàn diện sẻ san bằng ngai vàng, làm chảy máu các tầng lớp quý tộc và giải phóng những con quỷ mà không một chính khách nào có thể nhớ lại. Các quốc gia châu Âu đã huy động quân đội vào năm 1914 với niềm tin vào một cuộc chiến tranh danh dự ngắn ngủi. Những gì họ nhận được là cuộc tàn sát cơ giới, chiến tranh chiến hào và sự tan rã của mọi sự chắc chắn dẫn đường. Thấy chiếu cảnh các Binh sĩ bị hơi ngạt giết như mơ thấy chiến tranh huynh đệ tàn khốc. Đó là chưa kể đến đế chế Ottoman cũng nằm bên cạnh, cũng bị tiêu diệt luôn trong trận hồng thủy này.


Đây là vết thương tự tạo đầu tiên của phương Tây. Chưa bao giờ các quốc gia da trắng lại tập hợp sức mạnh công nghiệp của mình một cách tàn nhẫn như vậy để chống lại nhau. Những thành quả của thiên tài phương Tây, hóa học, đường sắt, pháo binh, điện báo, đã hướng vào bên trong. Châu Âu, mẹ của nền văn minh, đã tự xé nát mình bằng những móng vuốt bằng thép và lửa. Các chiến hào ở Somme và Verdun không chỉ là nghĩa địa của con người; chúng là nghĩa địa của ý nghĩa. Bộ luật quý tộc, đạo đức kiềm chế, lòng dũng cảm và sự cân xứng, đã bị nhấn chìm trong bùn và khí gas. Khi viếng thăm Trieste, mình có chạy ngang nhưng không có thời gian để ghé viếng cái nghĩa địa trên 600,000 người đã bị giết trong thế chiến thứ 1. Mình có kể vụ này, mấy anh lính Ý Đại Lợi ngu cứ hô tấn công, làm bia để mấy anh lính Áo-Hung ria chết như rạ.


Khi chiến tranh kết thúc, trật tự cũ đã nằm trong đống đổ nát. Nhà Habsburg, Hohenzollern và Romanov đã bị cuốn trôi, vương miện của họ bị chôn vùi dưới những đam mê dân tộc chủ nghĩa, thế giới đại đồng và giáo điều tự do. Cách mạng nổ ra ở Nga, mình có kể vụ ông Lê-nín được Đức quốc giúp đỡ để trở về Nga, làm cách mạng để Sa Hoàng không tấn công phía đông của Đức quốc. Tình trạng hỗn loạn lan rộng khắp Trung Âu, và ngay cả trong phe chiến thắng, Anh và Pháp, cái giá phải trả quá lớn đến nỗi chiến thắng trở nên không thể phân biệt được với thất bại. Luân Đôn bị đánh bom nát tương dù là kẻ chiến thắng. Hoa Kỳ, không bị ảnh hưởng và đang lên ngôi, nổi lên không phải như một người anh em mà là một chủ nợ, mang chủ nghĩa tự do cứu thế nhầm lẫn thương mại với hòa bình và dân chủ với văn minh. Sự suy sụp của Âu châu trên đống tro tàn sau cuộc đại chiến, chỉ còn biết mơ về Giấc Mơ Hoa Kỳ.


Hiệp ước Versailles đã không khôi phục lại trật tự. Nó tôn thờ sự căm thù và làm mất ổn định những gì còn lại của sự cân bằng lục địa. Khi nghiền nát kẻ bại trận, nó đã đầu độc tương lai. Chiến tranh không giải quyết được bất cứ điều gì. Nó chỉ đặt nền tảng cho một sự tính toán khủng khiếp hơn. Điều khiến nó trở thành một cuộc nội chiến theo nghĩa sâu sắc nhất không chỉ là tổ tiên chung của những người tham gia, mà còn là những hàm ý về mặt tinh thần của cuộc xung đột. Châu Âu đã tự quay lưng lại với chính mình, làm kiệt quệ những người tài giỏi nhất của mình, và mở ra cánh cổng cho một giai cấp thống trị mới không bị ràng buộc bởi danh dự, lịch sử hay quốc gia.


Những gì đã mất vào năm 1918 không chỉ là lãnh thổ hay triều đại, mà là quyền lực trong ký ức của Châu Âu. Hôm trước, hai vợ chồng đi ăn với chị bạn mà lâu lắm rồi không gặp, chắc cũng 15 năm từ ngày anh chồng, bạn học cũ của mình ở Đà Lạt qua đời. Chị ta không nhớ là gia đình mình có ghé thăm và ở nhà của họ 2 ngày. Chỉ có 15 năm mà đã quên thì các cuộc cách mạng nổi lên sẽ xoá bỏ hết ký ức. Một thế giới từng biết sự khác biệt giữa chế độ cai trị và chế độ chuyên chế, giữa trật tự và hiệu quả, giờ đây loạng choạng tiến tới một tương lai được cai trị bởi hệ tư tưởng, quần chúng và máy móc. Cái gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất" không phải là sự kết thúc của lịch sử mà là sự khởi đầu của một cuộc suy thoái dài, một cuộc tự tử thực sự bắt đầu của nền văn minh âu châu. Trước đây người ta gọi thế kỷ ánh sáng của Âu châu với nhiều nhà tư tưởng danh tiếng, là ngọn hải đăng cảu bao nhiêu trí thức trên thế giới nhưng khi áp dụng các ý thức hệ này thì đem lại kết quả tai hại với hai thế chiến oan nghiệt. Rồi đưa đến 50 năm bị đô hộ bởi Hồng quân của Liên Xô và NATO của Hoa Kỳ.


Cuộc chiến năm 1939 không phải là phần tiếp theo mà là sự tiếp diễn. Châu Âu, vốn đã bị tàn phá và sỉ nhục, lại bị đẩy vào cuộc chiến thứ hai mà không còn đủ sức để tồn tại. Các hệ tư tưởng trỗi dậy từ đống tro tàn năm 1918. Chủ nghĩa cộng sản ở phương Đông, Chủ nghĩa tự do ở phương Tây và Chủ nghĩa xã hội quốc gia ở Đức, chủ nghĩa Phát Xít tại Ý Đại Lợi không phải là những sự lệch lạc mà là biểu hiện của một châu Âu bị xé toạc khỏi cội nguồn, tìm kiếm sự cứu rỗi ở những vị thần mới. Sự hòa hợp cũ của các dân tộc đã bị phá vỡ. Cuộc đấu tranh anh em năm 1914 đã trở thành cuộc chiến của toàn bộ.


Trong giai đoạn thứ hai của cuộc nội chiến này, phương Tây mất mát nhiều hơn là con người và thành phố. Nó đã mất đi linh hồn của mình. Cuộc đấu tranh không còn là giữa các quốc gia đối địch của một nền văn minh chung mà là giữa những viễn cảnh hủy diệt lẫn nhau về con người, lịch sử và quyền lực. Cuộc chiến đã mang đến sự đảo ngược hoàn toàn hệ thống phân cấp của châu Âu. Các chế độ quân chủ đã sụp đổ trong giai đoạn đầu tiên; giờ đây, tàn dư quý tộc của trật tự cũ của châu Âu bị coi là phản động, tội phạm hoặc lỗi thời. Đội tiên phong quân sự của linh hồn cũ của châu Âu, những người theo chủ nghĩa dân tộc sẵn sàng chống lại làn sóng toàn cầu nhất, đã bị tiêu diệt trên chiến trường, bị treo cổ tại Nuremberg hoặc bị lưu đày trong im lặng.


Dưới ngọn cờ dân chủ và chống phát xít, những người chiến thắng đã tàn phá những gì còn lại của nền độc lập châu Âu. Hồng quân đã trải rộng trên một nửa lục địa, thiết lập các chế độ chư hầu cai trị bằng khủng bố và dựa vào sự đổ nát của truyền thống. Ở phương Tây, Hoa Kỳ áp đặt hình thức chiếm đóng của riêng mình, nhẹ nhàng hơn, tinh tế hơn nhưng không kém phần thực tế. Tiền của Mỹ đã xây dựng lại đống đổ nát, nhưng cái giá phải trả là tinh thần: giáo dục lại, giải trừ quân bị về mặt đạo đức và một vị trí cố định trong đế chế tiêu dùng toàn cầu. Ở cả phương Đông và phương Tây, kết quả đều giống nhau. Châu Âu sẽ không bao giờ còn nắm quyền kiểm soát vận mệnh của chính mình nữa. Bao nhiêu thuộc địa cũ đều bị bắt trao trả lại cho các nước nhược tiểu. Phía đông thì có khối Varsovie do Nga nắm đầu, phía Tây thì có khối NATO do anh Mỹ nắm đầu. Không có anh Tây bà đầm nào lãnh đạo cả.


Cuộc chiến tranh thứ hai này đánh dấu sự rạn nứt cuối cùng giữa châu Âu và ký ức quý tộc của nó. Bản thân khái niệm về một quốc gia có chủ quyền bắt nguồn từ văn hóa và nghĩa vụ thiêng liêng được coi là nguyên nhân gây ra thảm họa. Thay vào đó, một chế độ chống châu Âu được định nghĩa bởi các quyền phổ quát, sự suy thoái được quản lý và nỗi sợ hãi bệnh hoạn về sức mạnh đã trỗi dậy. Những người chiến thắng đã viết lại ý nghĩa của cuộc chiến. Nó không còn là một thảm kịch giết anh em mà là một vở kịch đạo đức. Những người chết bị lãng quên trừ khi họ phục vụ cho câu chuyện mới. Công lý của những người chiến thắng đã được tôn sùng; những kẻ bại trận đã bị quỷ ám. Toàn bộ các quốc gia đã được dạy phải ghét quá khứ của chính họ. Đưa đến chủ nghĩa thức tĩnh hiện tại.

Vụ tự tử thứ hai của phương Tây đã hoàn thành việc phá hủy hệ thống miễn dịch văn minh của nó. Giới tinh hoa văn hóa của nó, từng được thúc đẩy bởi lịch sử và đức tin, đã bị thay thế bởi các nhà quản lý, kế toán và nhà tư tưởng. Giáo hội, vốn từng là trung gian giữa kiếm và quyền trượng, giờ đây là một tổ chức phi chính phủ mặc áo choàng. Gia đình đã được định nghĩa lại, biên giới được mở ra, trường học bị đầu độc và nghệ thuật bị vô trùng. Khi chiến binh, linh mục và nhà thơ bị loại bỏ, không còn gì để bảo vệ tâm hồn của châu Âu. Khi thủ tướng Anh quốc nói sẽ gửi lính sang Ukraina khiến thiên hạ cười, lính của Đức quốc tập trận mà không có súng, phải dùng chổi thế. Diễn văn của phó tổng thống Vance tại Âu châu như đã thức tĩnh người Âu châu. Không có quân đội Mỹ thì họ sẽ bị tấn công vì bao nhiêu năm nay, họ bỏ vụ quân dịch. Daọ sinh viên năm thứ 3 mình có đi quân dịch, khám sức khoẻ thì ngày nay, pháp đã bỏ chế độ quân dịch 1 năm nên nếu có đánh nhau thì lính ở đâu ra. Không lẻ kêu mấy bà đầm cởi trần phanh ngực ra trước họng súng để lính nga đầu hàng. Mình xem phim đức, kể khi lính nga chiếm đóng Đức quốc thì ngày đêm lính nga hiếp dâm phụ nữ đức như hải tặc chận ghe vượt biên.


Những gì bắt đầu ở Sarajevo đã kết thúc ở Dresden. Ánh sáng không chỉ tắt; chúng đã được thay thế bằng ảo ảnh huỳnh quang về sự tiến bộ. Cái gọi là "Chiến tranh thế giới thứ hai" đã không khôi phục lại hòa bình. Nó đem đến sự khuất phục. Và thứ phải khuất phục không phải là một quốc gia, mà là một nền văn minh. Như Việt Nam sau 30/4/75, là một sự khuất phục, tẩy não khỏi trí nhớ về quá khứ. Gặp lại bạn học khi xưa tại Việt Nam, họ gần như quên khá nhiều về ngày xưa.


Những gì xảy ra sau năm 1945 không phải là hòa bình mà là sự chiếm đóng. Đệ tam Đế chế đã sụp đổ, nhưng bản thân châu Âu cũng vậy. Những gì xuất hiện là một lục địa bị khuất phục bởi chủ nghĩa tự do tiêu dùng của Mỹ và chủ nghĩa cộng sản quản lý của Liên Xô, cả hai đều xa lạ với truyền thống của Âu Châu. Ở phương Đông, các ủy viên đỏ đã xóa bỏ tổ tiên, cướp bóc những thứ thiêng liêng và xây dựng một sự nhại lại màu xám, vô hồn về cộng đồng loài người. Ở phương Tây, Coca-Cola và đô la thay thế cho kiếm và thánh giá. Cả hai hệ thống đều đào tạo thần dân của họ để quên đi. Cuộc chiến cuối cùng, cuộc chiến chống lại ký ức, đã khởi đầu mà hậu quả là ngày nay chúng ta thấy ở Âu châu.


Nỗi kinh hoàng thực sự của thời kỳ hậu chiến không phải là sự tàn phá về vật chất, mà là sự triệt sản về mặt tâm lý. Đức, trung tâm văn hóa và triết học của lục địa, bao nhiêu nhà tư tưởng nổi tiếng đã bị nghiền nát với độ chính xác mang tính nghi lễ. Khi xưa, muốn dịch sách cho đúng, người tap hỉ dịch ra đức nữa trước. Các thành phố của nó bị ném bom, đàn ông bị tàn sát, phụ nữ bị làm nhục. Quá khứ của nó bị coi là tội phạm, tương lai của nó bị phủ nhận. Và khi Đức ra đi, thì toàn bộ châu Âu cũng vậy. Những gì từng là Kitô giáo, sau đó là nền văn minh, giờ đây được định nghĩa lại thành một bảo tàng ngoài trời đầy tội lỗi, một bài giảng sống động chống lại chính nó. Nên nhớ Đức quốc là nơi ông Luther đã cải cách thiên chúa giáo.


Có lần có cô gái đức, con người quen sang ở nhà mình học anh văn hè. Cô ta kể là ở Hoa Kỳ điều cô ta ngạc nhiên là đi đâu cũng thấy chào quốc kỳ, treo cờ trong khi ở Đức quốc ngày nay thì không. Cô ta ước gì xứ cô ta cũng được đào tạo như tại Hoa Kỳ. Sự chia đôi đất nước, bên bị Hồng quân liên Xô chiếm đóng, một bên là do Hoa Kỳ chiếm đóng rồi sau 50 năm được thống nhất. Nên rất khó mà có tiếng nói chung về lá cờ hay quốc ca. Chúng ta cứ nhìn người Việt tỵ nạn, bên đi từ miền nam và bên đi từ miền Bắc, gặp nhau ở Luân Đôn, không ai muốn hát quốc ca của bên kia dù là nạn nhân của cộng sản.


Những người chiến thắng đã thiết lập một trật tự đạo đức mới, nơi mà việc ghi nhớ là phản quốc. Trường học dạy sự tự khinh miệt chế độ cũ, văn hoá cũ. Phương tiện truyền thông ca ngợi sự đảo ngược. Luật pháp cấm phòng thủ. Lịch sử được viết lại không phải để hiểu mà là để lên án. Lòng kiêu hãnh trở thành bệnh lý, lòng trung thành trở thành lòng căm thù, sức mạnh trở thành chủ nghĩa phát xít. Người châu Âu không còn coi mình là người thừa kế của Pericles, Charlemagne hay Dante mà là kẻ gây ra tội ác cho thế giới. Những gì từng là ánh sáng của thế giới đã phải bò trước bàn thờ của kẻ thù. Chú rồng thức tĩnh kêu gọi họ lên tiếng chống lại lịch sử của cha ông họ. Họ không dám nói hay nhắc đến cha ông của họ. Phản động, phản quốc. Em mình ở Việt Nam, kêu là cũng không dám cho ai biết về ông cụ mình, được gọi là phản động, tù cải tạo 15 năm.


Điều này không phải là ngẫu nhiên. Đó là kết quả tất yếu của hai cuộc chiến tranh thế giới mà mục tiêu không chỉ là đánh bại các quốc gia mà còn là xóa bỏ bản chất quý tộc của châu Âu. Trật tự tổ tiên không thể được phép quay trở lại. Một dân tộc có khả năng ghi nhớ họ là ai, gắn bó với truyền thống và địa điểm, sẽ gây ra mối đe dọa đối với trật tự toàn cầu về tài chính, công nghệ và kiểm soát quản lý. Để ngăn chặn sự phục sinh, châu Âu đã phải bị cắt bỏ thùy não về mặt đạo đức, tràn ngập những đám đông nước ngoài và bị mê hoặc bởi đồ chơi.


Tuy nhiên, cuộc nội chiến chưa bao giờ thực sự kết thúc. Nó đã thay đổi hình thức. Ngày nay, nó hoành hành trên đường phố Paris, những tàn tích của Detroit, khu ổ chuột Malmö và các cơ quan hành chính của Brussels. Cuộc xâm lược không còn đến từ phía đông nữa mà từ bên trong. Quân đội không mặc quân phục. Vũ khí không phải là xe tăng mà là truyền hình, chính sách nhập cư và thuốc an thần hay ma tuý. Giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến là về mặt tinh thần và nhân khẩu học, một cuộc chiến tranh nhằm vào những tàn dư cuối cùng của ý chí sống của châu Âu.

Nhưng ngay cả bây giờ, ký ức vẫn còn chập chờn. Có những người nhớ về trật tự cũ không phải như một câu chuyện cổ tích mà là một định mệnh. Họ thu thập những mảnh vỡ của nó, thì thầm tên của nó, tôn vinh những anh hùng của nó. Trong huyết quản của họ chảy dòng máu của những người đàn ông đã từng xông vào cổng thiên đường và xây dựng những nhà thờ lớn bằng đá và lòng dũng cảm. Nếu phương Tây được tái sinh, thì đó sẽ không phải thông qua chính sách hay phản đối, mà thông qua một thế hệ tinh hoa mới được rèn luyện trong đau khổ, im lặng và tưởng nhớ. Nội chiến vẫn chưa kết thúc vì linh hồn của châu Âu vẫn chưa chết. Hy vọng nhưng rất khó khi họ không sinh con đẻ cái và di dân thì tha hồ đẻ nên một ngày nào đó họ sẽ trở thành thiểu số trong đất nước của họ. Biết đâu, trăm năm sau, học sinh trung học sẽ học về lịch sử, cho biết vào những năm của thế kỷ 20, có một nhóm người như khi xưa Vikings, đã từng sống tại Âu châu. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn