Hiển thị các bài đăng có nhãn Những mảnhnhớ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Những mảnhnhớ. Hiển thị tất cả bài đăng

The sound of silence

 The sound of silence

Nhớ thời trung học, một hôm Hùng Con Cua cho mượn cuốn băng nhạc có bản nhạc “the sound of Silence” do cặp bài trùng Paul Simon và Art Garfunkel hát và đánh đàn thùng. Cùng dạo ấy ở rạp xi-nê Ngọc-Lan có chiếu phim “the Graduate” do Dustin Hoffman và Katherine Ross đóng, có màn cô dâu trong nhà thờ, sắp sửa được ông mục sư tuyên phán làm vợ ông nào thì Dustin Hoffman, gõ cửa nhà thờ là hét rồi kéo cô dâu bỏ chạy khiến đám con nít như mình thấy quá hay. Sau này nghe tin tổng thống Pháp lấy bà mẹ của người bạn học khiến mình nhớ đến bà Robinson mà cặp bài trùng có làm nhạc cho cuốn phim này đã đưa họ lên đài danh vọng. Sang Tây thì mới được nghe mấy bản nhạc khác của họ nhưng bản nhạc “The Sound Of the Silence” vẫn theo mình đến nay.


Hai ông thần Simon & Garfunkel, gốc do thái, học chung trường và hát chung ở các buổi trình diễn văn nghệ của trường từ năm 11 tuổi. Sau này thành danh rồi xù nhau vì cảm thấy một người được tỏa nắng và ca tụng trong khi người kia sáng tác nhạc và hoà âm nhưng không được công chúng yêu mến tương tự hai ông thần Paul McCartney và John Lennon.


Sau này qua các cuộc phỏng vấn thì người ta mới hiểu sự cạnh tranh của hai người, không phải vì tài năng mà vì những chi tiết cá nhân khiến họ phải xa nhau, rồi hát chung với nhau nhưng chỉ vì làm ăn, chớ không vì nghệ thuật.


Người ta được biết là ông Paul Simon có hình dạng thấp nên ganh tỵ với ông Garfunkel, cao ráo và đẹp trai. Khán giả mê giọng hát của ông này trong khi Paul Simon là tác giả tất cả các bài hát đưa họ lên đài danh vọng.


Quen nhau tại nhà trường và có cùng sở thích về âm nhạc nên họ bắt đầu hát với nhau và thành lập một ban nhạc với mấy người bạn khác mang tên Pepton. Năm 1957, họ lên 15 tuổi, Paul Simon làm được bản nhạc mang tên “ hey school girl” và vét hết tiền để dành được $25, rồi cùng nhau đi qua Manhattan để thâu bản nhạc ở phòng ghi âm. Số hên được một ông sản xuất nhạc để ý và đề nghị với bố mẹ hai ông thần này để ông ta sản xuất nhạc của họ. Bản nhạc này được bán 100,000 đĩa nhưng mấy bản nhạc sau này không được ưa chuộng lắm.


Sau đó hai ông thần tốt nghiệp trung học, vào đại học vì không biết cuộc đời ca nhạc sĩ sẽ ra sao. Ông Simon thì học về Anh ngữ trong khi ông Garfunkel học kiến trúc. Buồn đời ông Simon làm nhạc và không cho ông Garfunkel biết khi tự thâu mấy bản nhạc này và tình bạn của họ bị sức mẻ từ đó.

Nữ tài tử đóng vai Mrs. Robinson

5 năm sau, họ hợp tác với nhau lại và bắt đầu hát ở Greenwich Village ở Manhattan thì có một ông thần nhạc sĩ da đen nghe được. Ông này là người giới thiệu và đưa Bob Dylan lên đài danh vọng. Họ hát bản nhạc “the sound of silence” mà Paul Simon đột phá tư duy và sáng tác trong nhà vệ sinh. Xui cái là bản nhạc này chỉ bán được 3,000 đĩa nhạc. Có lẻ thời chưa đến. Chán Mớ Đời nên ông Simon qua Anh quốc hát hò để tìm nguồn hứng âm nhạc trong khi ông Garfunkel trở lại đại học.


Một năm sau, hình như thời cơ chín muồi, có một đài phát thanh sinh viên ở Boston, và Florida phát thanh lại bản nhạc. Ông nhạc sĩ da đen nghe được và phối trí hoà âm lại với guita điện, trống,… cho hợp với sự ưa chuộng của quần chúng, ông Simon dạo ấy đang đi hát rong ở Đan Mạch, có nghe phiên bản này thì kêu họ giết nhạc của tôi nhưng thính giả lại mê. Và năm sau bản nhạc nầy đứng hàng đầu tại Hoa Kỳ. Và hai ông thần này bổng nhiên nổi tiếng, bán trên 3 triệu đĩa nhạc. Giàu to nên bỏ nghiệp sinh viên đại học. 


Mike Nichols, đang đạo diễn phim The Graduate, đột phá tư duy, thay vì chơi nhạc đệm như giới điện ảnh làm, ông ta ký hợp đồng với hai ông thần S và G để làm 3 bản nhạc cho cuốn phim. Hai ông này nhất trí nhưng phải đi tour hốt bạc khi quần chúng đang nóng ủng hộ nên không thực hiện được và sử dụng mấy bài đã làm. Chỉ có làm bản nhạc Mrs. Robinson là mới.


Thật ra bản nhạc này lúc đầu tác giả làm với tựa đề “mrs. Roosevelt”, để tưởng nhớ bà đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ nhưng ông Đạo diễn thấy tựa tựa nên để nghị đặt tên Mrs. Robinson như trong phim the Graduate dù các ca từ chả ăn nhập gì với câu truyện của cuốn phim. 


 Cuốn phim nổi tiếng hốt bạc khiến tên tuổi hai ông thần lên như diều gặp gió nhưng lại khiến sự quan hệ của họ trở nên bi thảm hơn vì lòng đố kỵ với nhau. Ông Simon tự nói là mình là tác giả tất cả các bài hát nổi tiếng trong khi tên bạn chỉ đứng hát mà lại được người ta yêu thích hơn nên Chán Mớ Đời.


Năm 1969, hai ông thần này được đạo diễn phim The Graduate mời đóng phim “Catch 22” nhưng vào giờ chót thì ông Simon bị loại, có thể vì thấp người không ăn ảnh. Chỉ có ông Garfunkel đi đóng phim trong khi ông Simon ở nhà với con tim rướm máu và từ đó họ tan rã sau cuốn album cuối cùng. Ông ta làm bản nhạc “the only living boy in New York” trong hoàn cảnh đó. 


Ngược lại ông Garfunkel trả lời trong các cuộc phỏng vấn là ông ta cũng muốn sáng tác nhạc nhưng cảm thấy sẽ không có chất lượng và hồn như ông Simon. Nên cũng có chút ganh tị tài năng.


Sau cuộc chia tay thì ông Paul Simon như được thoát lồng nên hát solo và ra nhiều album nổi tiếng trong khi ông Art Garfunkel thì không khá lắm, ít thành công hơn dù có giọng hát cực hay. Bù lại ông ta đóng phim khá thành công. Thật ra vào thập 70, thế giới đã thay đổi, người Mỹ giới trẻ chống chiến tranh Việt Nam, nên âm nhạc của họ không còn ăn khách như trước đây.


Đến năm 1981, người ta tụ họp hai ông thần này để hát 21 bản nhạc tại công viên Central của new York có trên 500,000 khán giả tham dự nhưng sự cạnh tranh, ganh tị vẫn còn nên khó hàn gắn với nhau được. Sau này họ đi tour với nhau nhưng chỉ vì làm ăn , thậm chí ít khi nói chuyện với nhau. Rồi năm 2010, họ huỷ tour khắp thế giới vì ông Garfunkel có vấn đề giọng hát. 


Ở pháp mình chỉ nghe được một hay hai album của họ nhưng chỉ thích nghe bài the sound of the silence vì có lẻ đưa mình về khung trời học sinh ngày xưa dù khi xưa.


Hello darkness, my old friend

I've come to talk with you again

Because a vision softly creeping

Left its seeds while I was sleeping

And the vision that was planted in my brain

Still remains

Within the sound of silence

In restless dreams I walked alone

Narrow streets of cobblestone

'Neath the halo of a street lamp

I turned my collar to the cold and damp

When my eyes were stabbed by the flash of a neon light

That split the night

And touched the sound of silence

And in the naked light I saw

Ten thousand people, maybe more

People talking without speaking

People hearing without listening

People writing songs that voices never share

No one dared

Disturb the sound of silence

"Fools" said I, "You do not know

Silence like a cancer grows

Hear my words that I might teach you

Take my arms that I might reach you"

But my words like silent raindrops fell

And echoed in the wells of silence

And the people bowed and prayed

To the neon god they made

And the sign flashed out its warning

In the words that it was forming

And the sign said, "The words of the prophets

Are written on the subway walls

And tenement halls

And whispered in the sounds of silence"


Songwriters: Paul Simon



Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Tiệm cơm Việt Nam tại Paris

Hôm trước có ông thần từng du học tại Paris đăng tấm ảnh về tiệm ăn tàu rẻ nhất thủ đô Pháp quốc khiến mình như bò đội nón vì chưa bao giờ nghe đến khi còn sinh viên. Có nghe một tiệm gần nhà ga Lyon đèn vàng của ông Cung Trầm Tưởng nhưng chưa bao giờ có dịp đến ăn.

Nói đúng hơn ở Paris mình ít quen người Việt vì học kiến trúc ít có người Việt theo học. Mình quen 2 tên sinh viên Việt Nam ở Paris trong suốt 8 năm trời ở Paris. 1 tên cho mượn thẻ căn cước để đi Ý Đại Lợi với trường vì dạo ấy mình chưa vào tỵ nạn, chưa có giấy tờ ra khỏi nước pháp và một tên đi pháp qua ngõ Cao Miên. Hắn kể là năm 1970 khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà đánh qua Miên, thì có một đại uý được mẹ hắn trả tiền chở hắn từ Sàigòn qua Miên, rồi từ đó lên máy bay qua Pháp. Gia đình tên này thuộc dạng giàu có, mua nhà ở Paris này nọ. Sau 75 thì gia đình hắn cũng bay qua Tây hết. Sau này hai người em mình vượt biển sang pháp thì có quen vài người việt như ông nhà văn Hồ Trường An, ở Troyes với bà nào tên Châu nghe nói cũng viết nhiều nhưng mình đã qua Thuỵ Sĩ làm việc. Chỉ gặp vài lần khi về Paris thăm hai người em.

Mình trù trì ăn cơm đại học hai buổi trưa chiều. Chỉ có tối thứ 7 và ngày chủ nhật, các tiệm ăn đại học đóng cửa, chỉ có ở đại học xá Cité universitaire là mở cửa nhưng đi xa quá. Đến nơi cũng phải xếp hàng khá lâu, vì bao nhiêu sinh viên và dân ở ký túc xá đến ăn, mất thì giờ học hành. Nên nấu cơm ở nhà. Phòng ô-sin đâu có bếp núc gì đâu. Mình mua cái lò gas cắm trại, có cái nồi nhỏ để nấu cơm, sau đó khui hộp cá mòi Sumaco của Ma-rốc ăn với cơm. Bữa nào bận học thi thì chạy xuống đường mua ổ baguette và thỏi sô-cô-la ăn thôi. Nhớ dạo mới sang, chưa có thẻ sinh viên, gặp một tên Việt Nam ở nhà thằng Tây dạy Alliance francaise ở Huế thì phải, gốc bên Lào hay sao đó, nói đến tiệm ăn đại học Jussieu, nhờ mấy tên sinh viên gốc mít mua dùm vé ăn rồi xếp hàng vào ăn vì rẻ. Dạo ấy hình như chỉ có 2.5 quan pháp, mua một carnet giá 25 quan cho 10 vé. Sau này họ kiểm tra thẻ sinh viên nên hết vào được. Khi vào học thì có thể ăn mọi nơi tại Paris. Lúc mình ra trường vé ăn mỗi suất là 6 quan. Kinh


Tính ra mình chỉ ăn cơm Việt Nam trả tiền ở tiệm đâu 4 lần trong suốt 8 năm trời ở Paris. Nhớ lần đầu tiên đến Paris thì đâu 4 tuần lễ sau khi ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc Sài lang, thèm cơm Việt Nam quá nên đi lơi bơi trên đường Montparnasse, thấy có tiệm ăn Việt Nam bèn bò lại xem. Nhìn menu để ngoài đường là rùng mình. Lý do là ai mà ra ngoại quốc lần đầu cứ phải đổi giá tiền qua tiền việt. Một tô bún bò giá bằng 25 tô bún bò ở Đà Lạt. Thèm đồ ăn Việt Nam quá đành bấm bụng đi vào. Ngược lại ngày nay về Việt Nam thì thấy thức ăn rẻ hơn ở Mỹ.


Gặp anh bồi đến có vẻ không thân thiện lắm. Bàn bên cạnh có Tây đầm ngồi thì anh ta kêu oui Monsieur oui madame còn mình thì anh ta quăng cái thực đơn trên bàn rồi bỏ đi. Một lát sau anh ta quay lại. Mình nói cho tô bún bò vì giá rẻ nhất. Mình kiểm tra cái thực đơn để xem giá tiền như người ta tính toán nằm mơ con gì tối qua để đánh lô đề. Mình mơ một ngày nào đó vào tiệm ăn, không phải xem giá tiền trước khi gọi món ăn. Anh ta nhìn mình như bò đội nón rồi hỏi bằng tiếng Tây: “c’est tout “ , mình rặn thêm được câu Tây bồi. “Oui.” Mình ngạc nhiên là người Việt tại Paris lại hỏi tiếng Tây với mình. Chán Mớ Đời  


Khi anh bồi đem tô bún bò ra thì mới hiểu lý do anh ta trợn mắt. Đâu phải tô bún bò như ở Đà Lạt mà là một cái chén bún bò. Bên Mỹ gọi là “cup”. Mình làm một hớp là xong. Rất dỡ rồi trả tiền mà xót của đi ra mà vẫn đói. Chả thấy cay như bún bò Đà Lạt khi xưa. Nhưng giá 25 tô bún bò Đà Lạt. Ngày đó hết ăn cơm nhịn luôn tới hôm sau. Sau này đi rửa chén cho một nhà hàng Tây vào buổi trưa nên được ăn cơm Tây còn dư. Ngon kể gì. Có lần ông chủ trúng mánh vì hôm đó thực khách đến đông như Tây đầm, vui đời nên làm cho 3 thằng phụ một miếng steak, ăn ngon nức nở. Một thằng phụ bếp, 1 thằng bồi bàn và mình là thằng rửa chén đĩa.


Nói đến anh bồi người Việt thì nhớ lúc qua Tây có gặp một anh gốc Đà Lạt, tại nhà cậu Miên, con ông bà Võ Quang Tiềm. Nghe nói anh ta là sĩ quan, lo trả tiền cho lính, biển thủ tiền lương của lính rồi trốn qua Miên, bay qua pháp, làm bồi sống, cặp với một bà đầm. Con của ông bà người Huế, có quán bán bánh xèo ở đường Trương Vĩnh Ký, đối diện khách sạn Thuỷ Tiên. Sau lưng tiệm của ông bà Tiềm. Ông bà cụ có dẫn mình ra đây ăn một lần.


Lần thứ nhì đi ăn cơm Việt Nam với hai chị em Marie-Christine và Marie-Helene. Số là gia đình hai chị em này hay mời mình đến nhà ăn cơm như giáng sinh, này nọ nên hè làm ngân hàng, có lương nên bấm bụng mời đi ăn cơm Việt Nam trong khu La-tinh. Lần thứ 3 là ăn với bọn Tây đầm học chung và lần thứ 4 được gia đình cô bạn mời đi ăn. 

Sau này đi làm thêm cho ông giáo sư dạy ở văn phòng ông ta nên mình có tiền nên lâu lâu cũng bò đi kiếm tiệm ăn rẻ tiền. Trong Khu La-tinh có một con đường nhỏ, có rạp xi-nê chuyên chiếu phim của Paolo Pasolini, đối diện là một tiệm ăn Việt Nam do một bà người nam vừa làm bếp vừa làm bồi. Sau này quen mới nghe bà ta kể là khi xưa là người làm trong gia đình tướng Dương Văn Minh. Cũng chả hiểu sao bà ta lại lọt qua pháp với thằng con đâu cở tuổi mình.


Hôm đó, sau khi trường đóng cửa vào 3 giờ chiều thứ 7, mình lang thang thấy phim Salò, or the 120 Days of Sodom của Pasolini nên bò vào xem, đến khi ra về thì thấy tiệm ăn Việt Nam đối diện, giá bình dân nên bò vào. Ai mà có đầu óc đàng hoàng thì không nên xem phim này. Mình thấy Tây đầm, đứng dậy ra về trước khi hết phim. Mình tiếc tiền nên ráng ngồi lại xem đến hết phim. Chả thấy hay gì cả nhưng đám Tây đầm học chung khen nức nở nên tò mò đi xem. Mình vào tiệm nhỏ xíu thì thấy bà chủ lăn lội trong bếp. Tiệm nhỏ có đâu 5 bàn, độ 12 người là tối đa. Đói quá, thấy bà ta có một mình mà khách đầy hết nên mình đứng dậy, phụ dọn dẹp bàn để bà ta làm tô bún thịt nướng cho mình ăn rồi về. Khách vô ào ào nên mình phải làm bồi bất đắc dĩ đến khuya mới được ăn. Ăn xong bà không lấy tiền và nhờ mình lại chiều cuối tuần thứ 7 và chủ nhật phụ bà ta. Trong tuần thì có thằng con lo. Nó đi chơi cuối tuần, đánh bài hay nhảy đầm chi đó khiến bà ta một thân một mình tử thủ với cái tiệm. 

Hôm nào kể vụ Nathalie Wood tát tai Frank Sinatra

Thế là từ đó mình trở thành bồi tiệm ăn Việt Nam vào cuối tuần buổi tối. Đi làm ngày đầu tiên, trên nguyên tắc là 11 giờ đêm quán đóng cửa nhưng khách đi xi-nê ra ghé ăn thì bà tiếp tục bán thế là khi mình về thì métro đóng cửa quá 12 giờ đêm. Mình kêu taxi về nhà thì tốn 120 quan pháp. Đi làm thì bà ta trả 100 quan với tô bún thịt nướng. Thế là lỗ. Hôm sau mình nói với bà ta không thấy bà ta bù tiền cho mình. Chỉ kêu tội chưa. 


Sau này nếu đông khách trễ métro thì mình đi bộ về nhà, từ Boulevard  Saint Michel về đến Neuilly sur Seine. Mùa đông lạnh thật. Năm ngoái về Paris, mình tính đi bộ từ Boulevard Saint Michel về tới Neuilly sur Seine để tìm lại chút hương xưa nhưng đến Khải Hoàn Môn là cô em rên kêu mệt quá, đành bỏ vụ đi bộ, lấy métro về. Đó là mình chỉ ăn tiệm Việt Nam có 4 lần trả tiền, còn ăn cơm bồi thì mỗi tuần đến khi tốt nghiệp rồi đi Thuỵ Sĩ. Bà ta chỉ làm món bún thịt nướng và chả giò chớ không có nhiều món.


Thuỵ Sĩ cũng như Ý Đại Lợi dạo ấy chưa có tiệm ăn việt còn tiệm tàu thì mình cũng không ăn. Nay thì thấy tiệm ăn đầy phố, tiệm Việt Nam cũng có nhưng không nhiều lắm. Chỉ nhớ lâu lâu gặp mấy anh bạn du học sinh thì họ nấu ăn ở phòng trọ. Năm ngoái về Ý Đại Lợi thăm lại mấy anh bạn này thì nhớ đến món gà xào xả của anh bạn gốc Bắc kỳ, di cư vào Đà Nẵng. Mấy chục năm sau gặp lại nhau thì họ ăn cơm Ý Đại Lợi nhiều hơn cơm việt. Mình ở chơi mấy ngày thì thấy toàn cơm ý không. Chỉ có hôm vợ chồng anh bạn mời ông cha người Việt đến nhà ăn vì ông cha cũng thèm cơm việt. Hình như hôm đó ăn Phở vì ông cha gốc Nam định. Chẳng bù lại khi xưa, gặp nhau nấu phở, không có bánh phở thì lấy spaghetti ăn với nước phở. Ngon ra phết. Lâu lâu mình về Paris, mua hột vịt lộn và đồ việt ở chợ Thanh Bình đem qua Ý Đại Lợi. Cô em mình ở Tây cũng ăn đồ ăn pháp, chắc có con là Tây đầm hết nên ăn đồ ăn pháp nhiều hơn. Thêm mình ở bolsa nên không thèm thức ăn việt. Về Tây ăn đồ Tây. Hú nhau nấu hột vịt lộn ăn. Họ mừng lắm khi mình mua cho chai nước mắm. Ở Thụy sĩ không có cơm việt nhưng quen vài gia đình người Việt nên cũng có ăn cơm việt. Có anh chàng sinh viên, buôn bán đồ Việt Nam kiếm thêm tiền hay gửi mình mua đồ mỗi khi về Paris. Nay ở Thuỵ Sĩ, mở tiệm ăn Việt Nam.


Qua Anh quốc thì mình chỉ ăn cơm tàu là nhiều nhất. Cơm Việt Nam thì nhớ ở Soho, có một tiệm Việt Nam nhưng chủ là người Tàu tên Pasteur. Lâu lâu ghé ăn phở cho đỡ thèm. Có một tiệm tàu chuyên bán thịt vịt quay Bắc kinh trứ danh. Có tên tàu Hongkong làm chung giới thiệu, kêu chỗ này vịt quay ngon hơn cả ở Hương Cảng. Nên lâu lâu ăn trưa, mình lấy Tube đến chỗ này ăn đĩa cơm vịt quay. Sau này qua Nữu Ước làm việc, ở Tribeca nên gần phố tàu. Đi làm về, xuống trạm Canal, rồi ghé vô phố tàu ăn. Có vài tiệm Việt Nam nhưng đa số là người Tàu làm chủ. Cứ ăn hết thực đơn của tiệm thì tìm tiệm khác để ăn. Mình thuộc dòng keo kiệt nên ăn tiệm rẻ tiền nhất nên chắc cũng không ngon lắm.


Thời sinh viên thì chả biết nấu ăn, chỉ cơm với cá hộp Sumaco. Lâu lâu tụi bạn Tây đầm rủ nấu ăn thì mình làm chả giò cho chúng. Không biết có ngon hay không nhưng chúng đẫn hết. Chúng gọi pâté imperial. Nay về Tây lại nghe chúng kêu “Nem”. Qua Ý Đại Lợi làm việc thì học được nấu spaghetti nên từ đó mình chỉ nấu spaghetti để ăn đến khi lấy vợ.


Nay ở Bolsa ăn cơm việt riết rồi ớn, phải ăn món khác đổi khẩu vị. Xong om


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Cái kết của các điệp viên trong chiến tranh


Trong cuộc nội chiến vừa qua, có nhiều điệp viên của hai bên được giải mả như các ông nằm trong phủ tổng thống Việt Nam Cộng Hoà, các nhà nằm vùng. Có lẻ người được Hà Nội cài đặt nổi tiếng nhất là thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn. Một nhà báo, được Hà Nội cho qua Hoa Kỳ học hai năm rồi về Sàigòn, làm việc cho cơ quan báo chí nhất là của Hoa Kỳ nên sau chiến tranh, người Mỹ đều bật ngửa khi Hà Nội phong chức ông này thiếu tướng tình báo.

Ông Phạm Xuân Ẩn, điệp viên của Hà Nội, sau được phong chứ thiếu tướng

Một ông khác tên Phạm CHuyên, bí danh là Ares được Hoa Kỳ thả ra Bắc. Là điệp viên nhị trùng (mình có kể rồi). Do Hà Nội đưa vào nam để được Việt Nam Cộng Hoà tuyển vào các toán biệt kích rồi thả ra Bắc móc nối người dân chống đối Hà Nội như CIA từng làm với các biệt kích của Đài Loan, huấn luyện rồi cho xâm nhập vào Trung Cộng. Mấy vụ nhảy toán ở Trung Cộng đều thất bại vì cách kiểm soát lương thực, hộ khẩu của Trung Cộng không có kẻ hở. Theo tài liệu thì tất cả đều được thả dù, hay đổ bộ đường biển đều bị bắt hết ngoài trừ bí danh Ares. Thế nên CIA phải dựa vào ông này để có thêm tin tức. Tốn khá nhiều hàng hóa được thả dù suốt 10 năm trời trước khi CIA test lại và quyết định bỏ luôn, đánh dấu việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà sau hiệp định Paris.

Phạm Chuyên, gián điệp nhị trùng khiến nhiều toán biệt kích bị bắt khi xâm nhập vào Bắc Việt

Năm 1954, khi mấy nước lớn họp mặt tại Genevre, Thuỵ Sĩ, bàn bạc chia đôi Việt Nam như Đức quốc và Đại Hàn trước đây. Chả thèm hỏi đại diện Việt Nam có đồng ý hay không. Ngoại trưởng Trần Văn Đổ có kể là một hôm, tối ông Phạm Văn Đồng, đại diện phe Việt Minh, gọi điện thoại ở khách sạn, cho biết là phái đoàn Liên Xô đã cho biết là ngày mai, sẽ chia đôi Việt Nam. Ông Đổ sau này làm ngoại trưởng cho miền nam, đề nghị ông Đồng, hai phái đoàn người Việt họp nhau để bàn mai sẽ nói gì này nọ. Nhưng ngày mai chả được hỏi gì cả. Mấy nước như Hoa Kỳ và cộng sản kêu chia đôi. Họ nhìn bản đồ thấy vĩ tuyến 17 có con sông Bến Hải ngăn nên dùng đó là nơi ranh giới cho 2 miền nam Bắc. Xong om


Nam Hàn hên là Bắc Hàn muốn đánh chiếm miền nam thì phải tràn qua khu phi quân sự. Xung quanh Nam Hàn toàn là biển nên khó đổ bộ vì hải quân sẽ biết ngay. Còn Việt Nam thì bên cạnh là Cao Miên và Lào, hai nước trung lập. Miền nam thì tôn trọng chủ quyền hai nước này còn Hà Nội thì bất chấp. Họ đem quân qua ngõ hai nước này để đánh miền nam thêm nằm vùng của họ được cài đặt tại miền nam.

Thấy trên nhóm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam 


Họ cho rằng tạm thời như vậy rồi 2 năm sau sẽ tổng tuyển cử để hợp nhất lại Việt Nam. Đó là cách nói ngoại giao chớ làm gì có chuyện đó. Triều Tiên đã chia đôi từ năm 1953 đến nay vẫn còn đó. Đức quốc được thống nhất với điều kiện không được vũ trang và NATO sẽ không tiến gần Liên Xô.


Vấn đề là khi họ chia cắt hai miền nhưng chả để ý đến dân số của hai vùng. Lý do là miền Bắc có hơn miền nam đến 3 triệu dân thì khi tổng tuyển cử như dự định năm 1956 thì miền Nam thua là cái chắc nếu tính theo dân số bầu. Do đó một trong những lý do mà ông Ngô Đình Diệm không chịu tổng tuyển cử vào năm 1956.


Ông Diệm về nước làm thủ tướng thì gặp nhiều vấn đề ở miền Nam như giặc BÌnh Xuyên, thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn HInh, Ba Cụt, chưa kể nằm vùng do Hà Nội cài đặt ở lại. Cuối cùng thì nhờ pháp mua chuộc cho mấy người này sang Pháp, ngoại trừ ông Ba Cụt bị tử hình. Năm 1954, có 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam, và 300,000 người từ miền Nam di cư ra Bắc mà họ dụng cụm từ “tập Kết”. Mình không biết số lượng người do Hà Nội cài đặt ở lại miền nam là bao nhiêu nhưng sau này thấy có ông Lê Đức Thọ, Lê Duẫn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh,.. số người tập kết ra Bắc, có gia đình ở miền nam. 


Điển hình là cậu ruột của đồng chí gái đi tập kết, làm sĩ quan tuỳ viên cho ông Võ Nguyên Giáp, đổi họ từ Tôn Thất qua Nguyễn. Đà Lạt có ông Lê Xuân Ái, nhà ở Dốc Nhà Làng tập kết, sau 75 mới về lại Đà Lạt. Ông ta là bạn thân của tướng Tôn Thất Đính nên khi con trai ông ta đến tuổi đi lính, được ông Đính đỡ đầu. Hà Nội cho những người tập kết viết thư cho gia đình như bà Dung Krall kể ông bố theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, hình như ông ta là ngoại trưởng cho chính phủ lâm thời, nằm vùng đến nhà cho biết nên lúc nào cũng nghe đài Hà Nội để nghe tiếng của ông bố. Rồi từ từ những thân nhân của những người tập kết, được kết nạp vào tổ chức, hoạt động nội thành cho Hà Nội. 300,000 người tập kết thì biết bao nhiêu gia đình ở miền nam được tiếp xúc. Miền nam cầm cự đến 20 năm là quá giỏi. Bà Dung Krall đã giúp Hoa Kỳ phát hiện ra các người của Hà Nội cài đặt tại Hoa Kỳ. Lâu quá không nhớ rõ chi tiết. Hình nha bà ta mới qua đời năm ngoái thì phải.


Mẹ mình khi xưa theo việt minh, bị Tây bắt tra tấn năm 1950. Mình không hỏi nhưng mình đoán là có bị nằm vùng liên lạc. Năm 1956, sau khi sinh mình ra thì mẹ mình bị mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diệm bắt, đem mình theo vào tù. May ông cụ là quân nhân, về phép thăm con đầu mới sinh nên bảo lãnh ra và đưa về Quy Nhơn, nơi ông cụ đóng quân được 1 năm rồi tình hình yên lại, trở về Đà Lạt đến giờ.


Đà Lạt có rất nhiều người làm nội tuyến cho Hà Nội như cô Ba Chỉ, tiệm Bình Lợi dưới chợ mới. Cô ta theo việt minh nhưng không tập kết, làm kinh tài cho Việt Cộng. Cô ta có đi Thái Lan, nghe cô kể gặp bà Nguyễn thị Bình để nhận chỉ thị. Lâu lâu nghe nói xe hàng của cô bị Việt Cộng bắt, lấy hết để báo cho cảnh sát. Thực tế là mua hàng gạo, tiếp tế cho Việt Cộng chở vào bưng. Dạo đó có ông Sở cạnh hàng mẹ mình, lái xe hàng bị bắt ở tù. Bà Sở phải thuê tài xế và đi buôn Sàigòn Đà Lạt dạo ấy. Lâu lâu kêu bị Việt Cộng lấy hết đồ. Có dạo ông ta bị bắt ở tù không hiểu tội gì. Hồi nhỏ ít dám hỏi vì hỏi là ăn tát. Mình rất mến ông Sở, rất hiền khi xưa ông ta dùng cái bàn tính của tàu abacus để làm tính, có dạy mình sử dụng. Qua Tây họ có máy tính hết nên hết xài.


Có người liên lạc với mình cho biết là bà con với cô Ba Chỉ. Cô ta còn sống ở Đại Ninh nhưng mình không có dịp gặp lại. Về Đà Lạt thường là 3 ngày rồi chạy. Cô Ba Chỉ chắc cũng trên 100 tuổi. Sau 75, ông cụ mình bị bắt cải tạo 15 năm thì trong thời gian này, cô Ba Chỉ làm lớn tại Đà Lạt nhờ có công kinh tài cho Việt Cộng. Gái đình mình bị cách Mạng 30 đánh tới tấp nhưng nhờ Cô Ba Chỉ giúp đỡ, nếu không thì gia đình đi kinh tế mới rồi. 


 Mẹ mình kể có lần cô Ba CHỉ, kêu vào nói có dầu ăn hay gạo mới về. Ai hỏi mua thì vào lấy bán. Giá bao nhiêu đó. Vài tiếng sau là có người đến hỏi mua 100 bao gạo. Mẹ mình nói có, rồi kêu người chở cho họ, lấy tiền Hoa Hồng 20%. Sau 75, gặp lại bà hay mua gạo đường cho Việt Cộng, bà ta nói khi xưa run quá. Nói cho ngay khi xưa buôn bán thì ai cũng phải bán cho Việt Cộng. Nếu không chúng giết như cây xăng ngã Ba chùa. Bị họ đặt chất nổ. Các đại gia Đà Lạt khi xưa đều bị Việt Cộng xin tiền đóng góp cho cách mạng. Nghe kể khi xưa Việt Cộng vào nam đánh chỉ cần đem theo vàng và Đô la. Trinh sát 302 đi nhảy toán có lần thấy một sacoche mấy ngàn đô la của Việt Cộng. Hình như mình có kể vụ Hà Nội nhờ người ở Sàigòn qua pháp hay Hương Cảng để đổi đô la. Đưa cho dân miền nam, mua hàng tiếp tế cho bộ đội. Đánh kiểu này, không Thắng mới lạ. Sau 75 tưởng được trưng dụng nhưng lại bị đánh tư sản nên bỏ chạy mệt thở. Mình đang đọc thêm tài liệu để kể chuyện này. Bác nào có tài liệu thì cho em xin vì Hương Cảng, Paris, Sàigòn đủ trò, do nằm vùng của Việt Cộng thực hiện để có tiền nuôi quân của họ. Dân miền nam vừa đánh Việt Cộng vừa nuôi Việt Cộng. Không thua mới lạ. Mình có kể vụ tướng Toàn, quân khu 2, sai đệ tử đưa tiền cho Việt Cộng để họ không phá đám, để ông ta chặt cây đem bán cho Nhật Bản,… Lính trinh sát 302 Đà Lạt đi nhảy toán thì thấy vụ này, bị lộ nên phải bắn chết Việt Cộng cũng như đệ tử tướng Toàn. Ông này nổi điên vì mất cái sacoche tiền đô la nên kêu trực thăng đi kiếm thiếu tá Phong.


Có con gái của một tiệm ở khu Hoà Bình, xin dấu tên, kể trước mấy tuần Đà Lạt bỏ ngõ thì có ông chú họ ngoài Bắc được nằm vùng dẫn đến nhà gõ cửa ban đêm. Thế là ông bố tin vào lời cách mạng ở lại Đà Lạt không di tản nên không mất nhà, của cải. Sau bị đánh tư sản nên phải đem cả gia đình vượt biển. Mình có kể vụ này rồi, ai buồn đời thì tìm trên bờ lốc.


Mình nói chuyện với Thiếu Tá Phong, đại đội trinh sát 302 khi xưa của Đà Lạt Tuyên Đức. Anh ta kể là mỗi lần đi hành quân về là ra tiệm hớt tóc của ông thần gì quên tên. Tên Nghĩa. Chỉ nhớ có cô con gái độ tuổi mình, không đẹp nhưng đồ phụ tùng đầy đủ. Mỗi lần vào đây sang băng nhạc lậu là gặp cô ta bận đồ bộ rất bắt mắt. Tắm xong rồi cắt tóc, tên này hỏi đi trinh sát chỗ nào. Anh ta kể cho hắn đánh đâu này nọ rồi phá lên cười. Ai ngờ sau 75, hoá ra ông ta là nằm vùng, làm chức lớn ở Đà Lạt đến khi Hà Nội cho người vào thay thế. Cũng như ông Kim, thầu khoán ở Trại mát và ông thợ mộc trên Số 4, làm nhà cho gia đình mình. Sau 75 mới khám phá ra họ nằm vùng. Tương tự mấy ông thợ của ty công quản nước Đà Lạt, làm dưới quyền ông cụ mình. Kinh


Ngoài Bắc thì dân chống đối chủ nghĩa cộng sản đã di cư vào nam gần hết, đa số là công giáo nên không có một lực lượng nào lớn để có thể ra mặt chống đối Hà Nội. Trong nam thì theo thể chế dân chủ nên họ cho phép sinh viên, tôn giáo xuống đường biểu tình, tự thiêu, đủ trò khiến thế giới bàng hoàng. Báo Việt Cộng phỏng vấn một ông cựu thị trưởng Đà Lạt và phó chủ tịch quốc hội Việt Nam Cộng Hoà, có em đi tập kết móc nối, nên ông ta cho Hà Nội biết các tường trình quân sự của các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà rồi được cử đi Hoa Kỳ để xin viện trợ. Ông ta nói với các thượng nghị sĩ Mỹ, là trễ rồi. Không nên viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Bố của bạn học Yersin nên mình dấu tên. Ai muốn biết thì kiếm tài liệu của Hà Nội đọc.


Mình có kể về một điệp viên của Việt Nam Cộng Hoà được cài đặt trong bộ chỉ huy của Hà Nội, vùng Tây Ninh, gần biên giới Cao Miên, có số danh là X92. Nhờ các tài liệu của ông ta mà Việt Nam Cộng Hoà tránh được nhiều vụ đẫm máu cũng như giúp toà đại sứ Mỹ cấp tốc nhân viên di tản người Việt ra khỏi Sàigòn trước ngày 30/4/75. Lý do Hà Nội muốn đánh chiếm toàn miền Nam trước ngày 19/5, sinh Nhật của ông Hồ. Ông ta bị khám phá vì một người làm cho CIA, bị bắt nên khai ra. Ông này người Bắc nên được đưa về vùng Tây Ninh làm việc để không ai biết tung tích đến khi ông ta lấy vợ vùng này thì phải đưa đi vùng khác. Nghe nói ở Ban Mê Thuộc rồi khi Việt Cộng đánh cao nguyên thì ông ta và xếp người Mỹ bị bắt nên khai ra. Sau này vượt biển chết với cả gia đình. 


Mình có ông cậu họ, làm cho CIA tỏng chương trình Phượng Hoàng nên khi Sàigòn sắp đầu hàng, CIA hẹn cậu ta ở đâu để bốc gia đình cậu đi. Cậu về nhà để kêu bà vợ đi thì khám phá ra bà mợ là nội tuyến của Hà Nội. Hóa ra họ biết nên cài người lấy cậu. Cũng có thể là Hà Nội biết được nên tìm cách chiêu dụ mợ. Cuối cùng trễ hẹn trực thăng, cậu tự tử chết. Ngày 30/4 mình đều thắp nhang cho cậu. Mình có kể về cái máy truyền tin của cậu khi ghé nhà mình, đi đâu với ông cụ.


Mình có đọc tài liệu của Hà Nội về nhân vật X92 này do một thứ trưởng công an Hà Nội kể. Xin trích tải về đây:


Qua khai thác một tên tình báo Mỹ bị bắt, ta được biết một số tên nội gián chui vào hàng ngũ ta, trong đó có một tên đã hoạt động được hơn 10 năm, mang tên trùng với hai đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh. Y đã cung cấp nhiều tin tức rất quan trọng cho địch. Tây Ninh là căn cứ Trung ương Cục nên mọi tin tức quan trọng về quân sự, chính trị của ta, y đều biết và cung cấp cho CIA. Những tin tức này được Lầu Năm Góc rất chú ý, chúng coi y là một tên tình báo số 1. Y có trí nhớ rất tốt. Chỉ cần đọc một lượt những chỉ thị, nghị quyết của ta là y có thể chép lại hầu như nguyên văn.

Tình báo Mỹ trước khi rút khỏi Việt Nam đã cài y ở lại. Y giao hẹn là tất cả hồ sơ, báo cáo của y gửi cho cảnh sát và CIA đều phải đốt hết để không còn tung tích. Nhưng Mỹ đã rút về nước, công an cảnh sát ngụy thì mất hết tinh thần, không còn bụng dạ nào đốt hồ sơ của y nữa. Cảnh sát trưởng ngụy ở Tây Ninh lúc đó là tên Nguyễn Tấn Danh trực tiếp nắm y. Chúng tôi đã bắt tên Nguyễn Tấn Danh. Tên này khai báo đầy đủ quá trình sử dụng và bàn giao Võ Văn Ba cho tình báo Mỹ. Qua khai thác Nguyễn Tấn Danh, chúng tôi biết đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy bị bắt là oan, ký tên trong báo cáo có tên Nguyễn Văn Ba là tên giả mạo. Nguy hiểm hơn, trong Thường vụ Tỉnh ủy có hai đồng chí tên là Ba. Chúng tôi tìm hồ sơ trong Tổng nha Cảnh sát ngụy và nắm được toàn bộ hồ sơ của y do chính tay y viết. Ðồng chí Tô Quyền (cán bộ miền bắc chi viện cho miền nam), Trưởng ban An ninh Tây Ninh, báo cáo cụ thể với tôi.

Sau khi thu thập đầy đủ tài liệu, nghiên cứu hồ sơ của Võ Văn Ba với Ty công an ngụy và Tổng nha Cảnh sát, tôi báo cáo Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn bàn cách bắt Võ Văn Ba để khai thác, đồng thời can thiệp với Tỉnh ủy Tây Ninh để minh oan cho hai đồng chí. Nhưng vì tình tiết sự việc phức tạp nên sau một thời gian dài mới minh oan được cho hai đồng chí đó.

Vụ Võ Văn Ba là vụ nội gián quan trọng. Y đã chui sâu, leo cao vào nội bộ ta. Trong 10 năm, y đã thu thập rất nhiều tin tức quan trọng cho địch, nhưng vì ta có nhiều tin tức và bút tích của y còn lưu lại trong hồ sơ cảnh sát cộng với lời khai của Nguyễn Tấn Danh (người trực tiếp phụ trách y) nên việc kết tội y không khó khăn. Công an Tây Ninh bắt tên gián điệp Võ Văn Ba đưa về trại giam của Tổng nha Cảnh sát ngụy cũ... Sau khi đến nhà anh Trần Quốc Hoàn báo cáo kết quả khai thác, anh Hoàn chỉ thị cho tôi bàn giao tên này cho An ninh Trung ương Cục... Trong giờ tập thể dục buổi sáng của anh em, Võ Văn Ba đã dùng dây quần thắt cổ tự tử.” (Hết trích)


Ông Phạm Xuân Ẩn làm điệp viên cho Hà Nội biết bao nhiêu năm nhưng không được tin dùng sau khi Việt Nam được thống nhất. Khi hết đi săn thì thợ săn sẽ không cần con chó săn nữa. Ông ta dùng tài liệu của Hà Nội đưa để báo chí ngoại quốc lên tiếng định hướng theo ý đồ của Hà Nội. Giúp Hà Nội tiến chiếm miền nam nhanh hơn. 


Nếu so về công giúp người Việt bớt đổ máu, chết chóc thì ông Võ văn Ba (không phải tên thiệt vì ông lấy tên Ba để trùng tên với 2 cán bộ lớn của Việt Cộng) với danh số X92 là người có công nhất. Hơn 100 ngàn người Việt được di tản vào những ngày cuối cùng của Sàigòn là nhờ tin tức của ông này đưa cho toà đại sứ. (Theo lời kể của cựu tình báo viên Frank Snepp). Việt Nam Cộng Hoà thua nên ít ai biết đến các hy sinh của những điệp viên của miền Nam. Mình có kể về ông Ba này rồi.


Tương tự khi Mỹ dội bom Cao Miên, tướng Đổ Cao Trí đem quân qua biên giới đánh Việt Cộng vì năm Mậu Thân, Hà Nội bị tổn thất quá nặng. Nên rút về dưỡng thương bên Cao Miên. Nếu người Mỹ cho phép ông Đổ Cao Trí tiếp tục đánh, truy sát Việt Cộng năm đó thì có lẻ đã dẹp được các căn cứ Việt Cộng bên Lào luôn. Cuộc chiến Việt Nam có lẻ đã đổi thay. Nhờ tin tức này mà người Mỹ muốn Việt Nam hoá chiến tranh nhanh để rút ra khỏi Việt Nam. Giao lại cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà nên đôn quân trong thời gian này khá nhiều. Cũng có thể Mỹ muốn bang gia lại với Trung Cộng nên không muốn tiếp tục cuộc hành quân này. Kết quả máy bay của tướng Trí nổ cái đùng trên trời. Thuận ta thì sống còn nghịch ta thì nổ máy bay.


Mình theo dõi vài nhóm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam thì thấy họ đưa tài liệu khá chính xác về cuộc chiến Việt Nam. Đọc tài liệu của Mỹ, Việt Cộng để hiểu thêm. Còn tài liệu Việt Nam Cộng Hoà thì thất lạc hết nên khó kiểm chứng.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn