Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tếđịa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tếđịa. Hiển thị tất cả bài đăng

Trung Cộng và cuộc chiến thuế quan 2025


Mình hay theo dõi các podcast của người Tàu tại Hoa Kỳ, và Úc Đại Lợi nhất là các cựu du học sinh ở lại sau vụ Thiên An Môn. Để biết thêm tin tức về Trung Cộng qua các nhà đối lập ở hải ngoại. Qua những tin tức của nhóm mới hiểu những gì chúng ta biết về Trung Cộng thật sự không phải vậy mà do sự tuyên truyền. Cũng phải dè chừng vì có thể Trung Cộng cài người để thu toán dân phản động gốc tàu ở Hải ngoại. 


Được biết là sau vụ cách mạng văn hoá của Mao thị, các lính tráng cán bộ về lại thành phố thì nông dân quá chán ngáng vụ này nên họ từ từ tạo dựng một nền kinh tế chui. Từ đó Đặng Tiểu BÌnh sử dụng hệ thống này để mở mang kinh tế Trung Cộng. Chớ không phải ông ta đột phá tư duy gì cả. Ông ta là một hoàng đế sau Mao Má Má.

Mình bắt đầu hiểu Trung Cộng bị bao vây bởi các nước tư bản theo chế độ dân chủ như Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn nên họ đã bất chấp ký kết với Anh quốc, đã đàn áp Hương Cảng, hết còn tự do dân chủ. Trung Cộng vẫn là chế độ cộng sản và họ luôn luôn lo sợ bị loại trừ như Liên Sô mà tìm cách đàn áp để tồn tại.


Tại sao Trung Cộng chơi cha thiên hạ làm vùng biển Đông là lưỡi bò của họ. Họ cho xây dựng tại các đảo chiếm của Việt Nam Cộng Hoà, Phi luật Tân,… các phi trường quân sự, căn cứ quân sự,… vấn đề là ngày nay các hòn đảo, căn cứ quân sự nhân tạo này bắt đầu bị lún. Chúng ta thừa biết nền xây dựng của người Tàu là đồ hàng mả. Một nhà chọc trời 30 tầng ở Vọng Các, cách Miến Điện hơn 1,000 cây số bị xụp trong khi các cơ sở khác chả động đậy. Thậm chí ở xứ họ cũng được xây dựng theo kiểu đậu hủ mà thủ tướng của họ tự hỏi tại sao xây dựng như thế này. Vì nhanh chóng lập thành tích và ăn gian hối lộ. Những gì chúng ta thấy họ xây dựng nhanh chóng tại Trung Cộng khó mà đứng vững lâu ngày. Bạo phát bạo tàn.


Ông ta kể năm 2019, có trở về đại học bên Trung Cộng nơi ông ta đã giảng dạy để kỷ niệm vụ đại học này được 100 năm hay chi đó. Ông ta nhận thấy Trung Cộng rất thay đổi. Các hạ tầng cơ sở được xây dựng cho những người sống tại thành thị nhưng một khi ra khỏi thị thành thì chỉ còn đường đất như xưa. Có hai loại Trung Cộng: thôn quê và thành thị. Những người thôn quê nuôi sống dân thành thị.


Trung Cộng xây dựng hình ảnh nên chúng ta thấy biết bao nhiêu thành phố ma, bỏ hoang không ai ở. Trung Cộng muốn người Tàu vào đó ở nhưng quá đắt. Không ai có thể trả nổi. Không lẻ trở lại lối xưa, cung cấp miễn phí cho người dân.


Điển hình là vụ Thiên an Môn, năm 1989. Sự thật là lạm phát gia tăng hơn 50% khiến dân tình ở thôn quê bức xúc, nổi loạn. Chúng ta chỉ thấy hình ảnh 100,000 lính tàu bắn chết đâu 2,000 người tại Thiên An Môn. Điểm hay là cả thế giới xem vụ này trực tiếp. Các người ở thôn quê của Trung Cộng được xem đồng thời các nước đông Âu và Liên Xô cũng đặt câu hỏi, có nên sử dụng biện pháp của người Tàu cộng sản để áp dụng với dân của họ. Câu trả lời là không nên đưa đến các phong trào chống đối ở Đông Âu khiến bức tường Bá Linh bị xụp đỗ và Khối Liên Xô tan theo mây khói. Cho thấy người cộng sản Âu châu ít ra còn có chút nhân bản trong người và lý trí để hiểu họ đã sai và cần thay đổi, không bám vào quyền lực như anh ba tàu. 


Có ông giáo sư người Hoà Lan, từng dạy trại Trung Cộng và làm việc tại Hương Cảng, tên Frank Dikötter co viết nhiều cuốn sách về Trung Cộng nhưng mình chỉ có đọc được China After Mao: The Rise of a Superpower(2022). Khá hay. Ông ta giải thích Trung Cộng là một đế chế, thừa hưởng đế chế này từ Nhà Thanh tương tự Đảng cộng sản Nga cũng thừa hưởng đế chế từ Sa Hoàng. Do đó Trung Cộng bằng mọi cách tìm cách củng cố sự tồn tại của họ, để không rơi vào trường hợp đế chế Liên Xô tan rã. Mình tóm tắc sau đây cuốn sách. Ai buồn đời nên tìm đọc cuốn này. Lý do lịch sử tàu rất liên quan đến Việt Nam. Việt Nam trong suốt bao nhiêu năm đều rập theo khuôn của người Tàu.


Frank Dikötter, một nhà sử học người Hoà Lan và thành viên gần đây tại Viện Hoover, một think tank bảo thủ, lập luận trong cuốn Trung Quốc sau Mao: Sự trỗi dậy của một siêu cường (2022) cho rằng vị thế siêu cường của Trung Quốc bị phóng đại do những điểm yếu nội tại nghiêm trọng, bất chấp các tiến bộ kinh tế và quân sự. 


Dikötter cho rằng hình ảnh siêu cường của Trung Quốc là một ảo ảnh được xây dựng cẩn thận, che giấu những điểm yếu hệ thống. Ông ví Trung Quốc như “một con tàu chở dầu trông ấn tượng từ xa, nhưng bên dưới boong, các thủy thủ đang tuyệt vọng bơm nước và vá lỗ để giữ tàu nổi.” Hàng ngày mình thấy tin tức từ Trung Cộng cho hay họ chế cái này phát minh cái kia khiến mình thất kinh. Nghe nói họ đêm Drone qua Việt Nam để phóng lên trời cho người Việt xem nhưng không may bị ma trơi làm sao rụng hết xuống sông Sàigòn.

•  Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sử dụng tuyên truyền để thể hiện sự thống nhất và tiến bộ, kiểm soát thông tin để thổi phồng thành tựu và đàn áp bất đồng. Ví dụ, trong Cách mạng Văn hóa (1966–1976), truyền thông nhà nước miêu tả Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, dù nạn đói và hỗn loạn lan rộng. Sau Mao, kiểm soát này vẫn tiếp diễn với internet bị kiểm duyệt (Tường lửa Vĩ đại) và truyền thông nhà nước định hình câu chuyện. Mình nghe có bờ lốc cho biết ngày nay thiên hạ vượt tường lửa rất nhiều. Để tìm tài liệu ở ngoại quốc. Về Việt Nam thì đánh chữ BBC là tắt ngúm dù đài này được xem là thiên tả. Có vài cá nhân sẵn sàng chết, treo biểu ngữ kêu gọi dân chủ, tự do trên mấy thành phố như Bắc Kinh và Thượng Hải.


Ông Dikötter trích dẫn tài liệu lưu trữ cho thấy các quan chức địa phương giả mạo dữ liệu kinh tế và xã hội để đáp ứng mục tiêu của chính quyền trung ương, tạo ra bức tranh sai lệch về tiến bộ. Chẳng hạn, thời Đặng Tiểu Bình, số liệu sản lượng nông nghiệp bị thổi phồng che giấu nghèo đói ở nông thôn.


Tuyên truyền toàn cầu, như Viện Khổng Tử và quảng bá Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), khuếch đại hình ảnh Trung Quốc như một siêu cường nhân từ, nhưng ông Dikötter cho rằng điều này che giấu sự bất mãn trong nước và sự mong manh kinh tế. Mình có xem nhiều phim tài liệu nghiên cứu về thế hệ trẻ ngày nay khiến Đảng cộgn sản Trung Cộng lo sợ. Giới trẻ không muốn làm ăn, có phong trào ù lì, không thèm hăng say sản xuất lao động làm giàu. Thêm ngày nay có đen s30% sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp.


Thế vận hội Bắc Kinh 2008 là màn trình diễn toàn cầu về sự hiện đại của Trung Quốc, nhưng sự kiện này che giấu việc cưỡng chế di dời và đàn áp các cuộc biểu tình, cho thấy ĐCSTQ ưu tiên hình ảnh hơn thực chất. Nghe nói đạo diễn Steven Spielberg được mời để tạo dựng buổi khai mạc nhưng bị cấm cản đủ trò nên ông ta từ chối. 


Dikötter nhấn mạnh rằng ảo ảnh này không chỉ đánh lừa phương Tây mà cả chính ĐCSTQ, khi các lãnh đạo dựa vào dữ liệu bị thao túng, dẫn đến sai lầm chính sách. Cái này thì có lẻ đúng. Chính ta có thể nói dối với thiên hạ nhưng cá nhân không thể nào tự nói láo.


Mình tính đi du lịch lại Trung Cộng sau 16 năm nhưng có ông Mỹ từng làm cho tòa đại sứ ở Việt Nam và Trung Cộng kêu không nên. Nguy hiểm cho du khách mỹ. 20 năm về trước thì được còn nay thì người Tàu không ưa người Mỹ. 

Sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc ấn tượng nhưng được xây dựng trên nền tảng không ổn định, với ngân hàng ngầm, bất bình đẳng, và thách thức nhân khẩu học đe dọa sự ổn định dài hạn.

•  Tăng trưởng kinh tế: Các cải cách sau năm 1978 dưới thời Đặng Tiểu Bình đưa Trung Quốc từ nền kinh tế lớn thứ 126 lên thứ hai thế giới về GDP danh nghĩa (hơn 18 nghìn tỷ USD năm 2023). Các Khu kinh tế đặc biệt (SEZs) như Thâm Quyến thu hút đầu tư nước ngoài, và chính sách thị trường thúc đẩy sản xuất.

•  Điểm yếu ẩn giấu:

•  Ngân hàng ngầm: Đến năm 2022, các khoản vay không được kiểm soát ước tính 10 nghìn tỷ USD nợ, thúc đẩy tăng trưởng nhưng gây rủi ro bất ổn tài chính.

•  Bất bình đẳng: Hệ số Gini (đo lường bất bình đẳng thu nhập) tăng từ 0,30 năm 1980 lên 0,47 năm 2018, với giới tinh hoa ven biển thịnh vượng trong khi nông thôn tụt hậu.

•  Khủng hoảng nhân khẩu học: Chính sách một con (1979–2015) tạo ra dân số lão hóa. Đến năm 2100, gần 50% dân số Trung Quốc sẽ trên 65 tuổi (ước tính của Liên Hợp Quốc), gây áp lực lên lương hưu và thị trường lao động. Năm 2023, dân số Trung Quốc giảm lần đầu tiên trong sáu thập kỷ. 1 người đi làm để nuôi một người về hưu?

•  Dữ liệu bị thao túng: Tài liệu lưu trữ từ Trung Quốc sau Mao cho thấy số liệu GDP thường bị thổi phồng. Ví dụ, tỉnh Liêu Ninh thừa nhận năm 2017 đã giả mạo dữ liệu kinh tế trong nhiều năm.

•  Xu hướng gần đây: Tăng trưởng giảm xuống 3% năm 2022 (sau phong tỏa COVID) và 5,2% năm 2023, dưới mức 6–8% cần thiết để duy trì việc làm và trả nợ. Khủng hoảng bất động sản (như nợ 300 tỷ USD của Evergrande) phơi bày tăng trưởng quá đà.

•  Ví dụ: BRI, thường được ca ngợi là biểu tượng của bá quyền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, bao gồm các khoản vay cho các nước đang phát triển mà nhiều quốc gia không thể trả (như cảng Hambantota của Sri Lanka), tạo ra bẫy nợ hơn là quan hệ đối tác bền vững.

•  ông Dikötter lập luận rằng tăng trưởng của Trung Quốc dựa vào lao động giá rẻ và quy định lỏng lẻo, những lợi thế hiện đang suy giảm khi lương tăng và chuỗi cung ứng toàn cầu đa dạng hóa. Nay với thuế quan, Ấn độ và các nước khác sẽ nhảy vào thay thế. người Tàu có thể ra đi nhưng máy móc, nhà sản xuất không thể do đó các công ty lớn sẽ đầu tư vào các nước khác. 


 Đàn áp chính trị và nỗi sợ hãi hệ thống

•  Lập luận cốt lõi: Hệ thống chính trị Trung Quốc là một đế chế mong manh được duy trì bằng đàn áp, tuyên truyền, và sự hoang tưởng, không có khả năng thích nghi cần thiết cho vị thế siêu cường thực sự.

•  Kiểm soát của ĐCSTQ: Quyền lực độc quyền của ĐCSTQ, được quy định trong Điều 1 Hiến pháp Trung Quốc, loại bỏ đa nguyên chính trị. Sau Mao, các cải cách của Đặng Tiểu Bình tự do hóa thị trường nhưng không mở rộng chính trị, như được thấy trong vụ thảm sát Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, nơi hàng trăm (có thể hàng nghìn) người bị giết để dập tắt đòi hỏi dân chủ.


•  Giám sát hàng loạt (như hệ thống tín dụng xã hội, theo dõi 1,4 tỷ dân).

•  Kiểm duyệt bất đồng ý kiến (như giam giữ các nhà hoạt động như Lưu Hiểu Ba, người đoạt giải Nobel).

•  Đàn áp các nhóm như Pháp Luân Công và người Hồi giáo Uyghur, với hơn 1 triệu người bị giam trong các trại ở Tân Cương (ước tính của Liên Hợp Quốc).

•  ĐCSTQ sợ “diễn biến hòa bình” (tự do hóa kiểu phương Tây) và chính người dân của mình. Tài liệu lưu trữ cho thấy nỗi ám ảnh của Đặng Tiểu Bình về việc ngăn chặn sự sụp đổ kiểu Liên Xô, dẫn đến kiểm soát tư tưởng chặt chẽ hơn dưới thời Tập Cận Bình.

•  Dikötter bác bỏ hình ảnh Tập Cận Bình như một lãnh đạo đổi mới, miêu tả ông là một ứng viên thỏa hiệp được chọn năm 2012 vì thiếu quan điểm mạnh mẽ, giúp sự thống nhất của đảng. Chiến dịch chống tham nhũng của Tập, dù được ủng hộ, chủ yếu nhắm vào đối thủ, củng cố quyền lực.

•  Các cuộc biểu tình ở Hồng Kông năm 2019–2020, do dự luật dẫn độ kích động, dẫn đến hơn 10.000 vụ bắt giữ, cho thấy ĐCSTQ không khoan nhượng với quyền tự trị bất chấp các thỏa thuận quốc tế.

•  Dikötter so sánh Trung Quốc với Liên Xô, lưu ý rằng sự cứng nhắc chính trị tạo ra tính dễ vỡ, vì ĐCSTQ không thể cải cách mà không đe dọa chính sự tồn tại của mình.


•  Quân đội Trung Quốc, dù lớn, thiếu kinh nghiệm chiến đấu và đối mặt với thách thức hậu cần, khiến người ta nghi ngờ về tư cách siêu cường của nước này. Lần cuối đánh trận năm 1979 ở biên giới Việt Hoa te tua. Bị bộ đội Hà Nội đánh te tua dù không phải các sư đoàn chính quy.


• Ngân sách quốc phòng Trung Quốc (292 tỷ USD năm 2023) chỉ đứng sau Mỹ, với tiến bộ trong tên lửa siêu thanh, hàng không mẫu hạm, và chiến tranh mạng.


•  Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) không tham gia xung đột lớn kể từ Chiến tranh Trung-Việt năm 1979, một trận chiến tốn kém và bế tắc. Hình như 1989 cũng có xung đột với Việt Nam nhưng ít ai nói đến.

•  Các chiến dịch phức tạp như xâm lược Đài Loan đòi hỏi khả năng đổ bộ và hậu cần chưa được kiểm chứng. Mình đọc đâu đó là gia đình người Tàu chỉ có một con nhất là con trai thì không ai muốn con mình đi lính, đánh giặc chết.

•  Các vụ bê bối tham nhũng (như sĩ quan PLA bán thăng chức) làm suy yếu sự sẵn sàng.

• Không như Mỹ, Trung Quốc thiếu mạng lưới căn cứ toàn cầu, hạn chế khả năng phát triển sức mạnh. Các cảng BRI (như Gwadar, Pakistan) mang tính thương mại, không phải quân sự.

•  Các cuộc tập trận quân sự của Trung Quốc gần Đài Loan năm 2022–2023 gây đe dọa nhưng bộc lộ khoảng cách trong hoạt động chung và chuỗi cung ứng, theo báo cáo của Ngũ Giác Đài.

•  Dikötter đặt câu hỏi liệu các mối đe dọa quân sự của Trung Quốc có đáng tin cậy, cho rằng chúng phục vụ tuyên truyền trong nước hơn là chiến lược thực tế.


•  Hệ thống chính trị dễ vỡ và kiểm soát quá tập trung của Trung Quốc phản ánh những điểm yếu của Liên Xô, có nguy cơ suy giảm lâu dài.

• Giống Liên Xô, Trung Quốc dựa vào hệ thống một đảng, tuyên truyền nhà nước, và kế hoạch kinh tế. Việc ĐCSTQ từ chối cải cách chính trị tương tự như thất bại của Gorbachev với perestroika.

• Tích hợp thị trường và thương mại toàn cầu của Trung Quốc (như 17% xuất khẩu thế giới năm 2022) khiến nước này ít bị cô lập hơn Liên Xô. Tuy nhiên, Dikötter cho rằng tích hợp này tạo ra các phụ thuộc mới (như công nghệ phương Tây).

•  cuốn Trung Quốc sau Mao tiết lộ các lãnh đạo ĐCSTQ nghiên cứu sự sụp đổ của Liên Xô để tránh các cạm bẫy tương tự, nhưng giải pháp của họ—kiểm soát chặt chẽ hơn—làm gia tăng sự cứng nhắc.

•  Phản ứng của ĐCSTQ với COVID-19 (chính sách zero-COVID) cho thấy sự vượt quá tập trung, với các đợt phong tỏa gây gián đoạn kinh tế và bất ổn công chúng (như biểu tình ở Thượng Hải năm 2022).

• Dikötter lên tiếng rằng việc Trung Quốc từ chối tự do hóa chính trị có thể dẫn đến sự tan rã kiểu Liên Xô nếu tăng trưởng kinh tế chững lại. Lúc đó lại thấy mấy chục nước mới ra đời như khi Liên Xô tan rã.


• Phương Tây đánh giá quá cao sức mạnh của Trung Quốc do “ảo tưởng phản chiếu,” giả định Trung Quốc có động cơ giống phương Tây, trong khi đánh giá thấp nỗi sợ hãi nội tại của nước này.


•  Sau năm 1979, các lãnh đạo phương Tây (như Nixon, Clinton) tin rằng thương mại sẽ dân chủ hóa Trung Quốc, bỏ qua các tài liệu lưu trữ ĐCSTQ cho thấy sự thù địch với tự do hóa.

• Các nhà phân tích phương Tây thường chấp nhận GDP và chi tiêu quân sự của Trung Quốc theo giá trị bề mặt, bỏ qua dữ liệu giả mạo và kém hiệu quả. Sai lầm này thúc đẩy các chính sách như hợp tác thay vì kiềm chế, có thể khuyến khích hành động hung hăng của Trung Quốc (như quân sự hóa Biển Đông).

•  Sự ngạc nhiên của phương Tây trước chiến dịch đàn áp luật sư năm 2015 của Trung Quốc (Chiến dịch 709) phản ánh sự thiếu hiểu biết về nỗi sợ của ĐCSTQ đối với xã hội dân sự.

• Dikötter gọi đây là một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất kể từ chính sách xoa dịu thập niên 1930, kêu gọi đánh giá lại khả năng và ý định của Trung Quốc.


•  Các nhà phê bình cho rằng vị thế siêu cường không đòi hỏi tự do chính trị hay hoàn hảo kinh tế. Trung Quốc có:

•  Ảnh hưởng kinh tế (quốc gia thương mại lớn nhất thế giới, 4,6 nghìn tỷ USD xuất khẩu năm 2022).

•  Thống trị khu vực (như yêu sách Biển Đông).

•  Tiến bộ công nghệ (như dẫn đầu 5G qua Huawei) thể hiện sức mạnh đáng kể.

•  Thảo luận trên Reddit (r/geopolitics, 2023) lưu ý rằng khả năng định hình thị trường toàn cầu của Trung Quốc (như khoáng sản đất hiếm) và quyền phủ quyết tại Liên Hợp Quốc đủ để coi là siêu cường, dù không phải bá quyền như Mỹ

•  Tiềm năng quân sự: Dù chưa được kiểm chứng, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc (như chiến đấu cơ tàng hình J-20, tên lửa “sát thủ tàu sân bay” DF-21D) tạo ra mối đe dọa đáng kể, theo phân tích của RAND Corporation. Xung đột Đài Loan, dù rủi ro, có thể tận dụng lợi thế gần gũi địa lý của Trung Quốc.

•  Khả năng phục hồi kinh tế: Một số nhà kinh tế (như Yukon Huang) cho rằng nợ của Trung Quốc có thể quản lý được, vì phần lớn là nội địa và do nhà nước kiểm soát. Chuyển đổi sang nền kinh tế dựa vào tiêu dùng có thể bù đắp thách thức nhân khẩu học.

•  Thiên vị của Dikötter: Các nhà phê bình như Felix Wemheuer (China Quarterly, 2014) cho rằng trọng tâm của Dikötter vào thất bại của ĐCSTQ đơn giản hóa lịch sử, bỏ qua sự ủng hộ cơ sở cho cải cách và các biến thể khu vực. Việc dựa vào giai thoại (như câu chuyện lưu trữ cá nhân) có thể làm sai lệch xu hướng lớn hơn.

Bối cảnh bổ sung từ Trung Quốc sau Mao

•  Tài liệu lưu trữ: Cuốn sách sử dụng hơn 600 tài liệu từ các kho lưu trữ cấp tỉnh và trung ương, tiết lộ:

•  Sự thực dụng tàn nhẫn của Đặng Tiểu Bình, ưu tiên ổn định hơn ý thức hệ (như phê chuẩn đàn áp Thiên An Môn).

•  Các cuộc tranh luận nội bộ ĐCSTQ về cải cách, với các phe bảo thủ chống lại chính sách thị trường nhưng thua phe của Đặng.

•  Sự kháng cự địa phương với chính sách trung ương, như nông dân giấu ngũ cốc để trốn thuế.


Lập luận của Dikötter thách thức câu chuyện về sự trỗi dậy không thể tránh khỏi của Trung Quốc, kêu gọi các nhà hoạch định chính sách tập trung vào các điểm yếu—bất ổn kinh tế, suy giảm nhân khẩu học, sự dễ vỡ chính trị—hơn là sức mạnh của nước này. Tuy nhiên, ảnh hưởng hiện tại của Trung Quốc (như 120 quốc gia giao thương với Trung Quốc nhiều hơn Mỹ) cho thấy nước này có sức mạnh giống siêu cường ở khu vực, nếu không phải toàn cầu. Cuộc tranh luận xoay quanh việc liệu điểm yếu nội tại có vượt qua được thành tựu bên ngoài hay không, một câu hỏi mà Dikötter để ngỏ nhưng nghiêng về sự hoài nghi.


Mình nghe phỏng vấn của một nhà nghiên cứu Trung Cộng, ông này gốc tàu, cho rằng nay Trung Cộng muốn nhân vụ áp thuế, đánh cho Hoa Kỳ rụng luôn. Ông ta dựa theo chữ Crisis thường mang lại chữ Cơ Hội. "危机即机遇 (wēijī jì jīyù)"


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Lùng bùng Thuế quan tại Đông NAm Á

 Lùng bùng chuyện áp thuế quan mấy bữa nay, mình bò lên mạng xem phim tài liệu thì thất kinh. Các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Mã lai, NAm Dương, Thái Lan,…đều lãnh đủ. Lý do là Trung Cộng chơi cha, muốn tránh thuế quan của Mỹ nên nhiều năm qua, họ đầu tư vào mấy xứ này, đem hàng hoá sang dán tem made in mấy xứ này, rồi chở qua Hoa Kỳ bán nên cũng nuôi sống một số công nhân địa phương. Nay mấy công ty tàu này đóng cửa nên nhân công sở tại ngọng. Thất nghiệp gia tăng.

Ngoài ra có vấn đề là các nước này không có thuế áp quan với sản phẩm Trung Cộng nên người Tàu ồ ạt đem sản phẩm qua bán rẻ khiến các công ty sản xuất của mấy xứ này đóng cửa. Mình đoán là tham nhũng nên mấy người lãnh đạo nhắm mắt để dân chết. Điển hình là ngành dệt may áo quần. Trung Cộng nay có các nhà máy mở cửa 24/24 không cần đèn đuốc gì cả, ít công nhân, đỡ tốn điện mà chạy máy tự động với AI. Do đó giá thành rẻ nên đem qua các nước Đông NAm Á khiến ngành công nghiệp của mấy nước này chết ngắc.


Mình về Đà Lạt, khi xưa Đà Lạt được xem là trung tâm sản xuất áo len của Việt Nam, đan tay hay đan máy, tạo công ăn việc cho dân Đà Lạt khá nhiều. Năm 1992, có ghé trường La san Kỹ Thuật thì thấy họ tạo dựng một hợp tác xã đan len. Mình có hỏi thêm tin tức nhưng vì cấm Vận nên xuất cảng đâu qua Nhật Bản. 


Mình có anh bạn được xem là một trong những người có lượng sản xuất áo len bán khắp Việt Nam cũng như xuất cảng qua Nhật Bản,… nay anh ta về hưu, kêu là hàng nhập của Trung Cộng quá rẻ nên giết chết ngành đan len ở Đà Lạt. Anh ta bị mất khách hàng lớn như Big C vì Trung Cộng bán rẻ quá. Anh ta bán máy móc hết và về hưu. Anh ta cho biết là có thể sống được nếu làm theo kiểu cho máy Đan áo len tuỳ theo cách lựa chọn của du khách. Chọn mẫu mã xong trong máy điện toán rồi mời khách hàng ngồi uống cà phê trong khi máy tự động đan áo len theo ý khách hàng. Nhưng anh ta thấy con lớn rồi, không cần tiền nhiều nữa nên ngưng. Đó là ngành áo len của Đà Lạt còn các ngành may mặc khác,…ở Việt Nam theo mình cùng chung một số phận. Khi mình về Việt Nam lần đầu, năm 1992, nhớ ở Sàigòn đi khắp nơi là thấy nhà nào nhà nấy có người may áo quần để xuất khẩu


qua Liên Sô. Họ gia công tại nhà tương tự ở Cali khi xưa. Có anh bạn làm đại diện cho một công ty may mặc của Việt Nam tại Hoa Kỳ nhưng nay nghe nói Trung Cộng mua rồi. Do đó để sống sót, họ chỉ biết lấy hàng Trung Cộng rồi bóc tem dán nhãn made in Việt Nam rồi gửi qua Hoa Kỳ lấy tiền cò. Nay bị áp thuế thì hết đường sống.

Họ phỏng vấn bà cựu bộ trưởng ngoại thương của Mã Lai hay Nam Dương thì họ lo sợ. Vì Hoa Kỳ đánh thuế Trung Cộng thì hàng ứ động của Trung Cộng sẽ được đem vào xứ họ như làn sóng thần, các ngành kỹ nghệ của họ đã ngáp ngáp vì Trung Cộng nay thì chỉ có chết. Có lẻ vì vậy, họ sẽ không Trung Cộng vì chết chắc. Quan thuế được sử dụng để bảo vệ hàng nội địa mà khi xưa, người Việt hay gọi đồ lô-can (local). Mà các nước này không có áp quan thuế với Trung Cộng thì chỉ có chết. Xem phỏng vấn các bộ trưởng thương mại của mấy nước này mới thấy sự lo xa của họ.


Họ đơn cử thí dụ là nghành năng lượng mặt trời. Trung Cộng đem tiền qua mở các xưởng chế tạo các panel năng lượng mặt trời, rồi chở qua Hoa Kỳ bán nhờ quota. Hơn năm nay các công ty này đóng cửa vì chính phủ BIden áp thuế đến 248%. Xin nhắc lại chính phủ Biden. Kỹ nghệ năng lượng mặt trời của Trung Cộng đã giết kỹ nghệ này tại Hoa Kỳ dù Hoa Kỳ là nước đi tiên phong, Trung Cộng ăn cắp kỹ thuật và làm rẻ hơn vì gia công rẻ. Nhớ ở dưới San Diego, có một ông Việt Nam, mua mấy tấm năng lượng mặt trời sản xuất tại Việt Nam rẻ, đem về gắn cho khách hàng lời vì lấy rẻ hơn đồ sản xuất tại Hoa Kỳ một chút. Đều do công ty tàu được thành lập tại Việt Nam. Do đó mình mới hiểu tại sao các nước đông Nam Á nhất quyết đàm phán với Hoa Kỳ vì công nghiệp của họ bị anh ba tàu chơi hết ba ga. Theo Mỹ còn sống chớ theo anh ba tàu là chết chắc.


Tại sao cả thế giới muốn bán hàng cho Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có 360 triệu người trong khi thế giới có trên 7 tỷ người. Nhưng sức tiêu thụ hàng hoá của người Mỹ là 1/3 tổng số lượng sản xuất trên thế giới. Do đó Ấn Độ dù là hội viên của BRICS, đành từ chối sử dụng tiền riêng của nhóm này để trao đổi thương mại vì không thể bỏ thị trường 33% tổng số tiêu thụ trên thế giới.


Chỉ có người Mỹ mới mua cà ri nị xem phim Ấn Độ. Nước Mỹ là nước tư bản nên họ quảng cáo từ bao nhiêu năm nay, khuyến khích người Mỹ tiêu thụ, mua những thứ mình không cần thiết lắm rồi quăng, mua cái khác chớ ở các xứ khác, mua một vật gì là xài cả đời, đâu ai mua.


Trong khi ở Trung Cộng, người Tàu họ quen từ bao nhiêu ngàn năm qua, là mua đất mua nhà, mua vàng, và hà tiện. Nay bảo họ yêu nước là mua hàng hoá không cần thiết thì ai nghe. Nhất là địa ốc hiện nay ở Trung Cộng đang banh-ta-lông. Mình về Việt Nam Tết vừa qua , đi từ Hà Nội, Sàigòn, Quy Nhơn, Đà NẴng,….đâu đâu đều thấy nhà cửa đang xây rồi bỏ mứa đó. 


Tại sao 70 quốc gia khác muốn đàm phán với Hoa Kỳ để buôn bán mà không chạy theo anh ba tàu. Lý do là GDP của người Tàu chỉ có 20% của người Mỹ thì sẽ tiêu thụ ít hàng hoá hơn. Cho thấy buôn bán ngoại thương không phải dễ như trên bàn phím. Nhìn cảnh các công nhân của Nam Dương bị sa thải vì mấy anh ba tàu chơi quá mạnh, không để cho họ có đường sống. Thậm chí Thái Lan cũng phải cấm nhập cảng sắt thép và các thứ khác của Trung Cộng để bảo vệ ngành kỹ nghệ của họ. Nói đến sắt thép mới nhớ đến toà nhà mới xây hay đang xây tại Thái Lan do công ty Trung Cộng thực hiện. Động đất ở Miến Điện xa hơn ngàn cây số mà toà nhà xụp đỗ. Lý do là người Tàu sử dụng thép số quá, gãy. Ngay chính thủ tướng của Trung Cộng còn kêu tại sao người Tàu xây nhà đậu hủ. (Tofu building)


Ông Kissinger đề ra cách người Mỹ sống vui vẻ dựa trên thế giới. Kêu thế giới sản xuất bán cho người Mỹ giá rẻ không thuế. Mỹ không bơm dầu hỏa xài nhưng mua giá rẻ của thiên hạ. Mỹ in trái phiếu trả rồi khi đáo hạn thì in tiền ra trả. Mỹ chỉ cần chế máy bay, bom đạn bán cho thiên hạ đánh nhau là đủ. Dân Mỹ sống bằng cách này từ 50 năm qua. Nay không ngờ anh tàu tiến xa nên phải chận lại, thay đổi cách chơi. Công ty Mỹ ra ngoại quốc bị đánh thuế nặng nên nay quay về cố hương sản xuất. Đừng quên là họ sẽ sử dụng AI, người máy tự động hoá để sản xuất do đó không tạo nhiều công ăn việc đâu. Ngay Trung Cộng họ cũng không cần nhân công cho nên dân tình xứ này bỏ chạy lậu qua Mỹ.


Cuộc chiến thương mại này chưa biết ai sẽ thắng. Hoa Kỳ có lợi thế là nơi tiêu thụ sản phẩm nhiều nhất của thế giới nên ai cũng muốn buôn bán cho Mỹ. Anh ba tàu sản xuất không lẻ đem qua phi châu bán. Phi châu chắc tương tự nhà mình khi xưa. Gia đình mình mỗi đứa một năm có hai bộ đồ mới. Chớ đâu như ngày nay ở Hoa Kỳ, con mình mua áo quần đầy, rồi bỏ, mình phải mặc cả phí.


Có lẻ đây là cơ hội thay đổi về địa chính trị cũng như ngoại thương, mọi thứ sẽ thay đổi. Nước nào khôn thì sẽ tìm ra con đường canh tân đất nước. Để anh 3 tàu vào nước mình đầu tư thì họ sẽ giết kỹ nghệ của nước mình. Mà nếu không bán cho Mỹ thì bán cho ai? Phương châm Á đông là tiết kiệm, mua đất mua nhà mà nay Trung Cộng thị trường địa ốc đang banh ta lông. Có thể qua vụ này, người Mỹ bắt đầu tiết kiệm vì vật giá lên cao nên họ bớt tiều xài như thế hệ trước. Trước đây, ăn ngoài rẻ hơn là nấu ở nhà, nay thì người Mỹ bắt đầu ăn uống tại nhà. Hôm qua, mình đi mua thức ăn cho thợ. Hỏi ông chủ tiệm, ông ta kêu ít thực khách hơn xưa.


Giả sử thuế áp quan đủ chi trả ngân sách quốc gia hàng năm, vậy người Mỹ không phải đóng thuế lợi tức nhưng mua sắm giá sẽ cao hơn nên chắc họ sẽ để dành tiền, đầu tư cho quỹ hưu trí của họ. Trong thời đại AI, sẽ có một số đông người Mỹ, không có khả năng tiếp cận với kỹ thuật mới, sẽ không có việc làm, biến họ thành một giai cấp vô dụng, không có năng lực sản xuất, lao động. Vấn đề là phải làm gì với họ. Kêu họ chích ngừa rồi bỏ gì đó bên trong khiến họ chết sớm. Xong om.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Chuyện đời xưa đến nay chấm dứt

 Hôm nay hai cha con nói chuyện về vụ áp thuế của chính phủ Hoa Kỳ. Thằng con nói sẽ gây suy thoái như năm 1929. Mình buồn cười nên giải thích là Hoa Kỳ sử dụng thuế quan vào năm 1930 vì thuế quan được ban hành trước đó nhưng chỉ hiệu lực và áp dụng vào năm 1930 nên báo chí không thẳng thắn khi gói ghém cho việc này. 

 Mình giải thích sau thế chiến thứ 2, Hoa Kỳ chơi cha thiên hạ. Bao nhiêu binh sĩ chết tại Âu châu và á châu để chiến thắng quân trục đức, Ý và Nhật Bản nên họ ra chiêu chơi cha thiên hạ. Để lấy vốn lại như cuộc chiến ở Ukraine.

Thứ nhất, họ họp các đồng minh tại Hội nghị Bretton Woods, chính thức được gọi là Hội nghị Tiền tệ và Tài chính Liên Hợp Quốc, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 22 tháng 7 năm 1944 tại Bretton Woods, New Hampshire. Hoa Kỳ cho mọi người tham dự ăn uống no nê nhất là uống rượu mạnh thả dàn. Mình có kể vụ này rồi. Hội nghị quy tụ 730 đại biểu từ 44 quốc gia Đồng minh nhằm thiết lập một trật tự tiền tệ và tài chính quốc tế mới sau Thế chiến II. Mục tiêu là ngăn chặn sự hỗn loạn kinh tế như trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến, đặc trưng bởi các cuộc cạnh tranh phá giá tiền tệ, chiến tranh thương mại và cuộc Đại Suy thoái, đồng thời thúc đẩy sự ổn định và hợp tác kinh tế toàn cầu. Sau đệ nhất thế chiến, các nước chiến bại, phải đền bù chiến tranh trong khi kinh tế họ te tua đã đưa đến sự hận thù khiến Đức quốc Xã ra đời đưa đến chiến tranh thế giới thứ 2. 


Kết quả chính là sự ra đời của hệ thống Bretton Woods, trong đó các đồng tiền được neo vào đồng đô la Mỹ, và đồng đô la được neo vào vàng với tỷ giá cố định 35 USD/ounce. Điều này biến đồng đô la thành đồng tiền dự trữ của thế giới, phản ánh sự thống trị kinh tế của Mỹ sau chiến tranh. Các quốc gia đồng ý duy trì tỷ giá hối đoái trong khoảng 1% so với mức neo này, chỉ được điều chỉnh trong trường hợp “mất cân đối căn bản” và phải được sự chấp thuận từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) mới thành lập. IMF được thiết lập để cung cấp các khoản vay ngắn hạn cho các quốc gia gặp vấn đề về cán cân thanh toán, đảm bảo họ có thể ổn định đồng tiền mà không phải dùng đến các biện pháp cực đoan như phá giá. Thật ra IMF và Ngân Hàng Thế giới được thành lập để kiểm soát các nước trên thế giới. Mình có kể vụ này rồi. Cùng với đó, Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển (IBRD), sau này là một phần của Ngân hàng Thế giới, được thành lập để tài trợ tái thiết và phát triển sau chiến tranh.


Hội nghị, do các nhân vật như Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry Morgenthau Jr., nhà kinh tế học John Maynard Keynes (đại diện Anh), và Harry Dexter White (Mỹ) dẫn dắt, là một sự thỏa hiệp giữa các quan điểm đối lập. Keynes đề xuất một đồng tiền toàn cầu gọi là “Bancor” và một liên minh thanh toán bù trừ để cân bằng thặng dư và thâm hụt thương mại, nhưng Mỹ, với sức mạnh đàm phán lớn hơn, đã thúc đẩy một hệ thống tập trung vào đồng đô la. Liên Xô tham dự nhưng không phê chuẩn các thỏa thuận, báo hiệu căng thẳng đầu tiên của Chiến tranh Lạnh.


Hệ thống này ban đầu hoạt động tốt, hỗ trợ phục hồi sau chiến tranh qua chương trình Marshall và tăng trưởng thương mại, nhưng đã sụp đổ vào cuối những năm 1960. Thâm hụt ngày càng tăng của Mỹ, do chi tiêu cho chiến tranh Việt Nam và các chương trình Xã hội Vĩ đại (Great Society) do tổng thống Johnson đưa ra, dẫn đến lượng đô la dư thừa ở nước ngoài, làm suy yếu niềm tin vào mức neo vàng. Có lẻ vì vậy họ ám sát ứng cử viên tổng thống Robert Kennedy vì sợ các chương trình xã hội của Dân Chủ sẽ tiếp tục làm thâm thủng ngân sách nữa. Đến năm 1971, các chính phủ ngoại quốc nắm giữ nhiều đô la hơn lượng vàng mà Mỹ có để bảo chứng, khiến Nixon tạm dừng việc chuyển đổi đô la sang vàng, thực chất chấm dứt Bretton Woods trong sự kiện được gọi là “Cú sốc Nixon.” Thế giới sau đó chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. 

Henry Kissinger, trong thời gian làm Cố vấn An ninh Quốc gia và sau đó là Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Nixon và Ford, nổi tiếng với cách tiếp cận chiến lược đối với các vấn đề phức tạp, thường yêu cầu nhân viên đưa ra lời ngắn gọn, khả thi. Mỹ bắt đầu ghi nhận thâm hụt thương mại vào những năm cuối 1960 và đầu 1970, thời kỳ mà Kissinger có ảnh hưởng lớn đến chính sách đối ngoại và kinh tế. Nếu xét về Việt Nam thì mình ghét hay thù ông này nhưng đứng trên quan điểm của người Mỹ thì mình thấy ông này có tài, xứng đáng là Metternich của thế kỷ 20. Mình đọc gần như các sách do ông ta viết.


Đến năm 1971, cán cân thương mại trở nên âm, và thâm hụt ngân sách liên bang cũng là mối lo ngại ngày càng tăng, trầm trọng hơn do chi tiêu cho chiến tranh Việt Nam và các chương trình trong nước. Dạo ấy ông ta là cố vấn an ninh quốc gia cho ông Nixon nên có xét về việc thâm thủng ngân sách nên có hỏi các cộng sự viên của ông ta, nặn óc viết nữa trang, cho biết cần phải làm gì, có biện pháp nào. Ông này cứ bắt cộng sự viên viết lại hoài trước khi ông ta đọc. Các cộng sự viên đều viết phải kết hợp các ý tưởng thực tiễn và chiến lược: tinh giản chi tiêu quân sự (yếu tố lớn gây thâm hụt lúc bấy giờ), thúc đẩy xuất khẩu qua các thỏa thuận thương mại, và dùng ngoại giao để duy trì giá năng lượng ưu đãi (ví dụ, sau khủng hoảng dầu mỏ 1973). Đó là một trong những cách mà ông ta muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam, rút quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam càng nhanh càng tốt và thương lượng bán MacDonald và coca cho Trung Cộng. Chỉ có một cận sự viên khác thường, kêu nhân gấp 3 thâm thủng ngân sách quốc gia và yêu sách được thực thi trong suốt 50 năm vừa qua, đến thời ông Trump thì thấy quá đà nên ngưng, bắt buộc thuế quan lại.


Cách tiếp cận của Kissinger với những thách thức kinh tế như vậy không tập trung vào các biện pháp tài chính trực tiếp, như tăng thuế hoặc cắt giảm chi tiêu mà nghiêng về việc tận dụng chiến lược địa chính trị để củng cố nền kinh tế Mỹ. Ví dụ, năm 1971, ông ủng hộ quyết định của Nixon chấm dứt hệ thống Bretton Woods, tạm dừng việc chuyển đổi đồng đô la sang vàng. Nên nhắc lại 1 ounce vàng dạo ấy là $35 mà nay là $3,800. Cho thấy lạm phát như điên hơn cả 100 lần. Động thái này, thuộc “Cú sốc Nixon,” nhằm giải quyết thâm hụt thương mại bằng cách phá giá đồng đô la, khiến hàng xuất khẩu Mỹ rẻ hơn và hàng nhập khẩu đắt hơn. Đó không phải là cách “khắc phục” thâm hụt truyền thống mà là sự điều chỉnh vị thế kinh tế toàn cầu của Mỹ. 


Kissinger xem sức mạnh kinh tế gắn liền với ảnh hưởng ngoại giao, nổi bật là việc mở cửa với Trung Quốc năm 1972 để đối trọng với Liên Xô và tạo cơ hội thương mại mới, gián tiếp giảm áp lực kinh tế.


Thay vì đánh thuế các hàng nhập cảng, chính phủ Mỹ giảm thấp xuống khiến người Mỹ mua đồ ngoại quốc rẻ. Họ in tiền để trả. Mỹ kim là dòng tiền tệ được sử dụng để buôn bán trên thế giới tự do. Người Nhật hay người Tàu, Nai lưng ra, thức đêm để tăng ca, sản xuất bán đồ cho người Mỹ, thay vì đem tiền về xứ họ sẽ bị lạm phát nên họ mua trái phiếu của chính phủ Mỹ rồi khi nào đến hạn thì FED cứ in tiền ra cho chính phủ Mỹ mượn. Càng in tiền thì càng gây nên lạm phát. Mấy tên tư bản mới đột phá tư duy đem các nhà máy sản xuất qua các xứ nghèo, để không bị kiện tụng về phá hoại, Ô nhiễm môi trường lại rẻ, đóng thuế ít thế là họ ủng hộ ông Clinton lên tổng thống để khởi đầu cuộc toàn cầu hoá, biến các người dân trên thế giới làm trong các nhà máy, sản xuất sản phẩm để cho người Mỹ dùng. Các nhà máy sản xuất công ty đóng cửa khiến người Mỹ lao động mất việc, nợ chồng chất nhiều đem đến nhiều vấn đề xã hội như ma tuý, thuốc đau nhức hay an thần,…


Khi họ nói đến thuế quan, kêu gào các quốc gia đánh thuế sản phẩm làm tại Hoa Kỳ nhưng ít ai nhắc đến vụ Mỹ kim là tiền tệ phải được sử dụng khi xuất hay nhập cảng trên toàn thế giới và Mỹ bán trái phiếu để trả nợ. Vấn đề ngày nay, Hoa Kỳ nợ quá nhiều nên thay đổi chiến lược. Đánh thuế nhập cảng khiến các tư bản rút về Hoa Kỳ để xây nhà máy sản xuất, các nước khác cũng phải nhảy vào Hoa Kỳ đầu tư vì thuế sẽ từ 21% xuống 15%. Rất ít so với thế giới trung bình độ 31%. Các công ty Mỹ trở về lại Hoa Kỳ để sản xuất. Nhưng giới lao động không nên tin vào có công ăn việc làm. Lý do là họ sẽ người-máy-hoá trong chuỗi sản xuất. Dân lái Uber sẽ bị thay thế bởi taxi không người lái. Thợ làm xây cất, sẽ được người máy thay thế. Họ mới chế một người máy đầu bếp giá $5000, sau này sẽ có ô sin làm hết việc mình không thích. 


Nhưng có lẻ quan trọng nhất là dữ liệu vì trong cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo. Ta thấy chính phủ Mỹ muốn cấm Tik-Tok của người Tàu vì họ có đến 170 triệu người sử dụng nhất là giới trẻ, tương lai sẽ được mua nhiều. Nếu bán Tik-Tok cho người Mỹ thì sẽ được tiếp tục sử dụng còn không thì sẽ bị cấm tại Hoa Kỳ. Xem bài tại sao đốt Tesla.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn