Hiển thị các bài đăng có nhãn Người thân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người thân. Hiển thị tất cả bài đăng

Cầu Cũ Ponte Vecchio

Daọ này bổng nhiên thích đọc tài liệu về kiến trúc. Khi xưa học để thi. Thi xong thì trả lại cho thầy hết. Nay mình tham gia các nhóm bên Ý Đại Lợi và pháp để xem họ nói về các đi tích lịch sử của Âu châu. Có điểm lạ là những nơi mình đã đến và vẽ thì khi xem hình là nhận ra ngay còn không thì như bò đội nón. 

  Hôm qua xem trên Nhóm người bạn Ý Đại Lợi thấy tấm ảnh của chiếc cầu cũ của thành phố Firenze mà mình đã có lần vẽ nhiều ngày tại đây nên ghi lại đây vài chi tiết để ai có dịp viếng thăm dễ cảm nhận cái vẻ đẹp của nó. Tấm ảnh năm 1944, cho biết là quân đội đức rút lui, tính tới tính lui không giật xập chiếc cầu này nhằm làm chậm sự di chuyển của quân đội Mỹ. Còn tấm ảnh năm 2025, xem như 80 năm sau.

 Lần trước về Firenze với đồng chí gái thì thấy một cặp vợ chồng nam Hàn mới cưới đến đây chụp hình bận áo cưới với phó nhòm chuyên nghiệp. Cho thấy dân Á châu phải đến đây để chụp hình cưới. Đồng chí gái và mình chụp cưới ở Huntington Beach là thấy khá tốn tiền rồi. Đây họ bay tới Ý Đại Lợi để chụp ảnh cưới, hy vọng họ sống đến bạc đầu vì một ngày cưới vợ, một đời trả nợ mà bỏ nhau giữa đường thì ai trả nợ.

Tết vừa rồi về Hội An thì thất kinh vì Chùa Cầu ở đây được tô son điểm phấn lại trong cuộc trùng tu vừa qua. Chỉ biết lắc đầu. 

Mình nghĩ khi quân Đức quốc xã rút lui không làm xập chiếc cầu này vì xe cộ khó đi chuyển vì có nhiều hàng quán nếu không thì đã banh ta lông


Ponte Vecchio (“Cầu Cũ”) ở Florence, Ý, là một trong những cây cầu mang tính biểu tượng và lịch sử nhất trên thế giới, bắc qua sông Arno tại điểm hẹp nhất. Ai đến Firenze thì chịu khó leo lên cái đồi đối diện thành phố, nhìn xuống con sông này và toàn thành phố. Rất đẹp. Mình có ngồi đây vẽ mấy ngày. Kiến trúc của nó là sự kết hợp tuyệt vời giữa kỹ thuật thời Trung cổ, sáng tạo thẩm mỹ và thiết kế đô thị thực tiễn. Được xây dựng vào năm 1345, đây là một trong những ví dụ sớm nhất về cầu vòm phân đoạn bằng đá, thể hiện các kỹ thuật kết cấu mới vào thời điểm đó. Thường chúng ta thấy các cầu được xây vòm nữa vòng tròn, từ thời la-mã, đây bán nguyệt nhưng ngắn. Cho nên sử dụng vòm phân đoạn kéo dài ra, giúp tránh tai nạn khi tàu chạy ngang nhất là khi nước chảy xiết.


“Cầu Cũ” là nghĩa đen của Ponte Vecchio theo tiếng Ý Đại Lợi. Khi viếng Firenze lầu đầu tiên, mình đến đây vẽ. Nghe Ponte Vecchio rất lạ tai như “Cầu Mới” (pont neuf) ở Paris nhưng khi mình nghĩ theo tiếng Ý hay tiếng Pháp thì thấy xoàng quá. Hay có thể gọi “Cổ Kiều” (ponte vecchio) hoặc Tân Kiều (pont neuf ) nghe có vẻ tàu tàu 1 chút. :)

Mình có ngồi chỗ này vẽ mấy tấm tranh. Bán hết

Vào thế kỷ 14, việc xây cầu ở châu Âu đang chuyển từ các cấu trúc gỗ sang các công trình đá bền vững hơn. Lũ lụt thường xuyên của sông Arno đòi hỏi một thiết kế chắc chắn để thay thế các cây cầu trước đó bị phá hủy vào các năm 1117 và 1333.

Cầu được cho là do Taddeo Gaddi, học trò của Giotto, thiết kế, mặc dù một số nguồn cho biết Neri di Fioravante có thể là kiến trúc sư. Thời đó, kiến trúc sư, kiêm luôn hoạ sĩ, điêu khắc gia, không phân biệt như ngày nay. Kiểu nhạc sĩ phải biết hát, đánh đàn, viết nhạc,..

Cận cảnh của cầu, dính tòn teng mấy căn nhà ở được xây cao đến 3 tầng trên chiếc cầu. Giữa cầu có một quảng trường nhỏ, rất dễ thương. Nếu hên thì du khách sẽ thấy mấy nghệ nhân chơi nhạc ở đây hay vẽ hí hoạ cho du khách. Khi xưa, khi mấy người ở trên cầu đi vệ sinh chắc như cá tra ở Việt Nam. Nay thì chắc họ làm ống cống kéo vào trong bờ.

Các đặc điểm kiến trúc chính

Vòm phân đoạn:

 Ponte Vecchio có ba vòm phân đoạn, một sự khác biệt lớn so với các vòm bán nguyệt kiểu La Mã phổ biến trong các cây cầu Trung cổ trước đó. Vòm phân đoạn có đường cong phẳng hơn, cho phép nhịp rộng hơn và chiều cao thấp hơn, giảm sử dụng vật liệu và tăng cường độ ổn định trước dòng sông.

Vòm trung tâm có nhịp khoảng 30 mét (98 feet), trong khi hai vòm bên mỗi nhịp khoảng 27 mét (89 feet). Hồ sơ thấp của các vòm tạo nên hình dáng thanh thoát đặc trưng của cầu và giảm thiểu cản trở dòng chảy sông, giảm thiệt hại do lũ lụt.

Việc sử dụng vòm phân đoạn là một bước tiến tiên phong vào thời điểm đó và đã ảnh hưởng đến các thiết kế cầu sau này trên khắp châu Âu. Thiết kế này phân bổ trọng lượng hiệu quả hơn, cho phép cầu chịu được tải trọng lớn từ các cửa hàng và người đi bộ.

Cầu được xây chủ yếu bằng pietra forte, một loại đá sa thạch chắc chắn được khai thác từ các ngọn đồi quanh Florence. Vật liệu này được chọn vì độ bền và khả năng chống chịu thời tiết, rất quan trọng để chịu đựng các trận lũ của sông Arno. Thật ra thì có đá nào tại địa phương thì dùng chớ dạo ấy đâu ai có máy để đo tính như ngày nay.

Công trình đá được đặc trưng bởi các khối đá thô, được đẽo gọt thô sơ, điển hình của kiến trúc Trung cổ Florence. Các vòm được chống bởi các trụ cầu dày với các mũi cắt nước hình tam giác (phần nhọn) giúp giảm sức cản của nước và bảo vệ khỏi mảnh vỡ trong lũ. Một mặt để tàu không ủi nhầm vào đây, nếu đụng thì sẽ bị lệch qua một bên.


Một đặc điểm nổi bật của Ponte Vecchio, tương tự cầu Rialto ở Venezia là hàng cửa hàng được xây trực tiếp trên cầu, nhô ra hai bên sông. Đây là giải pháp thực tiễn để tối đa hóa không gian đô thị trong Florence thời Trung cổ đông đúc. Các cửa hàng được chống bởi các dầm gỗ và giá đỡ, tạo hiệu ứng nhô ra. Thí dụ: cầu Ông Đạo Đà Lạt, biến thành chỗ đi bộ. Người Đà Lạt có thể xây các cửa hàng trên cầu, để che dấu toà thị chính, cực xấu mới được xây bằng kính to đùng ở đường hÙng Vương khi xưa.

Ban đầu, các cửa hàng có thiết kế đồng nhất, với mặt tiền mở hướng ra lối đi trung tâm. Theo thời gian, các sửa đổi đã dẫn đến vẻ ngoài hiện nay hơi không đều, mang tính chất đẹp như tranh vẽ, với một số cửa hàng nhô xa hơn ra sông.

Phần trung tâm của cầu mở ra thành một “quảng trường” ngoài trời nhỏ, nơi các hàng cửa hàng bị gián đoạn, mang lại tầm nhìn toàn cảnh sông Arno. Không gian này tăng cường sức hấp dẫn thẩm mỹ và chức năng của cầu như một điểm tụ họp công cộng.

Mấy cửa sổ của mấy tiệm trên cầu. Thấy mũi nhọn bằng đá của chân móng để tránh tàu đụng vào móng, sẽ lệch qua một bên. Họ dùng các thanh gỗ tốt và chắc để làm corbeaux để chống đỡ sàn của mấy căn phố nhô ra ngoài cầu.

Hành lang Vasari (1565):

Được thiết kế bởi Giorgio Vasari cho Cosimo I de’ Medici, Hành lang Vasari là một lối đi kín, nâng cao chạy dọc theo phía đông của cầu, phía trên các cửa hàng. Nó kết nối Phòng triển lãm Uffizi với Palazzo Pitti, cho phép gia đình Medici di chuyển riêng tư qua thành phố. Xin nhắc là dòng họ Medici từng làm bá quyền ở vùng Toscana này, một trong những gia đình giúp dẫy lên nền Phục Hưng của Ý Đại Lợi. Ở La-Mã thì dòng họ Borghese (Bourgeois) từ đó người Pháp dùng từ này để nói đến những giai cấp quý phái.

Hành lang được chống giữ bởi các giá đỡ đá và tích hợp liền mạch với cấu trúc Trung cổ của cầu. Các cửa sổ hình chữ nhật nhỏ cung cấp ánh sáng đồng thời duy trì sự riêng tư. Việc bổ sung hành lang làm thay đổi nhẹ sự đối xứng của cầu nhưng tăng cường ý nghĩa lịch sử và kiến trúc của nó qua năm tháng.

Được xây dựng chỉ trong năm tháng, hành lang thể hiện hiệu quả và độ chính xác kỹ thuật thời Phục hưng, tương phản với thẩm mỹ Trung cổ thô ráp hơn của cầu.

Thật ra chỉ có tàu nhỏ hay phà đi ngang thôi; thoạt đầu chỉ có dãy nhà cao với 3 cái vòm được xây nhưng từ từ, dân tình nới thêm tuỳ theo nhu cầu, điều kiện sinh sống nên ngày nay có hình thức bề ngoại khá ấn tượng. Nhưng xét về kiến trúc thì Chán Mớ Đời 

 Hai trụ cầu lớn của các vòm được nhúng sâu vào lòng sông, giúp ổn định trước dòng chảy mạnh của Arno khi mùa Xuân, tuyết tan chảy về. Các mũi cắt nước hình tam giác của trụ được thiết kế để làm lệch hướng nước và mảnh vỡ, một đặc điểm thực tiễn đã giúp cầu sống sót qua nhiều thế kỷ lũ lụt.

Kỹ thuật móng chính xác không được ghi chép đầy đủ, nhưng có khả năng liên quan đến các cọc gỗ đóng vào lòng sông, một phương pháp phổ biến thời Trung cổ ở các môi trường ngập nước như Florence. Mình có kể về thành phố trên biển venezia tương tự họ đóng cọc xuống dưới nước sâu và trét bùn để tạo nền móng cho các dãy nhà bên trên.


Kiến trúc của Ponte Vecchio vừa thực dụng vừa nổi bật về mặt thị giác. Các vòm thấp, uốn lượn tạo ra một khung cảnh hài hòa, hòa quyện với các đường cong tự nhiên của sông Arno. Mình không nhớ bên bồi bên lở của dòng sông vì khi xưa không để ý lắm. Chỉ sau này đi chơi mấy dòng sông mới để ý đến mấy điều kiện này để hiểu thêm về sự phát triển của các thành phố Âu châu. Công trình đá thô ráp và các mặt tiền cửa hàng không đều mang lại nét đặc trưng Trung cổ, trong khi Hành lang Vasari bổ sung sự tinh tế thời Phục hưng.


 Cầu được thiết kế như một cấu trúc đa chức năng, vừa là lối qua sông, trung tâm thương mại, và sau này là lối đi riêng cho gia đình Medici. Việc tích hợp các cửa hàng tối đa hóa việc sử dụng không gian kinh tế, trong khi phần trung tâm mở rộng hỗ trợ giao thông người đi bộ và tương tác xã hội. Cứ tưởng tượng chiếc cầu hình chữ K của chợ Đà Lạt, nếu họ cho làm nhưng cửa hàng thì có lể sống động hơn. Nhất ngày nay họ dành phố đi bộ vào cuối tuần.

Trên cầu nay thì du khách khá đông. 45 năm về trước khi mình viếng thăm lần đầu thì ít du khách nay thì người đi như cá mòi Sumaco.

Các vòm phân đoạn và trụ cầu đã giúp Ponte Vecchio chịu đựng nhiều trận lũ, bao gồm trận lũ thảm khốc ở Florence năm 1966, gây thiệt hại nhưng không phá hủy cầu. Sự nhìn xa kỹ thuật của nó được thể hiện qua tuổi thọ lâu dài. Theo thời gian phù sa được cuốn về giúp chân cầu chắc thêm. Không có cát tặc nên vẫn tồn tại đến ngày nay.

Thiết kế vòm phân đoạn của Ponte Vecchio đã ảnh hưởng đến các cây cầu sau này ở châu Âu, chẳng hạn như Ponte Santa Trinita ở Florence (xây dựng năm 1567–1569), đã tinh chỉnh thêm khái niệm này.


Qua nhiều thế kỷ, cầu đã trải qua các sửa chữa, trùng tu đặc biệt là sau các trận lũ. Trận lũ năm 1966 đã thúc đẩy việc phục hồi lớn cho các cửa hàng và lan can, nhưng cấu trúc cốt lõi vẫn nguyên vẹn. Nếu đến đây, các bờ tường bên sông đều làm bằng đá để phòng ngập lụt.

Là một phần của Di sản Thế giới UNESCO tại trung tâm lịch sử Florence, Ponte Vecchio được duy trì cẩn thận. Các nỗ lực tập trung vào việc bảo tồn nét đặc trưng Trung cổ của nó đồng thời giải quyết sự hao mòn từ du lịch và các yếu tố môi trường. Việc gắn “khóa tình yêu” lên lan can đã bị hạn chế để tránh hư hại kết cấu.

Toàn tiệm đắt tiền không


Kiến trúc của Ponte Vecchio là minh chứng cho sự khéo léo thời Trung cổ, kết hợp kỹ thuật thực tiễn với chức năng đô thị. Các vòm phân đoạn của nó là một sáng tạo táo bạo, và sự tích hợp giữa không gian thương mại và không gian dành cho giới tinh hoa phản ánh lịch sử xã hội năng động của Florence. Cầu vẫn là một kiệt tác của kỹ thuật dân dụng thời Trung cổ, được ngưỡng mộ vì cả sự bền bỉ về kết cấu lẫn vẻ đẹp như tranh vẽ. Lần chót về đây, đồng chí gái cứ bắt chụp hình nụ cười toả nắng và để cô nàng đi xem quần áo, thêm du khách đông như quân Nguyên nên mất vẻ đẹp mà mình nhận thấy cách đây 45 năm về trước. Chúc các bác cuối tuần vui vẻ bên người thân.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Sinh nhật thứ 136 của tháp Eiffel

  

Ngày này 136 năm về trước, tháp Eiffel vừa được hoàn thành và ngày nay trở thành biểu tượng của Pháp quốc, có trên 7 triệu du khách viếng thăm mỗi năm. Ngày thứ 2 đến Paris, là mình chạy ra đây xem cái tháp này, rồi đi bộ lên vườn Lục Xâm Bảo. Sau này thì đến đây vẽ rất nhiều lần.

Vấn đề là người Pháp mới đầu thù ghét toà tháp, họ gọi tân đại, nhục nhã và quá Mỹ (trop Americain). Tương tự như trung tâm văn hoá Pompidou do 2 kiến trúc sư Enzo Piano và Richards Rogers và viện bảo tàng Louvres do kiến trúc sư I.M. Pei thiết kế, công ty này mình có thời gian làm việc tại New York trước khi dọn qua Cali. Mình nhớ hồi mới sang Paris, thì trung tâm văn hoá Pompidou mới khánh thành, thiên hạ bàn tán nhất là khi biết mình là sinh viên kiến trúc nên hơi mệt để trả lời. Tây đầm kêu « c’est honteux ».

Tòa tháp này khởi công vào năm 1887, và hoàn tất 2 năm sau, vào ngày 31 tháng 3 năm 1889. Đây là một công trình chưa từng có và là một thách thức đối với kỹ thuật không giống bất kỳ công trình nào trước đây. Tấm ảnh trên là bức hoạ đầu tiên của ông Maurice Koechlin năm 1884. 

Khi hoàn thành, công trình cao 300 mét và ngay lập tức trở thành tòa nhà cao nhất thế giới. Không có công trình nào trong lịch sử cao hơn 200 mét, chứ đừng nói đến 300 mét, và kỷ lục của Tháp Eiffel không bị phá vỡ cho đến khi Tòa nhà Chrysler hoàn thành vào năm 1930 tại New York.


Tháp Eiffel vẫn thống trị chân trời của Paris gần một thế kỷ rưỡi sau đó. Công ty xây dựng tòa tháp này do ông Gustave Eiffel điều hành.

Nhưng chính hai kỹ sư tại công ty của ông, Maurice Koechlin và Émile Nouguier, là những người lập kế hoạch đầu tiên. Một kỹ sư khác tên là Stephen Sauvestre đã tinh chỉnh thiết kế của họ và thêm các mái vòm trang trí. Khi các kế hoạch được công bố, nó đã gây ra sự phấn khích... và sốc.

Trong suốt quá trình xây dựng, Eiffel  biểu tượng của dự án đã bị chế giễu và chỉ trích trên báo chí. Tây đầm là vua chê, chỉ trích bú xua la mua.


Đây là những gì một nhóm nghệ sĩ người Pháp nổi tiếng đã nói trong một chuyên luận chung về tòa tháp: Những lời phàn nàn như vậy nghe có vẻ lạ, bởi vì Tháp Eiffel không hề kém phần Paris so với Khải Hoàn Môn, Nhà thờ Đức Bà hay Bảo tàng Louvre. Mình nhớ khi công ty kiến trúc I.M.Pei & Partners thắng giải này thì tổng thống François Mitterand nói với ông Pei là ông sẽ không là một Bernini thứ hai. Kiến trúc sư vẽ tòa thánh Vatican, được mời sang Pháp để thiết kế xong bị từ chối vì kiến trúc sư Pháp ganh tị.

Vì vậy, đây là lời nhắc nhở quan trọng rằng mọi thứ hiện nay vốn cũ kỹ và truyền thống đã từng hiện đại đến kinh ngạc. Khi ý tưởng nào mới đi trước thời đại, cần có thời gian để người ta chấp nhận và sau đó ca ngợi. 

Trong bức ảnh này, tòa tháp chỉ mới 25 tuổi. Daọ ấy người ta chuyên chở vật liệu bằng phà nên các kiến trúc dinh thự lớn đều nằm dọc bờ sông để dễ thực hiện. Nếu người Pháp phá bỏ thì không có tấm ảnh này.


Kỹ nghệ hóa nhanh chóng, dân số tăng, đô thị hóa và phát triển công nghệ đã đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với kiến ​​trúc thế kỷ 19. Liệu đây một tòa tháp bằng sắt, ​​có phải là giải pháp không? Tháp Eiffel đại diện cho sự kết hợp giữa kiến ​​trúc và kỹ thuật, một sự kết hợp vẫn tiếp tục cho đến thế kỷ 21. Sự hợp tác kỹ sư và kiến trúc sư rất quan trọng cho công trình. Kiến trúc sư thiết kế xong mà gặp kỹ sư không giỏi nhất là không có đầu óc khai phá thì không thực hiện được công trình. Khi mình làm việc ở lUân Đôn cho công ty kiến trúc sư Norman Foster thì ông ta dùng công ty kỹ sư Ove Arup rất giỏi để tính toán giúp thêm ý kiến để vẽ thêm cho đẹp. Như sử dụng cấu trúc cho các tấm kính to đùng. 

Nó cho thấy tiềm năng to lớn của các vật liệu và phương pháp hiện đại để tạo ra những công trình trước đây không thể nghĩ tới... và những công trình cũng có thể đẹp.

Triển lãm Thế giới là gì? Đó là "Hội chợ Thế giới". Hình như Việt Nam mình gọi là Đấu Xảo. Đây là (và vẫn là) những cuộc triển lãm lớn được tổ chức vài năm một lần tại một thành phố khác nhau. Năm đi Dubai thì mình hụt xem cuộc đấu xảo ở đây vì mở cửa sau khi mình về. 


Tương tự như Thế vận hội dành cho những thành tựu quốc gia, những khám phá công nghệ và kiến ​​trúc hơn là thể thao. Hai vụ này nhằm để biểu dương sức mạnh của quốc gia tổ chức.

Cuộc triển lãm đầu tiên diễn ra tại Prague vào năm 1791, nhưng hội chợ thế giới thực sự mang tính quốc tế đầu tiên diễn ra tại London vào năm 1851. Nó đã tạo ra xu hướng xây dựng các tòa nhà triển lãm đặc biệt, trong trường hợp này là Cung điện Pha lê, để trưng bày kỹ năng của các kỹ sư thời Victoria. Mình thấy kỹ sư Anh quốc rất giỏi thích làm việc với họ hơn mấy ông Tây.


Những cuộc triển lãm đầu tiên này (như các hội chợ thế giới được gọi) tập trung vào những thành tựu của ngành công nghiệp và kỹ thuật, xét cho cùng, thế kỷ 19 là thế kỷ phát triển công nghệ nhanh chóng.

Mỗi quốc gia đều tìm cách trưng bày những gì họ đã đạt được trong một cuộc thi liên lục địa. Các công nghệ mới đã ra mắt và hàng triệu người đã tham dự, bao gồm các nhà báo, nhà khoa học, khách du lịch và các chức sắc.

Họ đã thấy mọi thứ từ tàu hỏa và điện thoại cho đến những điều kỳ lạ như con dao và nĩa lớn nhất thế giới, được tạo ra cho Triển lãm Centennial Expo năm 1876 tại Philadelphia.

Thế giới tràn ngập những di tích còn sót lại từ các cuộc triển lãm này, với những tòa nhà đẹp và khác thường được xây dựng chỉ để chào đón khách và tạo nên không khí. Giống như Khải Hoàn Môn của Barcelona, ​​được xây dựng cho Hội chợ Thế giới năm 1883:

Tuy nhiên, những tòa nhà này thường không tồn tại được, chúng chủ yếu được xây dựng tạm thời. Trong số các Triển lãm Centennial ở Philadelphia, chỉ có bốn tòa nhà còn tồn tại; phần còn lại đã bị tháo dỡ.

Giống như Tháp Eiffel, được dự tính sẽ  bị phá bỏ vào năm 1909! Tuy nhiên, các cuộc triển lãm này không chỉ dành cho quốc gia đăng cai — các quốc gia khác cũng được mời.

37 quốc gia đã tham gia Triển lãm Centennial ở Philadelphia và trong bức ảnh này từ Triển lãm Vienna năm 1873, có thể thấy Gian hàng Nhật Bản bên cạnh Gian hàng Ottoman. Và vì vậy, các cuộc triển lãm này cũng trở thành cơ hội cho các cuộc triển lãm về kiến ​​trúc cũng như công nghiệp.

Hội chợ Thế giới năm 1925 tại Paris là nơi khai sinh ra trường phái Art Deco, khi các kiến ​​trúc sư từ khắp nơi trên thế giới trình làng những phong cách hiện đại và xu hướng thiết kế nội thất mới nhất:

Cũng giống như London đã trưng bày Cung điện Pha lê vào năm 1851, người Pháp đã tìm cách thể hiện sức mạnh công nghiệp của riêng họ vào năm 1889. Nó được xây dựng trong bầu không khí cạnh tranh, do đó có quy mô và tham vọng lớn.


Vậy... Tháp Eiffel có vô nghĩa không? Khi tốn tiền dân tình để xây cất những toà nhà tạm thời để rồi dỡ bỏ sau khi cuộc triển lãm bế mạc.

Nó được xây dựng không vì lý do nào khác ngoài việc trở thành trung tâm của một cuộc triển lãm kéo dài sáu tháng và quảng cáo cho kỹ thuật của Pháp.


Tuy nhiên, không ai có thể dự đoán được danh tiếng trong tương lai của tòa tháp làm bằng sắt này. Mãi đến năm 1967, đã có một kế hoạch tháo dỡ Tháp Eiffel, vận chuyển đến Montreal để tham gia Triển lãm Thế giới và lắp ráp lại để triển lãm tại Pháp. Kế hoạch này đã bị bác bỏ vì rõ ràng là Charles de Gaulle có ý định từ chối cấp phép tái thiết tại Paris. Tất nhiên là có nhiều lý do, nhưng lý do chính chỉ đơn giản là thời gian.

Các nhà được triển lãm tại expo này sau bị phá hủy. Tháp Eiffel dự tính để 20 năm trước khi phá bỏ nhưng cuối cùng người Pháp bắt đầu yêu mến tháp này nên giữ lại. 

Bản thân Eiffel đã bảo vệ tòa tháp bằng cách so sánh nó với các kim tự tháp ở Ai Cập:

"Tháp của tôi sẽ là công trình cao nhất mà con người từng tạo ra... tại sao một thứ đáng ngưỡng mộ ở Ai Cập lại trở nên ghê tởm và lố bịch ở Paris?" ông Eiffel đã đưa ra một quan điểm đúng đắn để bênh vực cho công trình của ông ta. 


Khi đủ thời gian trôi qua, bất cứ điều gì cũng có thể trở nên thú vị, mức độ phổ biến không được đo bằng cảm nhận của mọi người ngay lúc này, mà bằng cảm nhận của họ sau một trăm năm nữa.

Paris năm 1887 có vẻ như sẽ bị hủy hoại bởi Tháp Eiffel; Paris năm 2025 sẽ không thể tồn tại nếu không có nó. Thế vận hội vừa qua được tổ chức nhiều cuộc tranh tài dưới chân của tháp Eiffel. Nói cho ngay mình vẽ tháp Eiffel không biết bao bánh kêu lần nhưng chưa bao giờ leo lên. Cứ nghĩ mình sẽ lên đó khi có dịp rồi đùng một cái đi qua Ý Đại Lợi làm rồi từ đó bước chân “lãng tử” lết khắp nơi kiếm ăn đến khi phát hiện ra mối tình hữu nghị của đồng chí gái. Hy vọng lần sau về Paris mình sẽ leo lên đây ngồi uống trà nhìn lại đời mình thấy vui vui một đời. 

Bảo tàng viện ở Panama do kiến trúc sư Frank Gehry thiết kế 

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 

Kiến trúc nhà thờ Nga


Có ông thần nào hỏi mình về kiến trúc nhà thờ Nga thời Sa hoàng với mấy cái vòm củ hành, củ tỏi. Mình chưa bao giờ viếng Nga nên chưa bao giờ vào trong các nhà thờ này. Học lịch sử qua sách khác với đi hiển thị tại chỗ nhất là vẽ thì mới khám phá ra những gì mình học. Theo mình hiểu thiên chúa giáo ở Nga thuộc về kito chính thống giáo (orthodox), thay vì thiên chúa giáo Vatican vì khi xưa, có sự rạn nứt của thiên chúa giáo, chia thành hai nhánh, đông và Tây tương tự sau này thiên chúa giáo Vatican (Tây) bị chia như nhà thờ Anh quốc, dưới thời vua Henry VIII hay nhà thờ Tin Lành,…

Những nhà thờ chính thống mình đã viếng tại các nước như Hy Lạp, Georgia thì chỉ có nhà thờ ở Thổ Nhĩ Kỳ là lớn, nay được sử dụng nhà thờ hồi giáo, còn thường thì nhỏ, vì các ông cha cai quản mỗi nơi, không bị tập trung quyền lực như toà thánh Vatican.


Nhà thờ ở Nga được xây dựng không phải vì mỹ thuật mà để doạ quân thù. Xứ này bị quân Mông Cổ xâm chiếm khi xưa. Xây cất như tấm gương phản chiếu thiên đàng. Đại đế Ivan the Terrible ra lệnh xây thánh đường Saint Basil sau khi chinh phục được Kazan vào năm 1552, đánh thắng Tatars. Được xây xong đúng ngày lễ chi đó của thiên chúa giáo về đức mẹ Đồng Trinh. Thánh đường được xây dựng đầu tiên sau đó quảng trường Kremlin mới được xây cất.

Thiết kế rất đặc biệt vì có 8 nhà nguyện tròn xung quanh trung tâm thánh đường cao 47.5 thước. Các nhà nguyện này được kết nối bởi nhưng hành lang nhỏ, các cầu thang và được trang trí bởi những tấm tranh Fresco màu với những hiện vật tôn giáo. Nếu so với bên ngoài đồ sộ thì bên trong rất gần gũi, với kiến trúc thời trung cổ của Nga.

Vấn đề là người ta không biết ai là kiến trúc sư của ngôi thánh đường ngày. Đến năm 1588, 35 năm sau thì họ xây thêm một nhà nguyện thứ 9 để chôn thánh Basil, người đã tiên đoán năm 1547 sẽ có hoả hoạn tại Mạc Tư Khoa. Ông này điên điên khùng khùng cởi truồng đi ngoài đường nhưng khi chôn ông ta vào dành thờ thì bổng nhiên được phong thánh. Có một nhân vật nga khác cũng nổi tiếng là Rasputin. Hôm nào rảnh mình kể vì người ta còn giữ dương vật của ông ta dài 50 cm khiến phụ nữ nga mê mệt dù ông ta không bảo giờ tắm.




Lúc đầu, thánh đường được sơn màu trắng với những vòm bằng vàng, kết hợp với các bức tường của Kremlin nhưng đến thế kỷ 17 được sơn theo các màu được nói trong cuốn sách về thiên đường. Thường kiến trúc của Nga làm bằng gỗ nhưng thánh đường này được xây dựng bằng gạch. Được biết các vòm củ hành có hình dạng như vậy để mùa đông, không để tuyết phá sập nóc nhà. Do đó chúng ta chỉ thấy các vòm củ hành ở những nơi có tuyết rất nhiều vào mùa đông. Có người cho rằng các vòm này được thiết kế theo kiến trúc của hồi giáo.


Nghe kể là ông Nã Phá Luân ra lệnh phá sập, đặt mìn thánh đường này, nhưng lính Tây chạy không kịp bần xà lõn nên thánh đường vẫn còn nguyên đến ngày nay. Tương tự khi Đảng cộng sản lên ngôi, ông Stalin, cộng sản vô thần cũng ra lệnh phá để có chỗ cho quảng trường Cẩm Linh nhưng may thay kiến trúc sư Petr Baranovky gửi điện tín cho Stalin mà ông Tố Hữu khóc thương cha thương 1, thương ông thương 10. Dọa sẽ tự tử nên lệnh được rút lại nhưng nhốt ông kiến trúc sư này 5 năm cải tạo. Người cộng sản chị biết phá hoại không tạo dựng gì cho nhân loại. Đi xem mấy công trình tại các nước thuộc liên Xô cũ thì thất kinh. Xấu không thể tả.

Ngày nay chỉ còn một cái chuông bằng đồng là còn sót để ngân chuông cho thiên hạ nghe vì khi lính Sô Viết chiếm năm 1929, lấy mấy cái chuông kia để làm chảy đồng ra để làm cái gì đó. Cho thấy người cộng sản không xây dựng gì cả ngoài phá hoại.

Không biết khi nào mình có thể viếng Mạc tư KHoa và Saint Petersburg vì đi du lịch xứ này khá châm.

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn