Hiển thị các bài đăng có nhãn Chốn cũ người xưa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chốn cũ người xưa. Hiển thị tất cả bài đăng

Đưa tiền vào Nam đánh Việt Nam Cộng Hoà

  Đưa tiền vào Nam


Có lần nói chuyện với anh Phong, đại đội trưởng đại đội trinh sát 302, và tiểu đoàn trưởng 204 Đà Lạt khi xưa. Anh ta kể có lần đi hành quân, lính anh ta bắt được một cái sacoche của Việt Cộng trong đó có mấy ngàn đô la, chia nhau cho cả đại đội xài. Có người kể là chỉ huy bộ đội đi vào miền nam chỉ đem theo vàng và tiền đô la để đưa cho nằm vùng mua thực phẩm cho bộ đội. Một lần khác ở Quảng đức, lính 302 bắt gặp xe Jeep của 1 thiếu tá, được ông tướng Nguyễn Văn Toàn quân khu 2, vua tham nhũng mà mình có kể về bài viết của tuỳ viên ông ta nói về vị chỉ huy của mình, đưa người đi thương lượng với Việt Cộng, trả tiền để cho người ông ta chặt cây bán cho ngoại quốc không bị phá. Trinh sát 302 bị phát hiện nên bắn chết cả Việt Cộng và ông thiếu tá khiến ông Toàn nổi điên, muốn bỏ tù thiếu tá Phong. Mất đâu 2 ngàn đô la. Ai buồn đời thì tìm đọc bài của vị sĩ quan tuỳ viên, mình có chép trong bài mình kể lại trên bờ lốc.


Nay mình mới hiểu vị trí của Việt Cộng trong thời chiến tranh vì khi xưa, cứ nghĩ họ núp bên Lào hay bên Cao Miên


Đà Lạt khi xưa có nhiều tiểu thương làm kinh tài cho bộ đội như cô Ba Chỉ tiệm Bình Lợi dưới chợ Đà Lạt, giữa 2 tiệm Lộc Sơn và Nguyễn Văn Ngạch, đối diện đồn cảnh sát. Sau 75, cô ta làm lớn ở Đà Lạt rồi bị về vườn. Nghe cô ta kể là trước 75, đi du lịch qua Thái Lan, gặp bà Nguyễn THị Bình để nhận được chỉ thị kinh tài ra sao. Ngoài ra có nhiều tiểu thương khác nhiều khi bị bắt buộc nếu không bị giết hay cho nổ mìn như vụ cây xăng Ngã Ba CHùa. Mấy người nằm vùng mua gạo muối đường và lương khô rồi chở vào bưng cho Việt Cộng. Lâu lâu mình nghe ngoài chợ kêu đường tăng bo hay ai đó bị Việt Cộng tịch thu hết hàng hoá. Sau này mới hiểu họ chở vào bưng rồi kêu bị Việt Cộng tịch thu đóng thuế để qua mắt chính quyền miền nam.


Mình kể có lần cô Ba Chỉ kêu mẹ mình vào tiệm nói có 100 bao gạo mới về, ai hỏi thì bán lấy lời nuôi con. Độ 1 tiếng sau, có người đến hàng mẹ mình hỏi có gạo không muốn mua 100 bao. Thế là mẹ mình nói có và bán giá cao hơn cô Ba CHỉ đưa, kiếm tiền nuôi con và trả nợ cho chồng đánh bài thua. Sau 75, bà hay đến mua gạo là nằm vùng, làm lớn lắm. Ông cụ mình đi tù nhưng nhờ cô Ba CHỉ và mấy bà khi xưa nằm vùng đỡ đầu nên tai qua nạn khỏi với đám CM 30 ở chợ cũng như ở xóm.


Mẹ mình có mua gạo của Địa Phương Quân nữa. Có ông đại đội trưởng nào ở Đà Lạt, hay kêu mẹ mình để bán gạo. Gạo của lính ông ta, chắc có nhiều lính kiểng nên ông ta dư gạo nên kêu bà cụ bán rẻ. Có lần ông ta nhận tiền mà không cho lính chở gạo ra chợ nên bà cụ đi đòi, không được thì lên vị chỉ huy của ông ta, thì được biết ông ta đánh bài thua nên kiện củ khoai. Ngoài ra có mua gạo của mấy bà sơ và ông cha nhà dòng. Mỹ viện trợ ăn không hết nên đem bán cho bà cụ. Mẹ mình không có môn bài đại lý bán gạo nên bán chui, phải đi mua hàng kiểu này để bán lại.



Có lần một ông tài xế quen ngoài chợ, hay chở hàng cho mẹ mình từ Sàigòn về, bị bắt bỏ tù cả năm khiến bà vợ phải thuê tài xế, lái xe hàng đi Sàigòn. Sau này bà ta sinh con, người ta đồn là con của ông tài xế vì không giống mấy đứa con khác. Chán Mớ Đời 


Lâu rồi mình có đọc bài báo của báo Hà Nội kể các người nằm vùng đổi tiền ngoại quốc đi nhiều ngõ từ Paris, qua Hương Cảng, Cao Miên,… trước khi đưa về Sàigòn.

Xin trích một đoạn của báo Hà Nội do tác giả cuốn sách về những con đường Trường Sơn đặc biệt.


Đến thời điểm hẹn trước, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vấn đề vận chuyển là đơn vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giấy tờ giao nhận, đóng thùng đặc chủng và chở đi. Trong giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá "sang trọng": 


Con đường thường xuyên và gian khổ nhất của đại bộ phận đôla vẫn là tuyến đường Trường Sơn, bằng xe tải quân sự và đường biển trên những chuyến tàu không số, cất giấu dưới hầm tàu hai đáy trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. 

Hành trình của các loại tiền kể trên từ Hà Nội vào Nam được phân bổ theo từng phân đoạn, theo quy định của trung ương: tiền tới địa chỉ nào thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm tiếp nhận và cất giữ. Trung ương phân bổ theo từng khu vực lớn là: Trị Thiên - Huế, Khu V, Tây nguyên, Nam bộ (B2)... Tại từng khu vực nói trên, việc cấp phát, phân bổ, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi, dưới sự lãnh đạo toàn diện của từng đảng bộ, với sự tham mưu chỉ đạo chuyên ngành là các ban tài chính hoặc ban kinh - tài trực thuộc. 

Khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ mà số do trung ương đã đổi và chuyển vào không đủ, phải tiến hành "chế biến" tại chỗ. Việc "chế biến" này được thực hiện theo phương pháp phân tán nhỏ lẻ để khỏi bị lộ (trung ương không chủ trương tích giữ dài ngày đồng tiền Sài Gòn, bởi từ sau năm 1970 sự mất giá của tiền Sài Gòn xảy ra liên tục, tỉ lệ mất giá ngày càng cao). Việc quản lý thu, chi, theo dõi hạch toán kế toán, kho quỹ được thực hiện rất chặt chẽ. Tại ban kinh - tài hoặc cơ quan ngân tín được đảng bộ từng khu vực giao trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác này, các bộ phận chuyên trách về kế toán và kho quỹ đều được thành lập. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán B.29.

Từ năm 1964-1965 chi phí cho miền Nam tăng lên rất nhiều, phương thức AM càng thêm khó khăn, tốn kém, kể cả sự hi sinh xương máu. Trong tình hình mới nó bộc lộ nhiều nhược điểm. Thứ nhất, Mỹ ra sức đánh phá các con đường trên bộ và trên biển, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển. Thực tế đã xảy ra một số lần đối phương ném bom trúng xe chở hàng, trong đó có các thùng đựng tiền, vỏ thùng đựng tiền tuy không bị cháy nhưng sức nóng của lửa đã làm phân hủy số đôla bên trong. Từ giữa thập kỷ 1960 tình hình chính trị của Campuchia bất ổn, đặc biệt từ khi có đảo chính của Lonnol thì con đường này cũng chỉ có thể được sử dụng một cách rất hạn chế. Thứ hai, việc "chế biến" lần thứ hai từ đôla ra tiền Sài Gòn cũng gặp khó khăn, không thể nào "chế biến" một cách nhanh chóng một số tiền quá lớn trên thị trường miền Nam.

Phương pháp mới 


Từ 1965, Trung ương Cục có chủ trương phát triển các cơ sở tại nội thành. Những cán bộ chủ chốt của Ban Tài chính đặc biệt đã được đưa vào nội thành để bám trụ. Hai cán bộ là Mười Phi và Nguyễn Thanh Quang (còn gọi là Năm Quang, tức Dân Sanh) đã nảy ra ý định "chơi theo luật chơi", nghĩa là sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng. 

Phát hiện bất ngờ này được đề xuất với trung ương. Sau đó được trung ương chấp thuận cho thực thi, gọi là phương pháp mới, ký hiệu là FM. FM là phương thức chi viện tiền cho miền Nam bằng chuyển khoản. Chuyển khoản có hai chiều: nhận và trả.

Khâu nhận: Tiền Z (tiền Sài Gòn) được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (tức N.2683), sau đó hoàn trả cho nhà cung cấp tại nước ngoài bằng đôla. Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của N.2683 trong nội thành Sài Gòn, có mật danh là C.130 do Dân Sanh đảm nhiệm. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài và ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng để cung cấp cho cách mạng nhưng lấy lý do để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp có những khoản lớn là tiền Z, không cần rút từ ngân hàng mà thu trực tiếp do bán hàng nhập khẩu. 

Tiền Z được giao tại những nơi quy ước là vùng giáp ranh ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn đi xa hơn, phân tán trong các kho nhỏ rồi tổ chức các chuyến ôtô đem đi. Phương pháp này được mang ký hiệu là FM vì FM vừa là tên gọi một kênh phát sóng ngắn hơn AM, vừa là chữ viết tắt của phương pháp mới (F: phương pháp; M: mới). Phương pháp này có nhiều thuận lợi hơn phương pháp AM: có thể giải quyết một vụ chuyển tiền lớn chỉ trong một ngày thay vì nhiều tháng hành trình đầy rủi ro của phương pháp AM, an toàn hơn, kín đáo hơn, không bị thiệt thòi do vấn đề tỉ giá, mà có trường hợp còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất phát sinh tại các ngân hàng (khoản lãi suất này trong mười năm tính ra tới gần 25 triệu đôla).

Để thực hiện FM cần phải có một hệ thống tổ chức rất tinh vi và dày công bố trí. Tại Hà Nội, bộ phận B.29 thuộc Vietcombank dùng các mật mã, điện đài để liên lạc với miền Nam và liên lạc với các ngân hàng trên thế giới để nhận và gửi các lệnh chi tiền, chuyển tiền. Bộ phận đó vẫn do ông Mai Hữu Ích điều hành và trưởng phòng thanh toán Nguyễn Nhật Hồng (còn gọi là Ba Hồng) trực tiếp phụ trách. 

Ở trong Nam, một bộ phận có bí danh là N.2683 do ông Mười Phi làm trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục phụ trách. Một bộ phận đặt tại Sài Gòn. Cơ sở này trực thuộc Trung ương Cục, gọi là Ban Công tác đặc biệt. Nó là một "đối tác" đặc biệt của B.29. Đầu mối và cũng là cơ sở của N.2683 là một đại thương gia có khả năng chi tiền mặt cho N.2683. Rồi theo thông báo của N.2683, B.29 lại chi trả cho họ bằng cách chuyển ngân vào tài khoản của họ ở các ngân hàng nước ngoài. 



Mình có quen một gia đình khi xưa giàu có ở CHợ Lớn, sau 75 thì ở Hải ngoại, có nhà ở Tây Ban Nha, ở Hồng Kông này nọ. Nên không biết khi xưa họ có chuyển tiền ra Hải ngoại bằng cách nào. Đưa cho nằm vùng Việt Cộng ở miền nam rồi họ ở ngoại quốc chuyển tiền vào ngân hàng Thuỵ Sĩ? Nay qua đời nên không biết hỏi ai.


Ông Mười Phi nhận định: "Đây cũng là một loại đường mòn Hồ Chí Minh nhưng không dùng ôtô, tàu thủy, máy bay hay đường ống nên không có vết chân nguời. Chỉ có những lệnh chuyển tiền thôi. Anh Phạm Hùng cho tôi danh sách năm người để tôi chọn. Tôi chọn anh Ba Châu và nhắc anh Phạm Hùng nên cho anh Ba Châu đi học thêm tiếng Khơme, học tình báo rồi hãy vào Phnom Penh giúp chúng tôi". 

Ông Lữ Minh Châu (Ba Châu) - phó Ban N.2683 - kể lại: "Chiến trường mở rộng, nhu cầu tiền càng nhiều, càng nhanh càng tốt và phải cung cấp cho nhiều nơi. Với biện pháp FM, nói cách khác, với hoạt động ngân hàng đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ tại miền Nam, chúng tôi "Ban Công tác đặc biệt" trực thuộc Trung ương Cục miền Nam với các loại bí số D.270 và N.2683, mà tôi là phó trưởng ban, anh Mười Thăng Long là trưởng ban, đã cung cấp các loại tiền nhanh chóng, đủ và đúng theo yêu cầu của Cục Hậu cần miền Nam".

ĐẶNG PHONG, tác giả cuốn sách nói trên. Ai buồn đời thì đọc để hiểu thêm về cuộc chiến Việt Nam ngày xưa.


Đọc tài liệu của Hà Nội nên biết thêm chút gì về cuộc xâm chiếm miền Nam:


Báo Thời báo Ngân hàng mô tả rõ vai trò của “Ngân hàng Ngoại hối” bí mật mang bí danh B.29, thành lập tại Hà Nội, tiếp nhận viện trợ quốc tế (USD, rúp, tệ…) rồi quy đổi và chuyển vào miền Nam thông qua hai đơn vị Ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam: N.2683 (Ban Tài chính đặc biệt) và C.32 (Ban Ngân tín R). Các cán bộ như Mai Hữu Ích, Nguyễn Nhật Hồng, Nguyễn Văn Phi… đã xử lý hàng tỷ USD quy đổi và gửi vào chiến trường qua Đoàn 559  .


Bộ Tài chính Việt Nam thông tin rằng nhiệm vụ chi viện miền Nam được đánh giá là cốt tử trong chiến lược giải phóng, đặc biệt trong giai đoạn 1964–1965, tập trung cán bộ ưu tú để vận hành dòng tiền chiến lược này  .


Trung tâm Lưu trữ Việt Nam tại Texas Tech (VNCA) lưu giữ hàng triệu trang tư liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam, bao gồm các báo cáo tài chính, ghi chép nội bộ ngành ngân hàng, chứng minh tính xác thực và quy mô tài chính vận chuyển trong kháng chiến  .


https://www.vietnam.ttu.edu/


Sơ đồ tổ chức vận chuyển tài chính


1. Ở Hà Nội – miền Bắc

B.29 (Ngân hàng Ngoại hối bí mật): tiếp nhận ngoại tệ viện trợ từ quốc tế tại các đầu mối như Hong Kong, Paris, London, Bắc Kinh. Mình có đọc một bài báo của Hà Nội phỏng vấn mấy người khi xưa, chuyển tiền từ Paris, qua Hương Cảng rồi về Sàigòn. Nay tìm lại không thấy nữa. Quá lâu nên nằm ở dưới các tài liệu mới.

Quy đổi và gom tiền vào kho Bắc, chờ lệnh vận chuyển.


2. Đường vận chuyển qua Đoàn 559

Tài chính được vận chuyển cùng lương thực, vũ khí… qua Lào – Campuchia. Đường mòn Hồ Chí Minh vận hành liên tục từ năm 1959 – đặc biệt quy mô lớn từ 1967–1971  .

Tiền được giấu trong thùng kín đặc biệt, chia nhỏ để giảm rủi ro. Có cả đường dẫn dầu phục vụ xe, hệ thống trạm nghỉ…


3. Tại miền Nam – Trung ương Cục

N.2683 (Ban Tài chính đặc biệt) và C.32 (Ban Ngân tín R): tiếp nhận tài chính từ Bắc chuyển đến, kiểm đếm, bảo quản rồi phân phối đến các chiến khu, vùng giải phóng  .

Giao liên địa phương, cán bộ cơ sở trong mật danh F.M (phương pháp mới) phối hợp kinh doanh bình phong để lấy tiền công khai từ hệ thống tài chính Sài Gòn, rồi chuyển về xuôi phục vụ cách mạng  .


Cho thấy Hà Nội có rất nhiều đường tiếp tế vào nam trong khi Việt Nam Cộng Hoà thì nhận viện trợ từ Hoa Kỳ rồi nhiều tiền quá nên tướng tá tham nhũng. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Xem chui ca trù với Nguyễn Tuân


Hôm nay, lái xe lên Lone Pine vì có người kêu muốn bán cho mình căn nhà của gia đình mà bà mẹ khi xưa có hứa bán cho mình sau khi bà ta chết nên chạy lên xem. Thành phố này mình có đến hai lần khi leo núi lên đỉnh Whitney. Lần chót là tháng 9 năm ngoái. Mua chắc làm Airbnb rồi lâu lâu lên đi bộ lên núi hay viếng Thung Lũng Tử Thần cách đó mấy chục dặm mà năm kia có lên đây chơi mấy ngày với mụ vợ, khách sạn đắt như ở Thụy Sĩ. Luôn tiện dạy thằng con cách xem nhà, nghiên cứu ra sao trước khi quyết định mua và thương lượng. 


Đi đường, buồn đời mở ca trù nghe đến bài Tỳ Bà Hành thì thấy tên ca nương là Phó thiên Đức nên chợt nhớ đến bài viết của ai, được tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đăng lại trên bờ lốc của ông mà mình đọc lâu lắm rồi. Có nghe ông Nguyễn Tuân gọi ca nương; em Đức ơi nên mình mò lại bài viết khi xưa của ai kể về đêm ở An Toàn Khu, ông Trần ĐỨC Thảo kể lại được nghe ca trù lần đầu tiên. Tải lại đây để ai thích hiểu thêm về thời cách mạng cũng như khía cạnh ca trù. Từ khi đọc bài này mình hay Mở xem ca trù ở Việt Nam thay vì nghe thiên hạ hát karaoke. 

Mình bắt đầu để ý đến ca trù sau khi xem phim do ông Đơn Dương, gốc Đà Lạt đóng

TRẦN ĐỨC THẢO VÀ ĐÊM Ả ĐÀO CHUI Ở ATK NĂM ẤY

 

– Thời gian sống ở ATK (An Toàn Khu), tôi [Trần Đức Thảo] bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả! Ai thích xem ca trù thì nhấn. 

 https://youtu.be/temE-QtnBRk?si=IScZba5Wbj010eYX

– Sống như thế thì tẻ nhạt quá, làm sao bác chịu nổi?

 

– Ấy trong quãng thời gian sống ở bên lề chính trị như thế không hẳn là tẻ nhạt đâu. Thỉnh thoảng cũng có những giây phút rất thú vị, rất vui. Bởi sống ở hậu phương thời kháng chiến, luôn luôn được chứng kiến những ngang trái xảy ra thật là bất ngờ, làm bật cười, cười đến chảy nước mắt. Trong cách mạng mà cũng có lúc ăn chơi lén lút, đáng ghi nhớ về cái “thời bao cấp” ấy. Những thú vui chui lén như vậy cũng làm cho mình phải suy nghĩ, tìm hiểu hiện tượng cách mạng và những khát vọng của con người…

 

– Thú vui lén lút đáng nhớ ấy là gì?

 

Bác Thảo kể có một lần, “không thể nào quên được”. Đó là lần được nhà văn Nguyễn Tuân mời đi ăn một bữa cơm Tây, tại một xóm dân Hà Nội tản cư về sống gần ATK. Khi vào tới xóm ấy, là phải chui qua mấy hàng giây thép, trên phơi đầy quần áo màu mẻ sặc sỡ khác hẳn với quần áo nâu sồng của nông thôn, được giặt để cất đi, ở sân sâu bên trong một căn nhà cổ, để tới cái quán ăn chui lậu hiếm hoi ở hậu phương. Chủ nhân tự khoe mình từng là đầu bếp của cựu thống sứ Bắc kỳ Graffeuil! Bữa ăn hôm ấy có cả món thịt bò. Chateaubriand, có cả rượu vang Bordeaux. Thịt tươi là do cánh công an vừa săn được một con nai! Còn rượu cũng là do cánh công an mang từ Hà Nội ra! Ăn xong, Tuân chửi vui: “Sư bố chúng nó! Tàn dư phong kiến, thực dân mà sướng thế đấy!”. Thảo ngơ ngác không biết Tuân chửi ai? Ăn uống ngon lành thế sao lại chửi?

 

Sau bữa ăn, Tuân còn cao hứng dẫn Thảo đi hát “cô đầu”! Dĩ nhiên cũng là hát chui, hát lậu. Địa điểm là một căn nhà chòi có cót che kín mít, dùng để chứa nông cụ thúng, mẹt, cày bừa… ở ngay giữa một cánh đồng lớn mới gặt xong. Thảo được đưa tới chờ ở đó, nên rất lấy làm lạ. Ngồi một mình ngắm trăng mười sáu sáng ngời, chung quanh là một cánh ruộng bàng bạc màu vàng khô khốc của những gốc rạ mới gặt xong, xa xa là những luỹ tre xanh vi vu gió thổi. Cảnh thật đẹp và buồn.

 

Mãi sau, Tuân trở lại lố nhố với năm, sáu người lạ mặt, trong đó có một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mỗi người ôm một cái túi khá lớn. Họ vào trong căn chòi rồi cài cài mấy tấm cót cho kín đáo. Một ngọn đèn dầu hoả được thắp lên cho vừa đủ sáng để thấy tỏ mặt nhau. Họ mở túi lấy ra, người thì một cái trống nhỏ, người thì một cây đàn Đáy. Chị phụ nữ cũng lấy ra hai que gỗ và một cái phách. Tuân nói thật trịnh trọng:

 

– Hôm nay tôi lén tổ chức chầu hát này là để đãi ông bạn trí thức ở tận bên tây mới về. Yêu cầu em Đức hát cho thật đạt chỉ tiêu đấy nhé!

 

Cô ca nương nhìn Thảo rồi đáp:

 

– Anh Tuân ơi! Anh ép, thì vì nể anh em cũng cố mà ra đây hát thôi. Bởi em đã giải nghệ từ mấy năm nay rồi. Nêu công an mà biết thì em sẽ bị đi tù mất. Hát ả đào bây giờ bị coi là thứ nhạc sa đọạ của thời phong kiến, nó đã bị khai tử từ lâu rồi!

 

– Không sao đâu, anh đã lo lót hết rồi. Tuân này bảo đảm mà!

 

– Cứ hát đi, đã có ông chủ tịch xã kiêm trưởng công an ngồi nghe đây thì còn sợ gì!

 

– Thôi đừng khách sáo nữa! Ta bắt đầu đi, kẻo đã quá canh khuya rồi. Đàn lên! Xin mời quan viên giữ trống ra tay! Bắt đầu “Hồng, Hồng, Tuyết Tuyết” đi em!

 

Vài tiếng đàn chậm rãi vẳng lên, trầm bổng, thánh thót day dứt trong đêm khuya thanh vắng. Rồi một giọng ca trong vắt, ngân nga, luyến láy vang lên giữa cánh đồng vằng vặc ánh trăng.

 

Rồi tiếng trống vào nhịp:

 

– Tom! Chát! Chát! Tom!

 

– Hồng, hồng, tuyết, tuyết ứ ư ừ mới ư ừ ngày nào chửa… ư biết cái chi chi…

 

– Tom, tom, chát…

 

Tiếng hát, tiếng đàn nhịp trống bỗng đưa mọi người nhập vào một thứ nghi lễ tôn giáo linh thiêng… gợi cảm, trữ tình của nghệ thuật!

 

Bác Thảo vui vẻ, thích thú kể lại thật chi tiết về một chầu hát ca trù lén lút vô cùng cảm xúc, trong đêm khuya ấy, giữa một cánh đồng khô, trong lúc tình hình chiến tranh sôi động, mọi người lo âu, bồn chồn không biết ngày mai sẽ ra sao!

 

Bởi đấy là lần đầu tiên trong đời bác Thảo được nghe tiếng hát “trong như pha-lê, luyến láy ngân nga, thấm nhập tâm can, làm rung động toàn thân xác.,.”. Bác say sưa khen:

 

– Ôi! Lúc ấy, tiếng đàn, tiếng hát, sao có thể thuần khiết, âm vang sâu thẳm đến thế! Tiếng trống bắt nhịp thật lịch duyệt, như thúc dục, như khuyến khích ca nương!

 

Bài ca vừa chấm đứt, Thảo không nhịn được phản ứng ngạc nhiên, nên hỏi:

 

– Sao thứ ca dân gian này có thể nghệ thuật đến thế! Hay như vậy sao lại cấm? Trong đời tôi, tuy đã từng biết thưởng thức những tiếng đào, lời ca cổ điển vô cùng nghệ thuật của lối hát đại nhạc (opéra) phương Tây, nhưng đây là lần đầu tiên tôi khám phá ra một lối ca nghệ thuật tuyệt kỹ, vừa trữ tình, vừa huyền bí, thiêng liêng như của một tôn giáo, nghe mà rợn cả người, cứ y như bỗng mình được lạc vào cõi Thiên Thai. Một thứ nghệ thuật truyền thống quý như vậy, sao lại bắt nó phải chết?

 

– Tại vì xưa kia nó phục vụ giới quan lại, phú hộ thời phong kiến! – Tuân giải thích – Thôi bây giờ thì ca tiếp đi chứ!

 

Người nghệ sĩ chơi đàn, người “quan viên” giữ nhịp trống điều khiển, rồi ca nương, tất cả đều đắm say diễn tả, như hoà tâm hồn vào mấy bài hát nói danh tiếng của mấy nhà thơ trứ danh thời trước. Tay đàn, tay trống và ca nương, tất cả đều biểu diễn, với tất cả sở trường, y như đang làm sống dậy giây phút thanh bình của đất Hà thành thanh lịch xa xưa!

 

Thảo giải thích thêm với chúng tôi:

 

– Tiếng hát ả đào đúng là hợp với tâm tư, hoàn cảnh của từng người lúc ấy. Ai ai cũng đang mang nặng một tâm tư u buồn, nên mới hát được như thế, mới nghe thấu được nỗi niềm của giọng hát, lời ca. Tôi đã từng biết lối hát đại nhạc (opéra) của phương Tây. Lối hát ấy là dùng sức buồng phổi đẩy làn hơi qua thanh quản để đưa nốt nhạc vọt lên chói vót như thi tài với tiếng đàn. Nhưng lối hát ả đào thì tế nhị hơn, vì ca nương phải kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn hơi qua họng, để uốn nắn âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến láy, nghẹn ngào; như than van, nức nở, để bầy tỏ nỗi niềm… Nghệ thuật hát ả đào, do đó tinh vi, truyền cảm tình tiết cao siêu, sâu sắc, huyền bí hơn hẳn đại nhạc phương Tây. Tôi không hiểu sao một nghệ thuật tuyệt vời như thế mà lại nỡ lòng mang vứt bỏ nó đi! Một dân tộc có một nền văn minh cao độ mới có thể có một lối hát nghệ thuật đậm tính văn hoá dân tộc đến thế, sao lại chê bai, kết tội nó!

 

– Ôi dào! Bây giờ thì cái gì của thời cũ đều bị phá đi, vứt bỏ hết! Bây giờ người ta tính áp dụng lối tiêu thổ kháng chiến ở Liên Xô, phá sập, dẹp hết, đốt hết, san thành bình địa ráo, để địch không thể xâm chiếm được. Nơi nào có tinh thần kháng chiến cao như vùng Vinh, Thanh Hoá, Nghệ An thì đã bắt đầu có lệnh thi hành chính sách “tiêu thổ”. Với hô hào “tất cả cho kháng chiến”. Tiếc gì cái lối đa truyền cảm, trữ tình, nay bị coi là truỵ lạc, là sa đoạ này!

 

Chầu hát ả đào dần tới hồi kết thúc. Quan viên cầm trống bỗng đứng dậy, bước tới trước mặt nhà văn Nguyên Tuân, nghiêm chỉnh cúi đầu nói:

 

– Xin kính mời quan bác! Quan bác là người đã nổi tiếng là tài danh cầm chầu là tài tử lịch duyệt của ca trù, đệ xin trả lại ngôi quan viên cho quan bác, để quan bác giữ nhịp cho bài ca cuối cùng của chầu hát chui này. Đệ chọn bài “Tỳ bà hành” để kết thúc, y như trong các buổi ca trù của các nhà hát trứ danh của Hà thành thanh lịch thủa xa xưa.

 

Nguyễn Tuân nghiêm nghị đón nhận chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, đặt trống xuống đúng tầm tay, đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay đàn và ca nương, đúng cách quan viên sành điệu, như vị nhạc trưởng của ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh trên một chiếu hát. Mọi người chờ tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại đặt nhẹ rồi trống xuống và nói với giọng trầm buồn:

 

– Này em Đức ơi! Anh biết em từng là ngôi sao ca nương sáng chói của lò hát bà Đốc Sao ở Hà Nội. Xưa kia thì phải là cỡ Tuần phủ, Tri huyện trở lên tới Tổng đốc mới được nghe tiếng em ca. Thế rồi cách mạng về thì nhà bà Đốc Sao biến đâu mất tích. Nay được tin em trôi dạt về đây, anh đã phải bịa chuyện xin đi công tác phương này, cốt là để tìm em, để được nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết vì bom đạn thì anh cũng mãn nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây, cái cánh đồng khô giữa vùng đất núi rừng Tuyên Quang này bỗng trở thành một bến Tầm Dương! Và em Đức sẽ là người đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những Tư mã của thời đại, đang bị thời thế lưu đày về cái đất Giang Châu của Tuyên Quang này… Em hãy ca thật hay lên, để tiễn đưa chúng anh ngày mai lại lên ứ… ư đường! Chỉ tiếc ở đây không có rượu ngon để anh ngâm mấy câu thơ cổ:

 

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi

Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!

 

(Thơ Vương Hàn, Lương Châu từ, Trung Quốc)

 

Rồi Nguyễn Tuân cao hứng, đằng hắng, lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:

 

Rượu ngon thơm ngát chén ngà

Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi

Sa trường say, cười mà chi

Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!

 

(Người dịch khuyết danh)

 

Cây roi giơ lên phát lệnh bắt đầu bài hát:

 

– Tom! Tom! Chát!

 

Nhưng tất cả ngạc nhiên vì ca nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc nức nở! Thảo ngồi đấy cũng long lanh nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm thấy một nỗi u buồn thấm thía khó tả, chẳng rõ vì sao. Nức nở, sụt sùi một hồi, ca nương lấy lại bình tĩnh nói:

 

– Em xin lỗi! Em xin lỗi! Vì nhìn mấy anh ăn mặc nâu sồng vất vả, mặt mày hốc hác, em thấy thương mấy anh quá! Mà em cũng khóc cả cho thân phận em! Thôi để em hát, để tiễn đưa các anh, và cũng là đưa em nữa, vì mai đây gia đình em sẽ tìm đường về xuôi, vì cái bến Tầm Dương của em là bên quê ngoại ở mãi vùng Thái Bình cơ!

 

– Thôi nín đi em! Hát đi em!

 

Nguyên Tuân lại nổi trống giục:

 

– Tom! Tom! Tom! Chát!

 

Ca nương bắt đầu lên giọng ngân nga, luyến láy não lòng:

 

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.

 

Dời thuyền ghé lại thăm tình

Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.

 

Nghe não nuột mấy dây buồn bực

Dường than niềm tấm tức bấy lâu

Mày chau tay gẩy khúc sầu

Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn.

 

Thuyền không, đậu bến mặc ai

Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi, lạnh lùng.

 

Nghe não ruột khác tay đàn trước

Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi

Lệ ai chan chứa hơn người

Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh…

 

(Trích thơ Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch [*])

 

– Tom! Chát! Chát! Tom!

 

Tiếng trống vang lên như để khen “Thật tuyệt vời!”, tiếng đàn cùng tiếng hát ngưng bặt. Cả cái chòi cót giữa cánh đồng không ấy bỗng im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió, xào xạc, qua một bụi tre, vọng lại từ xa.

 

Trong chòi, mọi người, như chết lặng vì quá cảm xúc. Tất cả êm thấm đứng dậy, chậm rãi thu xếp trống, đàn, từ từ rút lui. Tất cả họ bùi ngùi, câm nín, ra về trong sợ sệt, nhìn trước, ngó sau, lắng tai, phóng mắt ra khắp phía xa chung quanh, không ai nói với ai nửa lời. Mỗi người mỗi nặng một tâm tư luyến tiếc, lo âu, sợ hãi…

 

Nguyên Tuân ghé tai Thảo:

 

– Này ông bạn trí thức của tôi ơi, nhớ cho kỹ là đừng cho ai biết là tôi đãi ông chầu hát ca trù này đấy nhé! Phải “bem” (giữ bí mật) kẻo lại bị ngồi viết kiểm điểm thì mệt lắm đấy!

 

– Thú thật là ngồi nghe, tuy không hiểu hết ca từ, nhưng tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống y như mình cũng đang khóc cho nỗi niềm u uất của chính mình. Không thể ngờ là lối ca này nó thấm thía vào tim gan đến thế!

 

– Anh có biết tại sao ca trù nó thấm thía vào tâm hồn mọi người không? Tại vì đây là một lối ca trữ tình. Bởi lời ca toàn là những bài thơ, bài hát nói của một nền văn chương quý phái đã lâu đời. Cách diễn tả lại càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị ức chế trong lồng ngực để rồi được đẩy ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức nở, để bầy tỏ những tình cảm uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn, muốn than van, nuối tiếc, khóc thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi niềm trong lòng thì mới thưởng thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi biết anh cũng đang có nhiều nỗi niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời anh đi hát hôm nay. Có đúng như vậy không nào?

 

Thảo nhìn Tuân chằm chằm, rồi ngần ngừ nói:

 

– Anh hỏi tôi câu ấy làm tôi chột dạ. Cố phải anh là môn đệ của Freud đã nhìn thấy tâm can tôi không? Hay anh là cán bộ của “cụ Hồ” đang gài bẫy để bắt quả tang lập trường chao đảo của tôi đây?

 

– Tôi chưa hề đọc Freud. Và anh cũng đã mắc cái bệnh cảnh giác nặng rồi đấy. Nhưng cứ yên tâm, vì thằng Nguyễn Tuân này dù thế nào thì cũng không thể hèn mạt đến nỗi bán rẻ tình bạn cho cách mạng đâu. Anh cứ bình tĩnh mà chịu đựng và chờ đợi, chờ thời… Tôi hỏi thật, anh có hiểu tại sao ca trù nó lại thấm thấu tâm can chúng ta như vậy không?

 

– Tại sao vậy anh?

 

– Tại vì ca trù toàn chuyên chở âm điệu những nuối tiếc, những tình hận, những chí cả sinh bất phùng thời của những kẻ bất mãn, bất đắc chí như anh đấy!

 

– Sao anh thấy được tận đáy lòng tôi như thế? Xin cảm ơn anh! Nhưng cũng xin anh đừng làm tôi sợ vì đúng là anh đã bắt quả tang tôi đang chao đảo lập trường đối với cách mạng!

 

– Anh đừng lo. Tôi hiểu anh vì tôi hiểu tôi. Bởi chúng ta chỉ là bọn Giang Châu Tư mã đang bị giông bão thời cuộc đánh trôi dạt về cái bên Tầm Dương rừng rú này. Buồn lắm! Thảm lắm anh ơi! Với anh tôi mới dám thổ lộ tâm sự u buồn của tôi. Bởi tôi biết sợ cũng như anh biết sợ…

 

Rồi bác Thảo còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nàn ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy nữa.

 

Trích “Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối”,

Phan Ngọc Khuê ghi.

Nguồn: FB La Khac Hoa.

Đăng lại theo FB Nguyễn Xuân Diện.

Đăng lại theo fb Nhã Hoàng

 

➡️ [*]: Ngày nay chúng ta biết bản dịch Tỳ bà hành nổi tiếng là của Phan Huy Thực, còn trong bài ghi Phan Huy Vịnh là đúng với kiến thức thời đó - NH.

Rồi bác Thảo còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nàn ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy nữa.


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc Sơn tử