Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Nghiên cứu Harvard lý do tập Thái Cực Quyền khi lớn tuổi


Hôm trước mình kể vụ về già có vấn đề là bệnh loãng xương dễ bị gãy xương nếu bị ngã thì có nhiều người còm, kể sợ tốn điện nên tối thức dậy đi xuống cầu thang té lăn càng và một người khác kể tương tự ngồi xe lăn mấy tháng nay. Mình đang đọc tài liệu lý do người Nhật có xương chắt khi về già, nhờ ăn uống, chớ không phải uống chất bổ sung như người Mỹ. Thấy có lý hấp thụ dinh dưỡng vì chất bổ sung không hiệu nghiệm nhất là đa số sản xuất từ Trung Cộng. Hôm nào buồn đời mình kể.


Mình đọc thống kê tại Hoa Kỳ thì được biết tỷ lệ người già bị ngã và tử vong tại Hoa Kỳ là một vấn đề khá nghiêm trọng về y tế công cộng, đặc biệt khi dân số già đang ngày càng tăng. Mỗi ngày độ 10,000 người Mỹ thuộc thế hệ babyboom về hưu (sinh từ năm 1946 đến 1964). Mỗi lần nói chuyện với bà cụ ở Viêt Nam là hỏi có đi bộ không. Phải khuyến khích bà cụ vì nếu không cử động tay chân thì cơ bắp sẽ mất. Mình nhớ khi bị gãy chân 6 tháng không động chân, chân bị teo lại, bắp cơ đều mất tiêu. sau phải tập đi bộ trong hồ bơi mất mấy tháng mới có cơ bắp lại.


Dưới đây là các số liệu chính xác từ CDC (Centers for Disease Control and Prevention) và các tổ chức y tế lớn tại Mỹ:

Theo CDC (2024):

Khoảng 1/4 (25%) người Mỹ từ 65 tuổi trở lên bị ngã ít nhất 1 lần mỗi năm. Có bác quen nay chống gậy, kể là người em đi không chống gậy ngã bể đầu chết tươi nên nay bác phải cầm cái ba toong DEI cho chắc ăn. 

Mỗi năm có hơn 36 triệu vụ té ngã xảy ra ở nhóm tuổi này.

Trong số đó, khoảng 3 triệu người phải nhập viện cấp cứu. Xem như gần 10%

Khoảng 950,000 người bị gãy xương hông, phần lớn là do té ngã.


Tỷ lệ tử vong do té ngã

Năm 2021, có hơn 38,000 ca tử vong do té ngã ở người từ 65 tuổi trở lên tại Mỹ.

Tỷ lệ tử vong vì té ngã đã tăng hơn gấp đôi từ năm 2000 đến 2020. Xem như 20 năm.

Té ngã hiện là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do chấn thương ở người cao tuổi. Chúng ta cứ lo sợ ăn uống ung thư này nọ quên vấn đề chính là nguy cơ bị ngã rất cao khi về già. 

Dự đoán đến năm 2030, sẽ có hơn 52 triệu người cao tuổi bị té ngã mỗi năm nếu không có can thiệp hiệu quả.

Cứ 19 phút lại có một người già tử vong vì ngã tại Hoa Kỳ.


Vấn đề là hệ quả lâu dài sau khi ngã

95% gãy xương hông ở người cao tuổi là do té ngã. Trong số đó:

Khoảng 20% tử vong trong vòng 1 năm sau khi bị gãy xương hông.

50% không bao giờ hồi phục khả năng sinh hoạt độc lập.

Té ngã cũng có thể gây chấn thương sọ não, dẫn đến sa sút trí tuệ, trầm cảm, và mất khả năng vận động vĩnh viễn.


CDC đề nghị 4 biện pháp chính để tránh bị ngã:

1. Tập luyện thể chất phù hợp – như Thái Cực Quyền, cải thiện thăng bằng và sức mạnh.

2. Kiểm tra thị lực và thuốc uống định kỳ

3. Bổ sung vitamin D và canxi đúng cách. Mình có kể vụ này rồi

4. Sửa đổi môi trường sống: tránh sàn trơn, tăng ánh sáng, tay vịn cầu thang, v.v. Tốt nhất là nên ở tầng trệt, không có thang cấp xung quanh nhà dễ bị trợt ngã.


Ai tò mò thì đọc nguồn tham khảo chính:

CDC – Older Adult Falls Data

National Council on Aging (NCOA) – Fall Prevention

Mình có kể vụ nghiên cứu của đại học Harvard Medical School và các nguồn uy tín của Harvard về lợi ích của Thái Cực Quyền (Tai Chi). Ai buồn đời có thể tìm đọc bản đầy đủ tại trang Harvard Health Publishing hoặc tìm khóa học “An Introduction to Tai Chi” trên trang của Harvard.


Mình thấy nhiều người quen lớn tuổi hăng hái đi đánh pickleball, một loại thể thao đánh banh mình hay thấy trên các du thuyền. Cũng tốt nhưng mình không biết trong cơ thể có vấn đề gì nên không dám chơi các loại thể thao chạy rồi ngừng như chiếc xe đứng rồ máy rồi chạy cái ào để đánh trái banh. Vụ đánh quần vợt hay thấy mấy người đang chạy quỵ trên sân.


Mình thích tập nội công Hồng Gia và Thái Cực Quyền hơn. Nay đã trên 20 năm. Lúc đầu mình tập Thái Cực Quyền 8 thức rồi 24 thức rồi 36 thức nhưng rốt cuộc từ 15 năm nay chỉ tập có 8 thức. Tập đi tập lại vẫn chưa hoàn thục. Lý do càng tập càng khám phá nhiều trò như hơi thở phải đi kèm với các thức nếu không cái thế bị đứt đoạn và lực mất ngay lúc đó. Nội lực từ đâu xuất hiện, làm sao giữ cái nội lực ấy khi đi quyền. Hơi thở rất quan trọng giúp tạo ra khí lực. Mình có thể đi bài Thái Cực Quyền 8 thức nhanh trong vài phút lâu nhất là 62 phút. Xem như mỗi thức gần 8 phút, mồ hôi đổ như tắm. 


Harvard Health Publishing đã tổng hợp nhiều nghiên cứu cho thấy Thái Cực Quyền làm tăng sức mạnh cơ bắp, linh hoạt, cân bằng, và có thể giúp cải thiện giấc ngủ – từ năm 2022 đến thời điểm cập nhật gần nhất  .

Peter Wayne, tác giả cuốn “Harvard Medical School Guide to Tai Chi”, phân tích các thành phần chính tạo nên lợi ích của Tai Chi – ví dụ: nhận thức, thư giãn chủ động, hít thở tự nhiên, hỗ trợ xã hội… giúp giải thích cơ chế mang lại lợi ích sức khỏe   .


Tổng hợp hệ thống từ nghiên cứu quốc tế


Một bài tổng quan trên PMC (phát hành năm 2022) tổng hợp hơn 120 bài đánh giá hệ thống và hơn 500 thử nghiệm lâm sàng:

giảm nguy cơ té ngã ở người cao tuổi, cải thiện viêm khớp (osteoarthritis), Parkinson, COPD, cải thiện nhận thức ở người lớn tuổi . Mình nhớ có một chị, một hôm kêu mình lại rồi chỉ 10 ngón tay. Chị ta nói 6 tháng trước khi tập ở Đông Phương Hội, chị ta không có thể co giãn 10 ngón tay, nay vô tư. Rồi chị ta ngồi xuống đứng lên, kêu 6 tháng trước cũng đứng không nổi nay thì vô tư. Năm nay có một chị 83 tuổi vào tập, thấy chị ta tiến bộ. Tuổi hơi lớn nên trời tối hơi sợ nên chị ta đến trễ vào lúc 6 giờ để tập thay vì 5:30 sáng. có người bận đi làm nên họ đến tập đến 6 giờ rồi lái xe đi làm xa.

giảm trầm cảm, hỗ trợ phục hồi sau nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ, tăng chức năng nhận thức ở người tổn thương thần kinh  . Anh bạn rủ mình vào tập Hồng Gia, cũng lâm vào tình trạng này. Anh ta bị mỗ tim, đi đứng khó khăn, sau có anh bạn kêu vào tập nên 2 năm sau khoẻ mạnh, đi trượt tuyết ngon lành.

cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư, bệnh xơ cơ (fibromyalgia), kiểm soát huyết áp và giảm loãng xương  . Có một chú bác sĩ bị bệnh đủ thứ, vào tập thì thấy tiến bộ, sức khoẻ mạnh lên nhưng rồi covid đến ngưng tập vì võ đường đóng cửa. Nay thì xuống cấp lắm, phải đi lọc thận mỗi tuần, không đi tập nữa dù mình có đến nhà chở đi và chở về. Kêu chú biết địa chỉ rồi để tự lái xe.


Các nghiên cứu của Harvard gồm thử nghiệm dài hạn với nhóm người lớn tập Tai Chi hơn 5 năm  đều cho thấy việc luyện tập giúp cải thiện cân bằng và thăng bằng so với người không tập .


Harvard cho biết Tai Chi có thể giúp giảm huyết áp (giảm 7–32 mmHg cho systolic, 2–18 mmHg cho diastolic) và hỗ trợ phục hồi tim mạch đặc biệt với những người không thể tham gia phục hồi chức năng tim truyền thống  .


Cải thiện giấc ngủ: Một nghiên cứu gần đây tổng hợp 22 thử nghiệm lâm sàng cho thấy Tai Chi tăng tổng thời gian ngủ gần 1 giờ mỗi đêm và hiệu quả kéo dài đến 2 năm  . Đồng chí gái cứ rên là không ngủ được, mình kêu tập Thái Cực Quyền nhưng mụ không chịu. Mình thì ngồi đâu ngủ đó.


Trí tuệ & nhận thức: Một phân tích của 20 nghiên cứu cho thấy Tai Chi cải thiện chức năng điều hành não bộ (executive function), làm chậm tiến trình sa sút trí tuệ ở người lớn tuổi, thậm chí tăng thể tích vùng não và chậm tiến tới mất trí nhớ hơn so với nhóm chỉ tập giãn cơ hoặc đi bộ  . Ngoài ra, một phân tích rộng khắp hơn cũng xác định Tai Chi là loại bài tập nhẹ có lợi cho chức năng não bộ tổng thể  .


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 


Đưa tiền vào Nam đánh Việt Nam Cộng Hoà

  Đưa tiền vào Nam


Có lần nói chuyện với anh Phong, đại đội trưởng đại đội trinh sát 302, và tiểu đoàn trưởng 204 Đà Lạt khi xưa. Anh ta kể có lần đi hành quân, lính anh ta bắt được một cái sacoche của Việt Cộng trong đó có mấy ngàn đô la, chia nhau cho cả đại đội xài. Có người kể là chỉ huy bộ đội đi vào miền nam chỉ đem theo vàng và tiền đô la để đưa cho nằm vùng mua thực phẩm cho bộ đội. Một lần khác ở Quảng đức, lính 302 bắt gặp xe Jeep của 1 thiếu tá, được ông tướng Nguyễn Văn Toàn quân khu 2, vua tham nhũng mà mình có kể về bài viết của tuỳ viên ông ta nói về vị chỉ huy của mình, đưa người đi thương lượng với Việt Cộng, trả tiền để cho người ông ta chặt cây bán cho ngoại quốc không bị phá. Trinh sát 302 bị phát hiện nên bắn chết cả Việt Cộng và ông thiếu tá khiến ông Toàn nổi điên, muốn bỏ tù thiếu tá Phong. Mất đâu 2 ngàn đô la. Ai buồn đời thì tìm đọc bài của vị sĩ quan tuỳ viên, mình có chép trong bài mình kể lại trên bờ lốc.


Nay mình mới hiểu vị trí của Việt Cộng trong thời chiến tranh vì khi xưa, cứ nghĩ họ núp bên Lào hay bên Cao Miên


Đà Lạt khi xưa có nhiều tiểu thương làm kinh tài cho bộ đội như cô Ba Chỉ tiệm Bình Lợi dưới chợ Đà Lạt, giữa 2 tiệm Lộc Sơn và Nguyễn Văn Ngạch, đối diện đồn cảnh sát. Sau 75, cô ta làm lớn ở Đà Lạt rồi bị về vườn. Nghe cô ta kể là trước 75, đi du lịch qua Thái Lan, gặp bà Nguyễn THị Bình để nhận được chỉ thị kinh tài ra sao. Ngoài ra có nhiều tiểu thương khác nhiều khi bị bắt buộc nếu không bị giết hay cho nổ mìn như vụ cây xăng Ngã Ba CHùa. Mấy người nằm vùng mua gạo muối đường và lương khô rồi chở vào bưng cho Việt Cộng. Lâu lâu mình nghe ngoài chợ kêu đường tăng bo hay ai đó bị Việt Cộng tịch thu hết hàng hoá. Sau này mới hiểu họ chở vào bưng rồi kêu bị Việt Cộng tịch thu đóng thuế để qua mắt chính quyền miền nam.


Mình kể có lần cô Ba Chỉ kêu mẹ mình vào tiệm nói có 100 bao gạo mới về, ai hỏi thì bán lấy lời nuôi con. Độ 1 tiếng sau, có người đến hàng mẹ mình hỏi có gạo không muốn mua 100 bao. Thế là mẹ mình nói có và bán giá cao hơn cô Ba CHỉ đưa, kiếm tiền nuôi con và trả nợ cho chồng đánh bài thua. Sau 75, bà hay đến mua gạo là nằm vùng, làm lớn lắm. Ông cụ mình đi tù nhưng nhờ cô Ba CHỉ và mấy bà khi xưa nằm vùng đỡ đầu nên tai qua nạn khỏi với đám CM 30 ở chợ cũng như ở xóm.


Mẹ mình có mua gạo của Địa Phương Quân nữa. Có ông đại đội trưởng nào ở Đà Lạt, hay kêu mẹ mình để bán gạo. Gạo của lính ông ta, chắc có nhiều lính kiểng nên ông ta dư gạo nên kêu bà cụ bán rẻ. Có lần ông ta nhận tiền mà không cho lính chở gạo ra chợ nên bà cụ đi đòi, không được thì lên vị chỉ huy của ông ta, thì được biết ông ta đánh bài thua nên kiện củ khoai. Ngoài ra có mua gạo của mấy bà sơ và ông cha nhà dòng. Mỹ viện trợ ăn không hết nên đem bán cho bà cụ. Mẹ mình không có môn bài đại lý bán gạo nên bán chui, phải đi mua hàng kiểu này để bán lại.



Có lần một ông tài xế quen ngoài chợ, hay chở hàng cho mẹ mình từ Sàigòn về, bị bắt bỏ tù cả năm khiến bà vợ phải thuê tài xế, lái xe hàng đi Sàigòn. Sau này bà ta sinh con, người ta đồn là con của ông tài xế vì không giống mấy đứa con khác. Chán Mớ Đời 


Lâu rồi mình có đọc bài báo của báo Hà Nội kể các người nằm vùng đổi tiền ngoại quốc đi nhiều ngõ từ Paris, qua Hương Cảng, Cao Miên,… trước khi đưa về Sàigòn.

Xin trích một đoạn của báo Hà Nội do tác giả cuốn sách về những con đường Trường Sơn đặc biệt.


Đến thời điểm hẹn trước, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vấn đề vận chuyển là đơn vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giấy tờ giao nhận, đóng thùng đặc chủng và chở đi. Trong giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá "sang trọng": 


Con đường thường xuyên và gian khổ nhất của đại bộ phận đôla vẫn là tuyến đường Trường Sơn, bằng xe tải quân sự và đường biển trên những chuyến tàu không số, cất giấu dưới hầm tàu hai đáy trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. 

Hành trình của các loại tiền kể trên từ Hà Nội vào Nam được phân bổ theo từng phân đoạn, theo quy định của trung ương: tiền tới địa chỉ nào thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm tiếp nhận và cất giữ. Trung ương phân bổ theo từng khu vực lớn là: Trị Thiên - Huế, Khu V, Tây nguyên, Nam bộ (B2)... Tại từng khu vực nói trên, việc cấp phát, phân bổ, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi, dưới sự lãnh đạo toàn diện của từng đảng bộ, với sự tham mưu chỉ đạo chuyên ngành là các ban tài chính hoặc ban kinh - tài trực thuộc. 

Khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ mà số do trung ương đã đổi và chuyển vào không đủ, phải tiến hành "chế biến" tại chỗ. Việc "chế biến" này được thực hiện theo phương pháp phân tán nhỏ lẻ để khỏi bị lộ (trung ương không chủ trương tích giữ dài ngày đồng tiền Sài Gòn, bởi từ sau năm 1970 sự mất giá của tiền Sài Gòn xảy ra liên tục, tỉ lệ mất giá ngày càng cao). Việc quản lý thu, chi, theo dõi hạch toán kế toán, kho quỹ được thực hiện rất chặt chẽ. Tại ban kinh - tài hoặc cơ quan ngân tín được đảng bộ từng khu vực giao trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác này, các bộ phận chuyên trách về kế toán và kho quỹ đều được thành lập. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán B.29.

Từ năm 1964-1965 chi phí cho miền Nam tăng lên rất nhiều, phương thức AM càng thêm khó khăn, tốn kém, kể cả sự hi sinh xương máu. Trong tình hình mới nó bộc lộ nhiều nhược điểm. Thứ nhất, Mỹ ra sức đánh phá các con đường trên bộ và trên biển, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển. Thực tế đã xảy ra một số lần đối phương ném bom trúng xe chở hàng, trong đó có các thùng đựng tiền, vỏ thùng đựng tiền tuy không bị cháy nhưng sức nóng của lửa đã làm phân hủy số đôla bên trong. Từ giữa thập kỷ 1960 tình hình chính trị của Campuchia bất ổn, đặc biệt từ khi có đảo chính của Lonnol thì con đường này cũng chỉ có thể được sử dụng một cách rất hạn chế. Thứ hai, việc "chế biến" lần thứ hai từ đôla ra tiền Sài Gòn cũng gặp khó khăn, không thể nào "chế biến" một cách nhanh chóng một số tiền quá lớn trên thị trường miền Nam.

Phương pháp mới 


Từ 1965, Trung ương Cục có chủ trương phát triển các cơ sở tại nội thành. Những cán bộ chủ chốt của Ban Tài chính đặc biệt đã được đưa vào nội thành để bám trụ. Hai cán bộ là Mười Phi và Nguyễn Thanh Quang (còn gọi là Năm Quang, tức Dân Sanh) đã nảy ra ý định "chơi theo luật chơi", nghĩa là sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng. 

Phát hiện bất ngờ này được đề xuất với trung ương. Sau đó được trung ương chấp thuận cho thực thi, gọi là phương pháp mới, ký hiệu là FM. FM là phương thức chi viện tiền cho miền Nam bằng chuyển khoản. Chuyển khoản có hai chiều: nhận và trả.

Khâu nhận: Tiền Z (tiền Sài Gòn) được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (tức N.2683), sau đó hoàn trả cho nhà cung cấp tại nước ngoài bằng đôla. Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của N.2683 trong nội thành Sài Gòn, có mật danh là C.130 do Dân Sanh đảm nhiệm. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài và ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng để cung cấp cho cách mạng nhưng lấy lý do để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp có những khoản lớn là tiền Z, không cần rút từ ngân hàng mà thu trực tiếp do bán hàng nhập khẩu. 

Tiền Z được giao tại những nơi quy ước là vùng giáp ranh ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn đi xa hơn, phân tán trong các kho nhỏ rồi tổ chức các chuyến ôtô đem đi. Phương pháp này được mang ký hiệu là FM vì FM vừa là tên gọi một kênh phát sóng ngắn hơn AM, vừa là chữ viết tắt của phương pháp mới (F: phương pháp; M: mới). Phương pháp này có nhiều thuận lợi hơn phương pháp AM: có thể giải quyết một vụ chuyển tiền lớn chỉ trong một ngày thay vì nhiều tháng hành trình đầy rủi ro của phương pháp AM, an toàn hơn, kín đáo hơn, không bị thiệt thòi do vấn đề tỉ giá, mà có trường hợp còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất phát sinh tại các ngân hàng (khoản lãi suất này trong mười năm tính ra tới gần 25 triệu đôla).

Để thực hiện FM cần phải có một hệ thống tổ chức rất tinh vi và dày công bố trí. Tại Hà Nội, bộ phận B.29 thuộc Vietcombank dùng các mật mã, điện đài để liên lạc với miền Nam và liên lạc với các ngân hàng trên thế giới để nhận và gửi các lệnh chi tiền, chuyển tiền. Bộ phận đó vẫn do ông Mai Hữu Ích điều hành và trưởng phòng thanh toán Nguyễn Nhật Hồng (còn gọi là Ba Hồng) trực tiếp phụ trách. 

Ở trong Nam, một bộ phận có bí danh là N.2683 do ông Mười Phi làm trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục phụ trách. Một bộ phận đặt tại Sài Gòn. Cơ sở này trực thuộc Trung ương Cục, gọi là Ban Công tác đặc biệt. Nó là một "đối tác" đặc biệt của B.29. Đầu mối và cũng là cơ sở của N.2683 là một đại thương gia có khả năng chi tiền mặt cho N.2683. Rồi theo thông báo của N.2683, B.29 lại chi trả cho họ bằng cách chuyển ngân vào tài khoản của họ ở các ngân hàng nước ngoài. 



Mình có quen một gia đình khi xưa giàu có ở CHợ Lớn, sau 75 thì ở Hải ngoại, có nhà ở Tây Ban Nha, ở Hồng Kông này nọ. Nên không biết khi xưa họ có chuyển tiền ra Hải ngoại bằng cách nào. Đưa cho nằm vùng Việt Cộng ở miền nam rồi họ ở ngoại quốc chuyển tiền vào ngân hàng Thuỵ Sĩ? Nay qua đời nên không biết hỏi ai.


Ông Mười Phi nhận định: "Đây cũng là một loại đường mòn Hồ Chí Minh nhưng không dùng ôtô, tàu thủy, máy bay hay đường ống nên không có vết chân nguời. Chỉ có những lệnh chuyển tiền thôi. Anh Phạm Hùng cho tôi danh sách năm người để tôi chọn. Tôi chọn anh Ba Châu và nhắc anh Phạm Hùng nên cho anh Ba Châu đi học thêm tiếng Khơme, học tình báo rồi hãy vào Phnom Penh giúp chúng tôi". 

Ông Lữ Minh Châu (Ba Châu) - phó Ban N.2683 - kể lại: "Chiến trường mở rộng, nhu cầu tiền càng nhiều, càng nhanh càng tốt và phải cung cấp cho nhiều nơi. Với biện pháp FM, nói cách khác, với hoạt động ngân hàng đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ tại miền Nam, chúng tôi "Ban Công tác đặc biệt" trực thuộc Trung ương Cục miền Nam với các loại bí số D.270 và N.2683, mà tôi là phó trưởng ban, anh Mười Thăng Long là trưởng ban, đã cung cấp các loại tiền nhanh chóng, đủ và đúng theo yêu cầu của Cục Hậu cần miền Nam".

ĐẶNG PHONG, tác giả cuốn sách nói trên. Ai buồn đời thì đọc để hiểu thêm về cuộc chiến Việt Nam ngày xưa.


Đọc tài liệu của Hà Nội nên biết thêm chút gì về cuộc xâm chiếm miền Nam:


Báo Thời báo Ngân hàng mô tả rõ vai trò của “Ngân hàng Ngoại hối” bí mật mang bí danh B.29, thành lập tại Hà Nội, tiếp nhận viện trợ quốc tế (USD, rúp, tệ…) rồi quy đổi và chuyển vào miền Nam thông qua hai đơn vị Ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam: N.2683 (Ban Tài chính đặc biệt) và C.32 (Ban Ngân tín R). Các cán bộ như Mai Hữu Ích, Nguyễn Nhật Hồng, Nguyễn Văn Phi… đã xử lý hàng tỷ USD quy đổi và gửi vào chiến trường qua Đoàn 559  .


Bộ Tài chính Việt Nam thông tin rằng nhiệm vụ chi viện miền Nam được đánh giá là cốt tử trong chiến lược giải phóng, đặc biệt trong giai đoạn 1964–1965, tập trung cán bộ ưu tú để vận hành dòng tiền chiến lược này  .


Trung tâm Lưu trữ Việt Nam tại Texas Tech (VNCA) lưu giữ hàng triệu trang tư liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam, bao gồm các báo cáo tài chính, ghi chép nội bộ ngành ngân hàng, chứng minh tính xác thực và quy mô tài chính vận chuyển trong kháng chiến  .


https://www.vietnam.ttu.edu/


Sơ đồ tổ chức vận chuyển tài chính


1. Ở Hà Nội – miền Bắc

B.29 (Ngân hàng Ngoại hối bí mật): tiếp nhận ngoại tệ viện trợ từ quốc tế tại các đầu mối như Hong Kong, Paris, London, Bắc Kinh. Mình có đọc một bài báo của Hà Nội phỏng vấn mấy người khi xưa, chuyển tiền từ Paris, qua Hương Cảng rồi về Sàigòn. Nay tìm lại không thấy nữa. Quá lâu nên nằm ở dưới các tài liệu mới.

Quy đổi và gom tiền vào kho Bắc, chờ lệnh vận chuyển.


2. Đường vận chuyển qua Đoàn 559

Tài chính được vận chuyển cùng lương thực, vũ khí… qua Lào – Campuchia. Đường mòn Hồ Chí Minh vận hành liên tục từ năm 1959 – đặc biệt quy mô lớn từ 1967–1971  .

Tiền được giấu trong thùng kín đặc biệt, chia nhỏ để giảm rủi ro. Có cả đường dẫn dầu phục vụ xe, hệ thống trạm nghỉ…


3. Tại miền Nam – Trung ương Cục

N.2683 (Ban Tài chính đặc biệt) và C.32 (Ban Ngân tín R): tiếp nhận tài chính từ Bắc chuyển đến, kiểm đếm, bảo quản rồi phân phối đến các chiến khu, vùng giải phóng  .

Giao liên địa phương, cán bộ cơ sở trong mật danh F.M (phương pháp mới) phối hợp kinh doanh bình phong để lấy tiền công khai từ hệ thống tài chính Sài Gòn, rồi chuyển về xuôi phục vụ cách mạng  .


Cho thấy Hà Nội có rất nhiều đường tiếp tế vào nam trong khi Việt Nam Cộng Hoà thì nhận viện trợ từ Hoa Kỳ rồi nhiều tiền quá nên tướng tá tham nhũng. (Còn tiếp)


Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Nguyễn Hoàng Sơn 



Những con đường Trường Sơn #2


Những con đường Trường Sơn #2

Khi Mỹ bảo kê cho Lon Nol truất phế ông Sihanouk, thì Hải cảng Sihanoukville không còn được sử dụng để nhập vũ khí của Liên Xô tiếp tế cho Việt Cộng nên Hà Nội phải tìm đường khác. Họ phải sử dụng con đường 559, nghe nói được thành lập tháng 5 năm 1959. Cho thấy Việt Cộng đã tính xa việc đánh phá Việt Nam Cộng Hoà bằng vũ lực từ lâu. Họ phải tạo ra một vùng đất ngoài vòng kiểm soát của chính phủ Lonnol.

bản đồ các con đường Trường Sơn tiếp vận từ Cao Miên, Lào để xâm chiếm miền Nam


Do đó họ Việt Cộng phải liên minh và phối hợp với nhóm Khờ me đỏ, chống đối chính quyền Lonnol, để tiến hành các chiến dịch đánh phá các tỉnh miền đông Việt Nam Cộng Hoà, qua các vùng như SIÊM Reap, STUNG TRENG. Từ đó vũ khí từ con đường 559 từ Hạ Lào đưa vũ khí vào đất Campuchia và các vùng biên giới. Họ thành lập đoàn 770 chuyên chuyển hàng từ miền đông Bắc Cao miên về Việt Nam Cộng Hoà. Nghe nói có đến 3,377 người, được chia thành 5 cánh chuyên chở bằng xe vận tải lớn.


Năm 1970, khi Lonnol lên nắm chính quyền thì người Mỹ cho phép Việt Nam Cộng Hoà đánh vào các sào huyệt của Việt Cộng tại biên giới. Dạo ấy có nạn cáp duồn sát hại người cao miên gốc việt. Nên quân đội Việt Nam Cộng Hoà tiến qua biên giới nhân danh bảo vệ người Việt đánh Việt Cộng tơi bơi hoa lá. Ông tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy, ông ta cho truy kích Việt Cộng chạy về phía Bắc, Hạ Lào nhưng Hoa Kỳ không chịu, cuối cùng trực thăng của ông ta nổ trên trời.


Việt Cộng đem quân và vũ khí từ Hạ Lào xuống do đoàn 340 phụ trách. Đoàn 340 này được xem là lớn nhất trong các đoàn tiếp liệu, có đến 4,189 người, gồm 4 cánh quân nhu, 3 tiểu đoàn vận tải, 5 liên trạm nối liền từ Stung TRENG xuống Khatie. Hồi đi cao miên, mình không biết vụ này, nếu không chắc cũng bò đến mấy vùng này để xem. Họ thành lập 4 bệnh viện và một đoàn công binh để xây cầu, làm đường… năm 1970-1972, trên tuyến đường này Việt Cộng chuyên chở đến 26,147 tấn vũ khí các loại, song song họ đưa hàng nghìn cán bộ và bộ đội vào miền nam. Trong đó có ông chú ruột mình, bị B52 dập chết trên đường Trường Sơn.


Ngoài ra họ có thành lập một con đường Trường Sơn đặc biệt về hàng không, mang tên Đoàn 919. Đoàn này được thành lập vào tháng 2 năm 1960, nhằm rút ngắn đường tiếp tế vào miền Nam. Họ sử dụng phi trường Cát Bi ở Hải Phòng. Tàu bè Liên Xô chuyên chở vũ khí cập bến và đưa thẳng lên máy bay. Lúc đầu họ thả dù xuống các vùng như Mường Phìn, Mường Phalan... nhiều khi phải bay thấp để thả luôn các thùng vũ khí xuống vùng này. Sau này họ cùng Pathet Lào chiếm đóng các vùng này nên sử dụng phi trường Chepone, Hạ Lào mà khi xưa mình hay nghe đài truyền thanh nói đến. Việt Nam Cộng Hoà gọi là Hạ Lào, còn Việt Cộng gọi là Nam Lào. Họ đưa quân và vũ khí xuống mấy phi trường này. Từ đây bộ đội tiến vào Nam còn hàng hoá thì được Đoàn 559 chuyển vào Nam qua các trạm Tăng Noong thuộc Quảng Nam, Đắc LAn thuộc Kon-Tum….



Theo tài liệu Việt Cộng thì “Trong ba năm từ 1960-1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của đoàn 919 phối hợp với phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng xuống 20 địa điểm khác nhau trên đất Lào.” Nhưng chỉ tồn tại được đến năm 1963. Lý do là từ năm 1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên tâyTrường Sơn được nữa. Chỉ từ đầu năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về VN, nhiều vùng chiếm đóng đã hình thành ở miền Nam, hình thức vận chuyển hàng không quân sự mới lại được sử dụng rộng rãi. Cho thấy sau hiệp định Paris thì Việt Nam Cộng Hoà bị Hoa Kỳ cúp viện trợ trong khi Liên Xô gia tăng viện trợ cho Việt Cộng. Tính từ 1960 cho đến kết thúc chiến tranh tháng 4-1975, đoàn 919 đã vận chuyển vào miền Nam và xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, không biết mỗi lượt như vậy là bao nhiêu bộ đội, không nghe họ nói. 31.000 tấn vũ khí đạn dược, khí tài, lương thực, thuốc men và hàng hóa quân sự...


Trích tài liệu của Hà Nội 

“Vận tải hàng không dân sự là hình thức vận chuyển công khai nhưng lại tuyệt mật. Đó chính là tuyến vận tải hàng không dân dụng bình thường của Vương quốc Campuchia (Air Cambodia) bay từ Phnom Penh đi Hà Nội, hoặc từ Phnom Penh đi Quảng Châu, Hong Kong rồi theo đường sắt hoặc đường hàng không về Hà Nội. Sở dĩ công khai vì nó sử dụng một loại đường bay thương mại bình thường như mọi đường bay khác. 

Nhưng cũng là tuyệt mật vì nó gài vào trong đường bay bình thường những "hành khách" không bình thường. Máy bay của Air Cambodia được quyền bay ngang lãnh thổ miền Nam VN, cũng như máy bay của Nam VN được phép bay từ Sài Gòn qua không phận Campuchia để đi Bangkok, Tây Âu. Con đường này rất an toàn, vì nó là sự mạo hiểm được bọc lót dưới một hình thức công khai hợp pháp. 

Tất nhiên đó là sự mạo hiểm được tổ chức rất chu đáo: từ căn cước giả, tên giả, đến lai lịch giả đều có một bộ phận chuyên trách thu xếp, sử dụng đến những phương tiện hiện đại bậc nhất lúc đó. Khi đã có đủ giấy tờ hợp pháp, lại phải bọc lót suốt từ khâu soát vé đến khâu kiểm tra hành lý. Tại đây đều có người của "Ban cán sự K". Loại nhân viên này thường không phải là cán bộ cách mạng mà là những nhân viên có lý lịch rõ ràng, không có chút gì khả nghi. Thường đó là người Hoa, người Ấn, người Lào, người Khơme... có cảm tình với cách mạng VN. Đã có hàng ngàn cán bộ cao cấp đi ra đi vào miền Nam bằng con đường này, tức là bay qua không phận của miền Nam VN, mà chưa xảy ra một vụ nào rắc rối. 

Con đường này cũng đã đảm nhiệm vận chuyển những tài liệu, khí tài quan trọng như máy móc, điện đài, hàng triệu đôla để chi viện cho miền Nam. Những gia đình và con em cán bộ miền Nam cũng đi ra Bắc bằng con đường này. Đặc biệt là việc di chuyển hàng ngàn học sinh Trường Nguyễn Văn Trỗi ra Bắc theo tuyến hàng không này. Những bệnh binh, thương binh, những người ốm nặng... thường cũng được đưa theo con đường này để kịp thời ra Bắc chạy chữa, an dưỡng... 

Một trong những nhân viên lữ hành (người làm khâu quan trọng và nguy hiểm nhất như kiểm tra vé, căn cước, visa, nhận diện, cân hành lý...) ở sân bay Pochentong là ông Check Nguyễn Cang, một người Ấn Độ lai VN. Ông có cha là một thương gia lớn người Ấn Độ tại Sài Gòn từ lâu đời, lấy vợ VN và có nhiều con. Ông Cang đã bí mật hoạt động cho Việt Minh từ thời kháng chiến chống Pháp, dưới cái vỏ là một viên chức làm cho Air France ở Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève, đến năm 1955, ông sang Phnom Penh làm cho Air Cambodia với cái tên hoàn toàn Ấn Độ là Check Kesath. Với một lý lịch như thế ông không bị ai để ý. Nhưng ông là một trong những đầu mối chính lo các giấy tờ, đồng thời cũng là nhân viên cửa ga.

Ông hoạt động ở đó suốt những năm chiến tranh, cho đến tháng 3-1975 không may ông bị chính quyền Pol Pot phát hiện và thủ tiêu. Em ruột của ông Nguyễn Cang là Kamal Nguyễn, bác sĩ tại bệnh viện thành phố Lille (Pháp), cũng là chủ tịch Hội Việt kiều tại đây, kể lại: "Anh tôi đã hoạt động cho Việt Minh ngay từ những năm 1950, chuyên lo việc đưa người của mặt trận lọt qua hệ thống kiểm soát của sân bay để bay về Hà Nội và từ Hà Nội bay sang Phnom Penh, rồi từ đó bí mật đi vào vùng giải phóng". Hết trích.


Mình đang tìm kiếm xem số lượng khí tài của Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà để so sánh với Liên Xô viện trợ cho Hà Nội từ sau hiệp định Paris. Hoa Kỳ tuân theo những gì đã ký trong khi Hà Nội và Trung Cộng thì không. 


Dưới đây là thống kê ước tính vũ khí viện trợ của Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc cho các bên tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, chỉ tính vũ khí và khí tài quân sự chính yếu (không bao gồm lương thực, nhiên liệu hay hạ tầng kinh tế).

1. Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)

Súng bộ binh

Hơn 2 triệu khẩu, gồm:

    • M1 Garand, M1 Carbine
    • M16A1 (khoảng 1 triệu khẩu)
    • Thompson, M3 Grease Gun
    • Súng ngắn M1911A1

Pháo binh:

  • Khoảng 12.000 khẩu pháo (gồm pháo 105mm, 155mm, 175mm, súng cối 60–120mm)

Xe tăng – thiết giáp:

  • ~2.000 xe, gồm:
    • Xe tăng M41 Walker Bulldog
    • Xe thiết giáp chở quân M113
    • Xe tăng hạng trung M48 Patton

Máy bay:

  • ~1.000–1.300 chiếc, bao gồm:
    • F-5 Freedom Fighter (~200 chiếc)
    • A-1 Skyraider, A-37 Dragonfly
    • Trực thăng UH-1 Huey (hơn 600 chiếc), CH-47 Chinook
    • C-47, C-130 vận tải

Hải quân:

  • Khoảng 1.500 tàu và xuồng chiến đấu, gồm:
    • Tuần dương hạm, tàu phóng lôi, tàu tuần tiễu
    • Tàu đổ bộ, tàu chỉ huy, tàu vận tải

2. Liên Xô viện trợ cho miền Bắc Việt Nam

Súng bộ binh:   Xã c

  • Khoảng ~500.000 khẩu, gồm:
    • AK-47 (Type 1–2–3)
    • SKS, Mosin-Nagant
    • Súng ngắn Tokarev TT-33

Pháo binh:

  • Hơn 6.000 khẩu, gồm:
    • Pháo D-30 122mm, M-30 122mm
    • Cối 82mm, 120mm
    • Pháo cao xạ 37mm, 57mm, 85mm

Tên lửa & phòng không:

  • ~7.000 quả tên lửa SA-2 Guideline
  • Tổ hợp radar điều khiển bắn P-12, P-18
  • Hàng trăm bệ phóng và thiết bị điều khiển

Máy bay chiến đấu:

  • ~200–250 chiếc, gồm:
    • MiG-17 (~100 chiếc)
    • MiG-21 (~80–100 chiếc)
    • Huấn luyện phản lực L-29

Xe tăng – thiết giáp:

  • ~ 600–700 chiếc, gồm:
    • T-34/85
    • T-54, T-55
    • BTR-40, BTR-60 (thiết giáp)

3. Trung Quốc viện trợ cho miền Bắc Việt Nam

Súng bộ binh:

  • Khoảng ~1 triệu khẩu, gồm:
    • Type 56 (bản sao AK-47)
    • SKS, súng ngắn Type 54

Pháo binh – súng cối:

  • ~5.000 khẩu, gồm:
    • Pháo 75mm, 85mm, 122mm
    • Cối 82mm, 120mm
    • Pháo cao xạ 37mm, 57mm

Xe tăng – thiết giáp:

  • Khoảng 300–400 xe, chủ yếu:
    • Type 59 (sao chép T-54)
    • Xe thiết giáp Type 64
Trợ giúp khác:

  • Gửi hơn 320.000 quân công binh, phòng không, hậu cần (không trực tiếp chiến đấu)
  • Hàng chục ngàn tấn đạn, phụ tùng, công cụ kỹ thuật

Sơn đen nhưng tâm hồn Sơn trong trắng, nhà Sơn nghèo dang nắng Sơn đen 

Hắc sơn tử